Phía sau trang sách

Bài thơ cho đứa con hay hỏi tôi rằng “Ba ơi, mình đi đâu?”

Từ cuốn sách “Ba ơi, mình đi đâu?” của tác giả Jean-Louis Fournier.

Published

on

Giới thiệu tác phẩm:

Ba ơi, mình đi đâu? là một câu chuyện buồn và hơn cả nỗi buồn nhưng lại không thấm đẫm nước mắt. Cuốn sách khiến người đọc cảm thấy đau nhói mọi nơi song không vùi sâu trong ủy mị. Bởi đó là cách lựa chọn của Jean-Louis Fournier trong suốt cuộc đời làm cha của mình. Uất hận, than trách cuộc đời, nổi điên lên hay buồn bã,… cũng không thể làm khác đi sự hiện diện của hai cậu bé luôn uống thuốc an thần mỗi ngày để yên lặng. Những đứa trẻ mắt nhìn không rõ, tai điếc, chân khoèo, lưng gù, xương yếu. Một đứa chỉ biết nhắc đi nhắc lại một câu hỏi “Ba ơi, mình đi đâu?”. Một đứa suốt ngày nghĩ mình là một động cơ nên cứ kêu “brừm, brừm”. Sống trong thế giới ấy, người cha cần phải làm thế nào?

Ông, Jean-Louis Fournier không giấu giếm những phút quẫn trí mình đã từng nốc rượu rồi phóng xe như điên để mong một tai nạn sẽ ập đến, từng có ý định vứt những đứa con ra ngoài cửa sổ. Ông chưa bao giờ nhận mình là một thiên thần để chịu đựng từng ấy nỗi niềm tan nát. Song người cha ấy không gục ngã. Hay nói đúng hơn hai đứa trẻ tật nguyền thúc giục ông cần phải vượt qua. Đó là cách người cha nhìn vào những thử thách khắc nghiệt bằng một cặp mắt khác. Đó là sự hài hước trong những điều cay đắng. Ông thấy các con mình không phải đi học, không phải nghe giảng, không phải làm bài kiểm tra, không phải chịu phạt. Ông nhìn thấy mình nhờ con được phóng những chiếc xe lớn, tránh được việc nộp phạt, có tiền từ trợ cấp tật nguyền của con, không phải lo lắng về định hướng nghề nghiệp tương lai…

*

Này con thân yêu!

Hôm nay bất chợt ba lại muốn viết một điều gì đó cho con, chỉ vì ba nhớ con rất nhiều, nhớ vô cùng, dẫu rằng con vẫn đang nằm ở đây, bên cạnh ba lúc này…

Con vẫn khỏe chứ? Chắc giờ này con đã say giấc rồi, một giấc ngủ an lành không mộng mị, ba vẫn luôn mong như vậy. Cứ ngủ cho thật ngoan con nhé, từ nay và về sau. Vì ba tin rằng, thiên sứ sẽ bên con, và những giấc mơ đẹp sẽ làm cho khóe miệng con mỉm cười. Con thấy không, bầu trời đêm rực rỡ giữa thiên hà, và ánh trăng vàng sẽ là chốn thần tiên để cho con an trú.

Con ơi! Dạo này mọi thứ xung quanh ba không được ổn cho lắm. Ba mệt nhoài với hàng đống công việc quẩn quanh, ba dường như muốn phát điên lên vậy. Con biết không, điều duy nhất mà ba muốn làm ngay bây giờ đó chính là được ôm con vào lòng, để ba có thể tìm thấy một chút ít hơi ấm nhỏ nhoi từ máu mủ của mình, dẫu ba biết con không hiểu điều đó. A, nhưng cũng chẳng sao cả. Con đừng lo. Vì dù cho con có hiểu hay không, thì điều đó vẫn cứ xảy ra như một quy luật tự nhiên của vũ trụ vậy. Rằng con là điều quan trọng nhất đối với ba. Rằng ba yêu con!

Con biết không, ba lại muốn nói thêm một điều nữa, rằng từ khi con còn nằm ở trong bụng mẹ, ba đã hồi hộp và mong ngóng để chờ đợi ngày được nhìn thấy con. Ba đã tưởng tượng ra đủ mọi viễn cảnh về hai cha con mình, rằng ba sẽ bế con trên tay, đong đưa qua lại như đang nâng niu một thiên thần nhỏ. Rằng đợi khi con lớn hơn một chút, ba sẽ tập cho con đi, dạy con nói và chơi đùa cùng con. Nếu như con đã đến tuổi đi học, ba sẽ là người đưa con đến trường. Những ngày cuối tuần, chúng ta sẽ cùng ngồi trên xe chạy ra vùng ngoại ô thành phố, cùng dã ngoại hoặc sẽ ghé đến thăm nhà một người quen nào đó. Khi con bắt đầu đến tuổi dậy thì, chuẩn bị trở thành một chàng trai đúng nghĩa, ba sẽ dạy cho con cách cạo râu và chia sẻ với con về những chuyện tình cảm tuổi mới lớn. Và rồi con sẽ vào Đại học, sẽ tốt nghiệp và có một công việc mơ ước, con sẽ thành một người đàn ông trưởng thành, có một cô vợ hiền lành rồi sinh cho ba những đứa cháu thật ngoan. Ôi, ba đã cười, cười hạnh phúc và sung sướng như vậy đấy. Vui đấy chứ, con nhỉ!

Thế nhưng, mọi viễn cảnh tươi đẹp ấy trong ba đều hoàn toàn sụp đổ khi mà ba nhận được tin từ bác sĩ rằng thiên thần nhỏ của ba không được bình thường, tức là không hề giống người khác, về cả mặt tâm lý lẫn sinh lý. Lúc nghe tin ấy, ba bàng hoàng vô cùng. Ôi cái chữ không được bình thường ấy nghe sao mà chua chát. Ba đã khóc, đã đau đớn và than trách với thượng đế rằng tại sao lại ban tặng cho ba một món quà kì lạ đến thế này. Nhưng rồi khóc cũng vậy thôi, đau đớn cũng vậy thôi. Cuối cùng ba cũng đành chấp nhận sống với thiên thần nhỏ của ba – là con đó – một cuộc sống không được bình thường.

Con không giống bất kì đứa trẻ nào lúc mới sinh ra cả. Mọi người đều gọi con là kì dị, khác biệt. Khi nghe thấy những lời nói đó, ba đau lòng lắm. Cái sự đau lòng vẫn âm ỉ và dai dẳng trải dài trong ba, mà dù ba có cố gắng chấp nhận hay cam chịu thế nào, đôi khi vẫn không thể nào tránh khỏi.

Ba đau lòng khi nhìn thấy con không chịu lớn.

Ba đau lòng khi nhìn thấy con không phát triển bình thường.

Ba đau lòng khi nhìn thấy con như một sinh vật lạ, một sinh vật mà người ta vẫn hay gán ghép bằng hai chữ “thiểu năng”.

Ba đau lòng khi mỗi ngày đều phải chứng kiến những điều quái gở đến từ con.

Tại sao suốt ngày con cứ hỏi mãi ba một câu, rằng “Ba ơi, mình đi đâu?”, dù cho ba đã kiên nhẫn trả lời con rất nhiều lần.

Tại sao suốt ngày con cứ tưởng mình là động cơ của một chiếc ô tô, kêu “brmm brmm” trông thật khó chịu.

Tại sao con không lanh lẹ như những người bạn cùng lứa, chạy ra ngoài và sút bay quả bóng lên trời.

Tại sao con cứ ngờ nghệch và ngu ngốc đến như vậy. Rồi đến bao giờ, đến bao giờ con mới chịu trở thành một người bình thường như những người khác?

Ba nghĩ, nghĩ nhiều lắm. Nghĩ nhiều đến mức mà ba đã từng cảm thấy vô cùng ghét cái cuộc sống này, và cả ghét chính ba. Đến cả một trò chơi cá cược đơn giản để đem về những đứa con bình thường như bao người bình thường khác mà ba còn làm không được, vậy thì ba còn làm được gì đây? Là do ba, ba xin lỗi về điều đó.

Và thật xấu hổ khi phải nói với con về điều này, rằng đã từng có lần trong những câu hỏi đầy chán ngắt của con, ba đã muốn lái xe chở con chạy đến vùng Alaska đầy gấu để mặc cho chúng xé xác mình ra, hay vào rừng hái những loài nấm độc để mang về ăn cùng với ốp lết, hay sẽ lao xuống một cái bể bơi cạn nước từ một cái ván trượt trên cao, hay sẽ nhảy ào xuống biển, đi trong cát lún, đi trong sa lầy, à, đi xuống địa ngục. Làm gì cũng được, miễn là chết quách đi cho xong. Cho cạn kiệt hết những khổ đau và mệt mỏi này. Chúng ta sẽ không còn tồn tại trên thế gian này nữa – một thế gian đầy rẫy muộn phiền và hoài nghi. Vậy đấy. Đến giờ phút này ba mới dám đủ can đảm để thừa nhận với con về điều này. Lại một lần nữa, ba xin lỗi con rất nhiều về những suy nghĩ này. Chỉ vì ba đau lòng quá. Chỉ vì ba mệt mỏi quá. Ba mong con sẽ tha lỗi cho ba. Vì trong đau khổ, hiếm có ai có thể tìm hạnh phúc cho riêng mình. Ba cũng chỉ là một người ba bình thường như những người ba khác, nhưng ba có con –  điều mà những người ba khác không bao giờ có được.

Cũng vì con không giống như bình thường, nên con trở nên khác biệt. Khác biệt một cách đặc biệt. Ba tin chắc rằng con sẽ có thế giới riêng của mình – một thế giới mà chẳng có bất kì ai hiểu được, một thế giới mà chỉ có mỗi mình con mới có thể chạm đến. Khi ấy, con được là chính con. Là máy bay, là ô tô, là mặt đất, là bầu trời. Là gì cũng được. À, là cả đứa con trai bé bỏng thương yêu của ba nữa. Ba vẫn luôn mong rằng mình đủ dại khờ để hiểu được cái thế giới của con, để cùng con chia sẻ và vượt qua được những điều mà con gặp khó khăn. Ba tệ quá, tệ quá phải không con!

Nhưng con ơi, bây giờ ba biết, rằng con chính là món quà tuyệt vời nhất mà thượng đế đã ban tặng cho ba. Một món quà mà ba không có quyền lựa chọn, chỉ có thể đón nhận mà thôi. Mà có sao đâu. Vì dù cho con có như thế nào đi nữa, thì con vẫn là con của ba. Con vẫn là đứa con trai tuyệt vời nhất, đáng tự hào nhất của ba. Nếu không có con, ba sẽ chẳng bao giờ biết được rằng mình chính là người cha kiên cường và mạnh mẽ nhất trên thế gian này. Một người cha biết yêu con bằng chính hơi thở của mình…

Nên con ơi, con cứ ngủ cho thật ngoan nhé! Có ba ở đây rồi, đừng lo! Dẫu thế gian muộn phiền và đầy đau khổ, thì cha con mình cùng vượt qua thôi. Ba vẫn tin vào sức mạnh của tình thân – thứ có thể khiến người ta vượt qua được tất cả. Con sẽ không bao giờ đơn độc và lẻ loi một mình trên cuộc sống này đâu. Dù chẳng còn ai bên cạnh con nữa, thì vẫn còn ba. Con đừng ngại mình trở nên khác biệt. Vì thiên sứ đâu cần phải giống một con người.

Ba sẽ là bàn tay của con.

Ba sẽ là đôi chân của con.

Ba sẽ là giọng nói, là tiếng hát, là ánh mắt, là nụ cười.

Là tất cả những gì con muốn.

À, ba có viết cho con một bài thơ. Con đọc đi nhé! Rồi ngày mai, nắng sẽ thắp sáng cả bầu trời, tiếng chim lại líu lo và cha con mình lại cùng nhau lên xe ra ngoài phố. Con sẽ hỏi, “Ba ơi, mình đi đâu?”. Và ba sẽ nói, “Đi về nơi có hạnh phúc!”

Cảm ơn con vì đã đọc được những điều ba nghĩ.

Ba yêu con, con trai thân yêu của ba!

“Ba ơi, mình đi đâu thế?”

Đi đến những cánh đồng xa

“Ba ơi, mình đi đâu thế”

Chúng ta sẽ trở về nhà.

Con vô tư con chẳng biết

Thế gian đáng sợ thế nào

Con ngây ngô con chẳng hiểu

Cuộc đời khó nhọc bao nhiêu.

Có những điều con muốn nói

Cũng chỉ ú ớ vậy thôi

Có những điều con muốn hỏi

Cũng không thể tả thành lời.

Thế nên con hoài bé nhỏ

Mặc cho năm tháng qua rồi

Thế nên con hoài yếu đuối

Tự mình đứng cũng không xong.

Con hay quên điều con nói

Cứ hỏi mãi ba một câu

Con hay quên điều con nghĩ

Mà con có nhớ được gì.

Con ơi, ba mệt mỏi lắm

Sao con không giống bình thường?

Ba mong con như người khác

Ba mừng, hạnh phúc bao nhiêu.

Đứa thì như một đứa trẻ

Tưởng mình là chiếc ô tô

Đứa thì tay chân ốm yếu

Làm chi cũng thấy khó nhọc.

Có khi ba như quẫn trí

Muốn cho lũ gấu xơi mình

Hay khi ăn loài nấm độc

Và rồi chết quách cho xong.

Ôi, sao mà ba ích kỉ?

Xin lỗi con, ba sai rồi

Vì con nào đâu có lỗi

Con tội nghiệp của ba ơi!

Con ơi, mình đi chơi nhé

Đi đến hạnh phúc cùng ba

Con ơi, mình đi chơi nhé

Có con, đâu cũng là nhà.

Chẳng sao đâu con bé nhỏ

Có ba đã ở đây rồi

Sẽ thương con như hơi thở

Như mặt đất rộng bao la.

“Ba ơi, mình đi đâu thế?”

Đi đâu cũng được con à

Miễn là con còn hỏi mãi

Miễn là ba vẫn được nghe…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Có thể bạn sẽ thích!

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng