Phía sau trang sách

Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ: Chúng ta tưởng mình đã biết hết về chiến tranh

“Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình”

Published

on

Tôi gấp cuốn sách lại trong một ngày giáp Tết, khi không khí của mùa xuân tràn vào nhà nhà, từng góc phố con đường. Nắng vàng nhưng không khí có chút se lạnh. Tôi nhìn đồng hồ, những vòng thời gian liên tiếp qua đi, cứ thế, đều đặn. Thời gian, tuổi trẻ, cuộc đời, con người,… tất cả tạo nên cuộc sống. Thật may mắn khi giờ đây chúng ta được sống trong hòa bình. Tiếng súng bom đã dứt nhưng đâu đó dư âm của nó vẫn còn.

Có rất nhiều câu chuyện, cuốn sách viết về chiến tranh. Ở Việt Nam tiêu biểu nhất có lẽ là Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh; ở nước ngoài lại có Những thứ họ mang của Tim O’Brien, Phía Tây không có gì lạ của Erich Maria Remarque, Cuộc chiến đã qua – Niềm đau và nỗi nhớ vẫn còn của Anthony Loyd, Hẹn gặp lại trên kia của Pierre Lemaitre,… Mỗi cuốn sách mang một câu chuyện, một góc nhìn, nhưng có bao nhiêu cuốn sách là lời của nhân vật nữ, câu chuyện của phụ nữ và góc nhìn nữ từ chiến tranh?

Ở Việt Nam, năm 40 Hai Bà Trưng đã cưỡi voi khởi nghĩa. “Từ thế kỷ thứ tư TCN, ở Athens và Spartes đã có phụ nữ chiến đấu trong những binh đoàn Hy Lạp. Sau đó họ tham gia các chiến dịch của Alexandre de Macédoine.” Thế nhưng, trong văn chương, ai mà muốn nghe đàn bà kể về chiến tranh khi những người đàn ông đã viết được những thiên sử chói loà? Ai đó bảo tôi: “Đàn ông kể về chiến tranh bằng chiến thắng, phụ nữ kể chiến tranh bằng cảm xúc.” Thực sự có đúng như người ta nói hay không? Tôi muốn tự mình kiểm chứng qua Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữ của nữ nhà văn, nhà báo Svetlana Alexievich. Đây là tác phẩm lệch giữa hai bờ vực: một nửa là văn chương, một nửa là báo chí. Nó giống như tuyển tập những câu chuyện đi trên dấu vết của đời sống nội tâm và ghi âm lại tâm hồn của những người phụ nữ trở về sau Thế chiến thứ hai, nơi cuộc chiến của những người phụ nữ có ngôn ngữ riêng của nó. Không phải lịch sử chiến tranh hay lịch sử nước nhà mà là lịch sử của những con người bình thường với cuộc sống bình thường, thời đại họ bị xô vào những biến cố khổng lồ.

Lúc Svetlana Alexievich tìm đến xí nghiệp kéo sợi, nơi một nữ xạ thủ bắn tỉa hiện đang làm việc thì đã nghe những người đàn ông bình luận: “Hết đàn ông hay để hỏi rồi sao? Tại sao cô lại cần đàn bà? Nghe họ nói mê… nghe chuyện đàn bà nạ dòng thì phỏng được gì…” Đến một gia đình khác, chồng và vợ đều tham gia chiến tranh. Họ gặp và cưới nhau ở ngoài mặt trận. Khi tác giả hỏi chuyện người vợ, ông chồng dặn bà: “Kể như tôi đã bày cho bà ấy. Không có nước mắt, cũng đừng có kể những chi tiết ngu ngốc, kiểu: ‘Tôi cứ muốn đẹp. Tôi đã khóc khi bị người ta cắt mất bím tóc.’” Người vợ đã thú nhận rằng: “Ông ấy đã nhồi nhét cho tôi suốt đêm cuộc Chiến tranh ái quốc vĩ đại. Ông ấy lo cho tôi. Ngay cả bây giờ nữa, ông ấy lo tôi không nói được các kí ức cần thiết.”

Hình như những người phụ nữ đã náu mình lãng quên trong chiến tranh. Những câu chuyện về họ vẫn chưa được kể, hoặc đâu đó một vài câu chuyện được kể nhưng là những người mẹ kể cho con, người bà kể cho cháu. Đó là những câu chuyện đậm dấu ấn cá nhân chứ chưa có một tổng quan đúng nghĩa thật sự ở phương diện xã hội.

Cuộc chiến tranh của những người phụ nữ có ngôn ngữ riêng của nó. Quả thật là đàn ông náu mình sau các sự kiện, chiến tranh thu hút họ; còn phụ nữ cảm nhận chiến tranh qua cảm xúc. “Cuộc sống của con người trở thành lịch sử và lịch sử được cắt ra thành hàng trăm, hàng ngày cuộc đời con người. Người ta bắn và người ta chết, người ta có lòng tin và người ta vỡ mộng.” Những mảnh ghép, những montage về mặt tự sự được ghi lại bởi Alexievich. Những buổi phỏng vấn với một máy ghi âm, một cuốn sổ, những người phụ nữ và câu chuyện được kể. Nó như một bộ phim tài liệu cảm xúc vẽ cuộc sống của những người phụ nữ Liên Xô trước, trong và sau chiến tranh.

Hành trình qua hơn 100 vùng từ nông thôn đến thành phố, các khu dân cư, làng mạc, những gương mặt phụ nữ lần lượt hiện ra, họ kể những câu chuyện của họ, đủ các câu chuyện với các cung bậc cảm xúc, từ một cô bé 12, 13 tuổi khi nghe tin chiến tranh, đến những cô gái 15, 16 khai sai tuổi để được đi đánh giặc, điều kiện sống thiếu thốn, chứng kiến cái chết, cứu người, lần đầu giết người (địch), những người mẹ đã hi sinh đứa con mình vừa mới sinh, tình yêu trong quân đội, ám ảnh lúc hoà bình,… tất cả đều được ghi lại với cái nhìn nhân bản nhất. “Tôi đã ghi âm hàng trăm câu chuyện, trên cái giá của tôi xếp hàng trăm băng cát xét và hàng nghìn trang in. Tôi chông tai và tôi đắm mình đọc.”

Cuốn sách là nỗ lực của tác giả và những thanh âm thầm lặng bấy lâu chưa một lần lên tiếng. Hồi ức của họ nhìn thẳng vào chiến tranh, nhìn thẳng vào cái chết, có những gương mặt chưa từng được kể, để khi biết chúng ta nhận ra mình sai khi nghĩ mình đã biết hết về chiến tranh. Chiến tranh bắt đầu khi “Sương còn chưa kịp khô trên lá cây mà người ta báo tin chiến tranh đã được tuyên bố, và giọt sương khi tôi đột ngột nhận ra trên cây khi người ta đột ngột báo tin chiến tranh thường trở lại trong tâm trí tôi khi ở ngoài mặt trận.” Cái khoảnh khắc đó, lúc cuộc sống vẫn đang bình thường, mặt trời rạng rỡ, cây ra hoa, cây ra lá, những giọt sương long lanh, thiên nhiên bỗng đối kháng với những gì đang xảy ra ngoài mặt trận, sống trong doanh trại, chiến đấu với quân thù thì chiến tranh vẫn là sự việc người ta không tin được và sững sờ khi nhớ đến giọt sương.

Và họ, những cô gái trẻ vì lòng yêu nước, họ bỏ lại tất cả. Những bím tóc dài bị cắt ngắn đi, những chiếc váy xếp cất vào tủ và khoác lên mình chiếc áo varơi cùng ủng chiến đấu, họ mặc những chiếc áo quá rộng, đi giày quá size. Họ trở thành những bác sĩ, y tá, xạ thủ bắn tỉa, xạ thủ phòng không, trung sĩ cận vệ, thợ máy không quân, điện thoại viên, lái xe, liên lạc, du kích,… họ có thể làm được tất cả, trong môi trường sống và điều kiện đầy những thiếu thốn. Thiếu ăn, thiếu mặc, ba ngày chỉ có bánh mì dã chiến để ăn, ăn đến rộp lưỡi lên không còn nói được, thậm chí chẳng có gì để ăn, chết đói.

“Người ta cắt tóc họ như con trai. Chi tiết ấy không ai quên nhắc lại: và bao giờ cũng là chuyện bím tóc dài bỏ lại trên sàn nhà bẩn thỉu của phòng tuyển quân. Người ta mặc cho họ bộ quân phục may cho đàn ông, áo khoác, ủng, vớ portianki, khó khăn tìm cho ra một kiểu hòa hợp coi được, rất thường cung cấp những thứ quá cỡ hai đến ba số. Ủng số 40 thay vì 36…”

Chiến tranh lúc đầu chỉ để dành cho đàn ông. Phụ nữ bị cuốn vào, môi trường quân đội mặc định người phụ nữ giống như những người đàn ông, chẳng có một chế độ riêng nào dành cho họ. Có những cảnh tưởng chừng như chẳng thể tưởng tượng nổi.

“Chúng tôi đi bộ bốn mươi cây số… cả một tiểu đoàn phần lớn là phụ nữ. Nóng chết người. Đến ba mươi độ. Nhiều cô gái đang có… Nói thế nào… cái thứ mà phụ nữ nào cũng có… chảy nhỏ giọt dọc chân… Người ta chẳng cấp gì cho chúng tôi cả, đúng không? Chẳng cách gì chữa được. Chúng tôi đến một điểm có nước. Chúng tôi nhìn thấy một con sông… và những cô gái ấy, tất cả họ lao xuống sông. Nhưng bọn Đức bên kia nổ súng ngay. Chúng ngắm chính xác… Chúng tôi cần tắm rửa, vì chúng tôi quá xấu hổ trước mặt đàn ông. Chúng tôi không muốn ra khỏi nước, và một cô gái đã bị bắn chết …” 1  

“Tôi sẽ không bao giờ quên cái ngày, sau một trận đánh trở về anh hỏi tôi: “Em có một cái áo ngực không? Mặc vào đi, xin em. Hãy để cho anh được nhìn em khi em mặc áo ngực.” Nhưng tôi chẳng có chiếc áo nào cả, ngoài cái áo varơi tôi đang mặc.”

Trong cái “nghề” nam tính là “chiến tranh”, họ vẫn là chính họ, họ vẫn giữ một lãnh địa bên trong mình, thậm chí một số người bảo vệ thiên tính nữ bằng cách thêu thùa, buộc ruy băng đỏ. Trong một lần hành quân, một nữ xạ thủ bắn tỉa rất giỏi vì muốn buộc sợ ruy bay đỏ giữa nền tuyết trắng màu đỏ nổi bật, cô đã bị quân địch phát hiện và bắn chết. Có vẻ như chiến tranh biến phụ nữ không còn là phụ nữ, khát khao làm đẹp bé nhỏ của họ, của nữ xạ thủ là được buộc chiếc ruy băng đỏ cũng là lí do cho cái chết của cô. Ngoài ấy, mọi cái đều ở cạnh nhau, cái cao cả và cái thấp hèn, cái bình dị và cái hung bạo, sự sống và cả cái chết. Tôi khám phá ra cái chết, nó đơn giản và chẳng có chút đắn đo nào.

Khắc nghiệt, ngả nghiêng, cán cân lịch sử tồn tại hay không tồn tại. Người phụ nữ đến với thế giới cùng thiên chức tạo ra con người, nhưng chiến tranh buộc họ phải giết người. Có nỗi đau nào hơn một người mẹ giết con? Người ta thường bảo bản năng làm mẹ mạnh hơn tất cả. Nhưng ở đây lí tưởng còn mạnh hơn.

“Cùng chúng tôi có một nữ điện báo viên. Cô vừa sinh dậy. Đứa bé còn rất nhỏ, phải cho bú. Nhưng người mẹ không đủ ăn, thiếu sữa là đứa bé khóc. Bọn SS 2 ở rất gần… Với cả chó. Nếu chúng nghe được, thì chúng tôi chết hết. Cả đội. Ba chục người… Cô hiểu không?

Chúng tôi có một quyết định…

Không ai dám truyền đạt lệnh của người chỉ huy nhưng tự người mẹ đoán ra. Cô nhận đứa bé địu trên người xuống nước và giữ hồi lâu… Đứa bé không còn rống lên nữa. nó đã chết. Và chúng tôi không ai dám ngước mắt lên nữa. Về phía người mẹ và bất cứ người nào trong chúng tôi…”

Người kiểm duyệt đã nói với tác giả rằng: “Tất cả những chi tiết sinh học này để làm gì? Cô hạ thấp người phụ nữ với thứ chủ nghĩa tự nhiện sơ đẳng. Người phụ nữ anh hùng. Cô tước vòng hào quang của họ. Cô biến họ thành phụ nữ tầm thường.

Chủ nghĩa anh hùng khiến con người ta chỉ nhìn được mặt hào quang. Nó không quan tâm đến sinh lí, sinh học, không chỉ có tinh thần bị thử thách mà cả cơ thể nữa – cái vỏ vật chất của con người. Tất nhiên, đó là những thứ trước giờ không ai kể đến cả. Họ đều kể về chiến thắng, về ánh hào quang, đồng nhất con người với lí tưởng, chiến tranh là nơi con người ta trở nên anh hùng. Những người phụ nữ trên kia, tất cả họ đều có chiến công của riêng mình, tất cả họ đều giỏi. Nhưng sao phải theo cái lối mòn kể về ánh sáng chiến tranh mà không phải là góc khuất đau thương? Trước khi là anh hùng, là hào kiệt, ai cũng là con người trước cả.

“Tôi có thể kể cho cô nghe tôi đã chiến đấu thế nào. Nhưng tôi đã khóc ra sao thì không thể. Cái ấy sẽ mãi mãi không nói được.

Cô là nhà văn. Hãy sáng tạo một cái gì đó. Một cái gì đó đẹp. Không tàn bạo như cuộc đời.”

Một đôi mắt trần chẳng đủ để nhìn tất cả và làm sao chỉ đơn thuần là sáng tạo không thôi, sáng tạo cũng trên cơ sở, căn cứ chứ, nhưng tôi biết, các bà ấy đã quá khổ, quá mệt mỏi khi nghĩ về nó rồi.

Hoà bình trở lại, nhưng ai đâu biết rằng vẫn đang còn một cuộc chiến đợi họ kể từ phút giây hoà bình. Chiến tranh có thật sự diễn ra một lần trên chiến trường? Những người lính trở về cuộc sống thường nhật nhưng không thể nào hòa mình với nhịp sống bình yên. Đó là lúc một nữ xạ thủ bắn tỉa mua bánh mì nhưng quên trả tiền vì họ đã quen với chế độ cấp phát. Cô ấy rất xấu hổ và chẳng biết làm sao để thoát khỏi những thói quen quân đội. Những người đàn ông không muốn lấy những cô gái từ chiến trường trở về, những bà mẹ cũng không muốn con trai mình lấy những cô gái đó, có người còn xé cả giấy tờ để không ai biết mình từng là chiến sĩ. Dù họ là những người anh hùng – những cô gái đã hi sinh tuổi trẻ, khát khao, máu xương của mình cho tổ quốc, quê hương và cả những con người đang xa lánh họ – thế giới vẫn không chấp nhận họ, lịch sử đang bỏ quên họ chăng hay họ đã bị tước đi một thế giới? Lục địa của những người phụ nữ, điều gì ngăn cản cái sự bình thường đến với cuộc sống của họ?

“Bà không có gia đình, tất cả người thân trong gia đình bà đều đã mất. Bà sống khó khăn, bà làm thuê các công việc nội trợ để có miếng ăn. Nhưng bà không cho ai biết bà là thương binh chiến tranh. Bà đã xé hết giấy tờ quân đội của bà. Một hôm, tôi hỏi bà: ‘Tại sao bà lại xé giấy tờ đi?’ Bà òa khóc: ‘Nhưng ai sẽ lấy tôi? – Ôi, đúng rồi, bà đã làm đúng.’ Nhưng bà càng nức nở: ‘Hôm nay, tôi lại cần chúng, các giấy tờ ấy. Tôi ốm nặng. Cô có hình dung ra không?’”

Những vết sẹo là những kỉ niệm chiến tranh, khi họ bay trên đầu mục tiêu thì ở dưới là địa ngục. Khi họ bắn địch thì kẻ chết tiếp theo cũng có thể là họ. Ngày mai đó, ai còn, ai đã mất. Có người may mắn trở về, còn lành lặn đủ tay đủ chân, có thể lập gia đình, họ vẫn còn người thân, nhưng có nhiều người không may mắn như vậy, họ trở về được người thân đưa cho xem giấy báo tử, cả những người mẹ không nhận ra con của mình, có những người sống cô đơn đến lúc chết, ôm theo tháng ngày những kí ức chiến tranh…

Ngực đỏ huy chương sẽ tốt hơn hay cỏ xanh nấm mồ sẽ tốt hơn? Thực sự chiến tranh chưa từng chấm dứt, vinh quang chỉ thuộc về những người lính vĩnh viễn bị chôn sâu…

Tình yêu là sự kiện cá nhân duy nhất trong chiến tranh. Tất cả những cái khác đều là của tập thể, kể cả cái chết. Nhưng tôi đồ rằng ngay đến cả tình yêu cũng chẳng còn lại bao nhiêu chất cá nhân nữa. Từ sâu bên trong nó, có lẽ cái sự tập thể hóa, xã hội hóa đã biến nó thành một mô-típ kiểu tuyên giáo – khi tình yêu bị đem đi phục vụ mục đích chiến tranh. Dù sao thì cái vỏ tình yêu cũng thật đẹp.

Chiến tranh không có một khuôn mặt phụ nữBạn nghĩ gì về nhan đề đó?

Ở cái vẻ bề ngoài, tôi cho rằng nhan đề hướng đến gì khác ngoài sự đề cao đến vô lý cái giá trị “đàn ông” của nam giới. Ớ đó, chiến tranh hiển nhiên không có khuôn mặt phụ nữ. Từ ngàn xưa, phụ nữ đã bị cấm (một luật bất thành văn nhưng rất hiệu quả) tham gia vào bất cứ công việc gì có tính chất xã hội: từ chính trị, quân sự cho tới chuyện học hành, khoa cử. Khi thời đại nông nghiệp thay cho thời nguyên thủy, khi hái lượm không còn là nguồn nuôi sống chính cho xã hội, vai trò của người phụ nữ bị xóa mờ đến cùng cực, và trong chiến tranh, nó hoàn toàn không hiện diện. Tôi cho rằng đó là sự bảo vệ của đàn ông dành cho phụ nữ mà sâu xa hơn, tôi đồ rằng đó là sự thương hại cho cái yếu đuối trời sinh của phụ nữ (đàn ông thường nghĩ vậy), cũng là để bảo vệ cho cái vị thế người chủ gia đình, đất nước, xã hội của nam giới. Plato từng nói rằng con người được cấu thành từ hai nửa nam và nữ, nhưng Chúa trời đã chia cắt chúng ra để rồi chúng mãi đi tìm nhau. Tôi thì cho rằng chính con người, chứ chẳng phải Chúa trời đã từ bỏ nửa kia của mình.

Ở đây có một phần là trong chiến tranh, người phụ nữ, cũng như nam giới đều cắt tóc ngắn, quân phục giống nhau, những người phụ nữ hi sinh thiên tính nữ của mình nên họ không còn là phụ nữ, mà cũng chẳng phân biệt nam nữ nữa.

Và một điều nữa, những câu chuyện ghi lại đều có tên, chức vụ của người kể, mỗi người một câu chuyện, một hoàn cảnh nhưng bạn có nhận ra rằng khi đọc chúng, ta không còn quá quan tâm đến tên tuổi, chức vụ của họ không? Những gương mặt của họ như bị xoá nhoà, dù ám ảnh về câu chuyện vẫn còn trong người đọc. Những người phụ nữ trở về thời bình thường xưng chúng tôi hơn là xưng tôi – có lẽ môi trường tập thể đã làm thay đổi họ nhiều.

Chiến tranh là thế, bao giờ cũng gieo đau thương lên mọi người, chẳng trừ một ai, nó cướp đi nhiều thứ và để lại nhiều ám ảnh. Ngày tháng máu tanh, đêm nằm mộng mị mơ về xác chết nơi chiến trường của quân thù và những người đồng đội. Bác sĩ nào có thể chữa khỏi cho họ? Họ bị bệnh gì? Họ nằm mơ những gì và có thể không mơ về chiến tranh không? Làm sao để trở lại một cuộc sống bình thường như những con người bình thường… một cách thực sự.

“Sau chiến tranh tôi mất nhiều năm để xua đi mùi máu. Nó bám theo tôi khắp nơi. Tôi giặt quần áo, tôi nấu ăn, nó vẫn ở đấy… Có ai cho tôi một cái áo sơ mi màu đỏ, thời thiếu vải ấy là của rất hiếm. Nhưng tôi không bao giờ mặc, nó khiến tôi buồn nôn. Tôi không thể đi mua đồ ở các cửa hàng nữa. Ở quầy thịt, nhất là vào mùa hè… Và nhìn thấy thịt gia cầm… Cô hiểu đấy… Nó rất giống… Nó cũng trắng như thịt người…”

Cái ta thấy và hiểu về chiến tranh tổng quát hơn là cuộc sống và cái chết. Cuốn sách một đóng góp lớn cho dòng văn học hậu chấn thương. “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” 3. Vậy nên người lính, những người phụ nữ trở về sau chiến tranh họ lại có một cuộc chiến khác, trong tâm trí họ không có được hoà bình. Chúng ta nhìn chiến thắng bằng hào quang, vậy ai sẽ nhìn những khuôn mặt con người đây? Những người lính hay những người phụ nữ, ai cũng có quyền được hạnh phúc, họ sinh ra trên cuộc đời lẽ ra là để yêu và được yêu. Chiến tranh sau cùng nó cũng là một thử thách, nó tồn tại như sự bất tận của nhân loại vậy, có vận hành, có thay đổi, có phát triển, tất cả những vận hành đôi khi xỉn màu của lịch sử, chiến tranh trở thành bình thường của bình thường và con người đôi khi cũng chỉ là công cụ để chiến đấu. Thời đại đã tạo nên những con người như thế.

Tôi đã nói với mẹ tôi rằng tôi muốn cắt tóc ngắn, mẹ tôi không đồng ý. Thật ra tóc của tôi, tôi nghĩ mình muốn làm gì cũng được, nên… tôi đã cắt, nhưng không ngắn lắm. Vì đọc xong cuốn sách, tôi đã suy nghĩ lại khá nhiều thứ, về cả chiến tranh, về câu chuyện của những người phụ nữ đó, về tính nữ bên trong con người mình, và các thứ khác. Tôi hi vọng bạn sẽ một lần đọc nó, và viết nên cảm nhận của riêng mình.

Cảm ơn vì bạn đã đọc bài viết.

Hết.

Hoàng Anh

Chú thích:

  1. Là phần bị kiểm duyệt
  2. Bọn SS (Schutzstaffel)  “đội cận vệ” là tổ chức vũ trang của Đảng Quốc xã, mặc đồng phục màu đen nên còn được gọi là “Quân áo đen” để phân biệt với lực lượng SA là “Quân áo nâu”.
  3. “Mẹ kiếp, hòa bình chẳng qua là thứ cây mọc lên từ máu thịt bao anh em mình” là câu nói trong Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh.

Tất cả ảnh trong bài viết đều là của người viết.

21.06.2019


Đọc những bài viết của Hoàng Anh


Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng