Trà chiều

Battle Royale – Dù là thực hay mơ, chúng ta vẫn sẽ sống…

…. cho đến khi chúng ta thôi không sống.

Published

on

“Cho dù là bao xa đi chăng nữa, hãy chạy hết sức cho những gì mà mình xứng đáng. Chạy thôi.”

Thế rồi Shuya và Noriko cùng chạy đi về con đường phía trước, không biết con đường ấy có dài rộng hay không, nhưng họ vẫn cứ chạy đi, cũng không còn cách nào cả. Đó là câu thoại cuối cùng của Battle Royale. Song bộ phim vẫn chưa kết thúc ở đó. Sấn khấu khép vào rồi lại mở ra, cảnh đầu tiên: cảnh đội bóng rổ lớp 9B thi đấu trong sự reo hò của những cô bạn gái, cảnh thứ hai: một cậu bé hứa với người bạn thân rằng cậu ấy sẽ bảo vệ người con gái 2 người cùng yêu, cảnh thứ 3: một vị thầy giáo trò chuyện cùng cô học trò của mình, trên tay hai người là hai cây kem cắn dở.

Ba khúc Requiem vang lên, cứ như thể đó là một bộ phim thanh xuân tươi đẹp đến não nề, cứ như thể nó là câu chuyện về một tình yêu rất ngây ngô, với một chàng trai và một cô gái đứng chung dưới một chiếc ô.

Không hiểu sao, mình cảm thấy từ đầu đến cuối, Battle Royale đã luôn bình thản như thế và xao xuyến như thế. Và khi đến hồi kết, mình tắt đi và cảm thấy yên lòng. Nếu là giờ này một năm trước, hẳn là mình sẽ bị những thước phim ấy ám ảnh vào cả giấc mơ, mình sẽ cảm thấy hoài nghi thế giới, mình sẽ đau khổ rút ra kết luận rằng: người ta không thể cứ tốt mãi được, sẽ đến lúc người ta phải trở nên xấu xa thôi. Rồi mình lại giở ra những câu thơ của Lưu Quang Vũ, càng đọc càng thấy thấm thía hơn:

Tôi khát khao yêu người
Mà không sao yêu được
Cuộc đời như một bà già dâm đãng
Một núi dây thừng bẩn thỉu rối ren
Tôi chán cả bạn bè

Nhưng mình đã xem nó vào lúc này, cho nên tất cả những gì mình thấy chỉ là một sự bình tâm đến lạnh lùng. Đời sống lạnh tanh như vậy đấy.

Cho những ai chưa xem, Battle Royale có thể khiến bạn nghĩ tới Chúa ruồi của William Golding, hoặc Đấu trường sinh tử của Suzanne Collins. Nhưng nghe nói Đấu trường sinh tử từng bị cáo buộc đạo nhái lại tác phẩm của người Nhật, còn cá nhân mình thấy Chúa ruồi, dù đã là một sự hạ nhục truyền thống, cũng không thể nào phức tạp bằng. Battle Royale kể về lớp 9B của một trường trung học, trong một lần đi dã ngoại, bị người thầy giáo cũ mà họ từng đối xử không ra gì, Kitano, bắt đưa tới một hoang đảo. Ở đây, họ bị buộc phải tham gia vào một trò chơi sinh tử: 42 người được trang bị vũ khí và tìm cách triệt hạ lẫn nhau. Sau 3 ngày, người duy nhất còn sống sẽ là người chiến thắng. Nếu còn hơn 1 người còn sống, tất cả sẽ chết.

Bạn mình bảo xem phim này không ăn được cơm. Có thể vì nó có những cảnh chém giết dã man quá, mà lại toàn là những cô cậu học trò đâm chém nhau, giá như là một nhóm những kẻ to cao lực lưỡng trong phim điện ảnh Mỹ, thì có khi nó đã chẳng ghê tới mức ấy. Người lớn giết nhau thì không sao, vì ai cũng biết người lớn sẵn sàng giết nhau. Nhưng Không ai nghĩ trẻ con sẽ giết nhau, cho nên họ mới sợ. Cái gì người ta không ngờ tới thì người ta sợ.

Thỉnh thoảng giữa bộ phim, một nhân vật nào đó lại đặt ra một câu hỏi, kiểu như: Chúa ơi, tôi có thể nói thêm một điều nữa không? hay Làm sao tớ có thể biết? Em nói xem, một người lớn biết nói gì với một đứa trẻ con trong tình huống này đây? Đại khái, dù là trẻ con hay người lớn, đều có thể buột miệng nói ra những câu hỏi ấy, cùng một câu hỏi, nhưng vào những lúc khác nhau trong đời, những câu trả lời lại chẳng giống nhau.

Ngày trước cứ nghĩ có thiện và ác. Rồi sau đó mấy năm, lại tin chắc rằng cái thiện và cái ác lẫn lộn đan xen, như vì có ánh sáng mà có bóng tối, và vì có bóng tối mà ánh sáng mới ra đời. Nhưng giờ này, ngồi xem Battle Royale, mình lại nghĩ: có khi chả có cái gì là thiện, mà cũng chả có cái gì là ác. Chả có ánh sáng mà cũng chả có bóng tối. Khi ai đó làm một việc gì đấy, nó không xuất phát từ lương tâm phải trái, mà việc đó chỉ diễn ra bởi vì mọi thứ trên đời phải diễn ra. Không diễn ra, nó không tồn tại. Chỉ có sự diễn ra là quan trọng. Tất cả những thứ đạo đức, phi đạo đức, tất cả chỉ là những khái niệm mà loài người tự ngồi bịa đặt với nhau.

Nhìn xem, Shuya phải giết người khi đã đến lúc phải giết người. Những người bạn khác của cậu cũng như vậy thôi. Còn thầy Kitano có điên đâu? Ông ấy thích ăn bánh quy. Noriko nói thầy Kitano có vẻ cô đơn lắm. Quên đi những ranh giới mà người ta quy ước đi, quên hết đi, nào là thiện, nào là ác, nào là người lớn, nào là trẻ con. Người lớn nào chả từng là trẻ con, trẻ con nào chả sẽ là người lớn. Nếu một đứa trẻ là tốt như thế, làm sao sự trưởng thành lại biến nó thành kẻ xấu xa? Sự trưởng thành không nhẽ không phải bản chất hay sao? Nếu nói bản chất của con người là tốt, vậy thì cũng có thể nói bản chất của con người là phải từ tốt thành xấu, cho nên bản chất đích thực chính là sinh ra để trở thành người xấu. Để giải thích cái mâu thuẫn ấy, tốt nhất cứ nghĩ là không có xấu hay tốt trên đời này cả. Và những đứa trẻ con cũng có thể giết người. Hoàn toàn không phải vì chúng độc ác. Mà chỉ vì khi đến lúc cần làm, người ta phải làm. Còn khi cần phải làm mà lại không làm, cách duy nhất là tự vẫn, như một nhân vật nào đó trong Battle Royale đã nói: nếu không muốn giết ai, thế thì cậu đi chết đi.

Lâu rồi mình mới xem một bộ phim thanh thoát như Battle Royale. Không phải kiểu thanh thoát của một nhà làm phim nghệ thuật, say ngủ giữa những mộng mơ, những luồng ánh sáng, những nỗi hoài niệm ủy mị và lãng mạn. Battle Royale thông minh như điện ảnh Mỹ, tinh tế như điện ảnh châu Âu, siêu thực như người Tây Ban Nha, ướt át như người châu Á, cô đơn như người Nhật. Nó thanh thoát vì nó có tất cả những sắc thái ấy, sắc thái nào cũng thật phi thường. Nó chẳng giống như cuộc đời, cũng chẳng giống một giấc mơ. Nó hoàn toàn không phải thực lồng trong mơ hay mơ giữa đời thực. Nó chỉ là nó. Những chuỗi sự kiện diễn ra. Không có thiện, không có ác, và giờ, không có mơ, không có thực. Hãy chấp nhận đi. Bạn làm sao mà biết cuộc đời mà chúng ta ngày ngày vật lộn là thật hay chỉ là ảo ảnh? Hàng nghìn năm trôi qua, những nhà hiền triết sinh ra rồi chết, vậy mà cũng không ai chứng minh được. Không ai chứng minh được khi chúng ta tỉnh dậy là chúng ta bước vào thế giới thực hay chỉ đang lạc vào một cõi mơ khác. Là thực hay mơ cũng được, chúng ta chỉ biết điều cần làm vẫn là tiếp tục để mình trôi đi theo diễn tiến của thời gian. Chúng ta không biết sự vật lộn hàng ngày có ý nghĩa gì không, nhưng chúng ta vẫn phải vật lộn, vật lộn cho đến lúc không thể nào vật lộn được nữa. Đấy là điều duy nhất chúng ta có thể chắc chắn. Là điều duy nhất chúng ta có thể tin vào.

Battle Royale cứ như một bản giao hưởng vậy. Những đoạn cao trào, rồi những đoạn andante chậm rãi. Những cảnh rùng rợn máu me. Rồi ngay sau đó là cảnh người con trai ôm người con gái trong lòng, dưới buổi hoàng hôn, trên một cây cầu.

Cô gái: Cậu có thích người nào không Hiroki?
Chàng trai: Có.
Cô gái: Không phải tớ đúng không?
Chàng trai: Ừ, không phải.
Cô gái: Vậy thì, hãy ở bên tớ như lúc này. Sẽ không lâu đâu. Chúa ơi, con nói thêm một điều nữa có được không? Cậu ngầu lắm, Hiroki.
Chàng trai: Cậu cũng vậy. Cậu là cô gái ngầu nhất mà tớ biết.
Cô gái: Cảm ơn.

Rồi cô gái gục xuống vai chàng trai, trút hơi thở cuối cùng.

Đoạn đó chỉ diễn ra sau một đoạn tàn sát thật khủng khiếp. Rồi âm nhạc lại vang lên, Auf dem Wasser zu singen, một khúc nhạc thơ của Franz Schubert thế kỷ 19. Tiếng piano dạt dào, nhẹ bẫng như nước chảy. Lời nhạc kể về một người nằm trên con thuyền, nghĩ về thời gian trôi:

Ngày mai với đôi cánh nhòa mờ
Ngày hôm qua và ngày hôm nay, thời gian sẽ lại chạy trốn khỏi tôi
Cho đến khi tôi trên đôi cánh cao ngất rạng ngời của mình
Tự tôi sẽ chạy trốn khỏi thời gian thay đổi

Tất cả đều là thời gian, thứ đánh dấu những sự kiện tiếp nối. Không cần lí do, không cần hệ quả, chỉ là những đoạn thời gian nối liền với nhau, cuốn con người đi theo dòng chảy mãi không bao giờ đứt đoạn. Có phải Gabriel Garcia Marquez từng nói: “Đừng khóc khi một điều gì đó tới, mà hãy cười lên vì nó đã tới.” không? Chỉ cần biết rằng sẽ đến một lúc, cái cần diễn ra sẽ diễn ra, có ai ngăn cản được nào?

Những khoảnh khắc đẹp nhất luôn song hành cũng những khoảnh khắc tồi tệ nhất. Có thể hiểu rằng cái đẹp sinh ra từ cái tồi tệ cũng được. Người ta cứ nghĩ cái đẹp phải xuất phải từ một tâm hồn lương thiện ngây thơ, không phải thế đâu, bên trong một cục cứt cũng có thể có một ý thức hệ để sản sinh ra cái đẹp đấy. Nhưng điều này không phải ai cũng hiểu. Những giai điệu thanh thoát như Blue Danube Waltz giữa một cảnh đầu rơi máu chảy, thì sao? Vẻ đẹp của Blue Danube sẽ không bao giờ bị lấm lem, cảnh giết người cũng không bao giờ trở nên lãng mạn. Chi bằng tốt nhất lại nghĩ, chẳng có cái gì đẹp đâu, và chẳng có cái gì xấu, một vật chỉ là một vật như nó vốn thế. Như ở đoạn đầu phim, giữa một nước Nhật hỗn loạn, lớp 9B vẫn đang chơi bóng rổ, họ nói:

Cuộc sống ngoài kia thế nào thì chúng ta ở đây vẫn đang hạnh phúc.

Không có điều gì đúng hơn. Thế giới ngoài kia ngày ngày họ giết nhau bằng súng đạn, một số người phát cuồng về những diễn biến chính trị mới nhất trên biển Đông, tất cả mọi thứ kiểu kiểu như thế. Nhưng tất cả chỉ nằm ở bên ngoài ô cửa sổ. Khép cửa vào, chúng ta biết mình đang hạnh phúc. Ai hạnh phúc thì vẫn hạnh phúc. Ai không, vẫn không. Không cần phải tỏ ra mình có những mối quan tâm to lớn, cuộc sống của mình, ít ra là mình, không nằm ở nơi nào đó xa xôi, nó chỉ nằm ngay tại đây, với chiếc màn hình máy tính trước mặt, một bộ phim Nhật Bản 15 năm trước, với những nhân vật lần lượt giết nhau. Người chết đã chết. Người sống sẽ sống. Nó không hề giả tạo. Đừng cố gắng đau thương cho những điều chúng ta không hề cảm thấy đau thương. Ý mình không phải bảo những người cảm thấy đau thương là giả tạo. Ý mình chỉ là, cứ sống với cảm xúc thật của chính mình. Cho dù người ta có nói đó là một việc rất đáng buồn, nếu bạn không buồn thì cũng đừng nghĩ mình là đồ cặn bã. Như Midori trong Rừng Nauy đã không hề đau buồn khi mẹ cô mất. Hay như nhân vật chính trong 69 của Ryu Murakami, cậu nổi loạn không phải vì thật sự quan tâm tới diễn biến chiến tranh ở Việt Nam, mà vì cậu muốn lấy lòng Lady Jane của cậu.

Không phải vì một giây trước đó nhân vật cô gái trong Battle Royale là một kẻ giết người, mà sau đó lại trở nên lãng mạn ngây thơ trước chàng trai mà cô ấy yêu, thì có nghĩa một trong hai tính cách đó phải sai. Nó không hề sai. Tốt xấu đều chỉ là ảo tưởng. Đó không phải là sự phức tạp của con người. Đó chỉ là cách mọi thứ sẽ diễn ra. “Hòn đảo thật là tươi đẹp, cho dù nó là nơi mọi người đã chết.”. Noriko đã nói vậy khi sống sót trở về và nhìn hòn đảo từ đằng xa.

Mỗi người có đủ thứ để lo cho cuộc đời mình. Đừng trách họ nếu không đủ thời gian lo lắng cho người khác. Không có thiện, không có ác, không có thực, không có mơ, không có người lớn, không có trẻ con, không có đẹp, không có xấu. Không có gì cả. Cái duy nhất có là cuộc đời.

Và cuộc đời sẽ luôn tiếp diễn. Chúng ta chỉ có thể chạy về phía trước thôi.

Hết.

Hà Nội, ngày có thể là tận thế
Hiền Trang

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng