Phía sau trang sách

Quá trình khai sinh “Frankenstein” của Mary Shelley: Đưa đứa trẻ trở lại với sự sống

Gặp lại quái vật Frankenstein sau mất mát của bản thân, sau khi biết thêm về cuộc đời của tác giả, tôi chẳng thể ngưng nghĩ về một hình hài sinh vật khác, một hình hài mà Mary Shelley hẳn đã nghĩ miên man trong mùa hè năm ấy.

Published

on

BRINGING THE BABY BACK TO LIFE

Mary Milstead

Mất đi ai đó bạn thương yêu đồng nghĩa với việc làm quen với sự trống vắng, mường tượng một hình hài từ thinh không. Khi người bạn yêu thương không thể sống một đời trọn vẹn – không thể trưởng thành, không có bạn bè hay công việc, không làm gì để lại dấu ấn trọn vẹn với thế giới – thì việc thương tiếc trở nên khó khăn hơn, cô độc hơn. Đây là cái chết ngoài dự liệu, vì vậy nó cũng đánh vào nỗi sợ hãi trong tim chúng ta, khiến ta thu mình lại.

Đứa con thứ hai của tôi, một cô bé tên Pearl, con bé đã không thể chào đời. Con bé ra đi mà chưa từng trải nghiệm một hơi thở. Như thế, xét về chuyên môn, thế giới khăng khăng rằng cô bé chưa hề tồn tại, thì thầm nhẹ nhàng vào tai tôi rằng quên đi sẽ tốt hơn. Nhưng tôi nghĩ khác. Việc để tang cô bé tựa như thổi những làn khói mờ ảo vào không trung – cô bé ở ngay đó, nhưng tôi là người duy nhất có thể nhìn thấy, trừ khi tôi khám phá đúng góc nhìn, đúng từ ngữ.

*

Khi viết Frankenstein vào năm 1816, Mary Shelley chỉ là một cô gái mười tám tuổi, đang trong kỳ nghỉ với người yêu và một vài người bạn. Câu chuyện nổi tiếng về cách cuốn tiểu thuyết kinh điển này ra đời là khi Mary và nhà thơ Percy Shelley, người mà cô sẽ kết hôn vào cuối năm đó, đang trú tại một ngôi nhà ở Geneva vào mùa hè, với Lord Byron và người chị kế Claire của Mary. Một đêm nọ, khi đọc chuyện ma cho nhau nghe, họ quyết định đưa ra một thử thách – mỗi người trong số họ sẽ viết một câu chuyện đáng sợ, và câu chuyện đáng sợ nhất sẽ chiến thắng. Mary, với câu chuyện về một con quái vật được khai sinh, là người chiến thắng.

Mary Shelley
Ảnh: Newsweek

Tôi không biết mình bao nhiêu tuổi khi biết về khởi nguồn của Frankenstein, nhưng tôi biết điều đó đã khiến tôi tò mò. Tôi là một cô bé thích viết lách, và tôi luôn bị cuốn hút bởi những thứ quái dị và kỳ bí. Mãi đến sau này, tôi mới biết Mary Shelley không chỉ là một thiếu nữ vô tư vào mùa hè năm đó. Tôi vẫn có thể hình dung cô như lần đầu tiên tôi hình dung cô – mỉm cười rạng rỡ và đáng yêu, uống rượu và ăn uống cùng bạn bè, chơi trò gia đình với người tình chưa li dị vợ, tình cờ viết nên một kiệt tác – nhưng cô cũng là một người mẹ đau khổ, thương tiếc cho cái chết của một đứa trẻ sơ sinh. Hơn hai trăm năm trước, băng qua đại dương rộng lớn nay chỉ có thể nhìn thấy trong những bức ảnh đen trắng cũ, đôi khi chúng ta vấp phải và đồng cảm với một sự mất mát lớn lao. Vào tháng Một năm ấy, cô đã sinh đứa con đầu lòng, một cô bé tên Clara. Đứa trẻ bị sinh non, và trút hơi thở cuối cùng vài tuần sau khi chào đời.

Khi tôi lần đầu tiên biết về tác giả của cuốn Frankenstein nổi tiếng, tôi đã bị cuốn hút bởi những tháng ngày trẻ tuổi và thành công khá sớm của cô. Và giờ, khi là một người mẹ đang để tang con, tôi lại phát hiện một người mẹ đau khổ. Gặp lại quái vật Frankenstein sau mất mát của bản thân, sau khi biết thêm về cuộc đời của tác giả, tôi chẳng thể ngưng nghĩ về một hình hài sinh vật khác, một hình hài mà Mary Shelley hẳn đã nghĩ miên man trong mùa hè năm ấy. Một Clara nhỏ nhắn, bé bỏng, hồng hào và bất lực, nằm trong một chiếc cũi cạnh Mary.

Vài tuần sau khi Clara qua đời, Shelley đã viết trong nhật ký của mình rằng: “Tôi có một giấc mơ, rằng đứa con bé bỏng của tôi đã sống lại một lần nữa – con bé chỉ bị lạnh và chúng tôi đã cọ xát với ngọn lửa, và thế là con bé sống lại – nhưng rồi tôi tỉnh dậy và chẳng thể tìm thấy con bé đâu. Tôi đã nghĩ về nó cả ngày.”

Điều tôi khao khát nhất trong những ngày đầu sau khi mất con là một cỗ máy thời gian. Tôi sẽ quay trở lại một vài ngày trước đó, khi mọi thứ đều ổn, và tôi sẽ cầu xin họ mang con bé ra khỏi bụng tôi ngay bây giờ, khi con bé vẫn còn sống và không bị mắc kẹt trong dây rốn của mình. Nếu chúng tôi biết sớm, chúng tôi có thể đã cứu con bé. Sự mãnh liệt của ham muốn này, cả sự bất khả thi của nó, chúng khiến tôi cảm thấy quái dị. Tôi nhớ có một lần, cực kì chi tiết, tôi tưởng tượng tất cả các cách để họ mổ bụng tôi ra và đưa con bé ra ngoài, nếu vậy con bé đã có cơ hội được sống. Tôi sẽ bất chấp trọng lực và thời gian, tôi sẽ trải qua bất kỳ nỗi kinh hoàng nào sẽ cứu con bé và để gia đình tôi được trọn vẹn.

Cái chết của một đứa trẻ buộc ta phải suy nghĩ về ý nghĩa của chính cái chết. Chẳng có gì đáng sợ như một cơ thể nhỏ bé, thinh lặng và cứng đờ. Nếu chúng ta không thể trưởng thành và già đi, thì tại sao chúng ta lại tồn tại? Mục đích của nỗi đau này là gì? Ai đó đã từng nói với tôi rằng, mỗi lần sinh nở là bước trên ranh giới giữa sự sống và cái chết. Điều khác biệt duy nhất giữa tôi và phần còn lại của thế giới, là bây giờ tôi sẽ luôn nhận thức được sự thật này.

Cuộc đời của Mary Shelley bắt đầu với nỗi đau về cái chết khi sinh nở – cái chết của mẹ cô, nhà văn và học giả nổi tiếng Mary Wollstonecraft, chỉ vài ngày sau khi cô được sinh ra. Những nỗi đau ấy thực sự không thể tưởng tượng nổi, cách nhau mười tám năm: mẹ cô, rồi con gái cô.

Nhân vật chính trong Frankenstein là một nhà khoa học; anh đã dành rất nhiều thời gian ở phần đầu cuốn tiểu thuyết để ngẫm nghĩ về ý nghĩa của sự sống và cái chết, mô tả những nỗ lực của anh để khám phá ý nghĩa của cuộc sống để chính anh có thể tạo ra nó một lần nữa. Đáng chú ý, cuộc tìm kiếm sự sống này lại đưa anh ta vào những nơi tối tăm nhất. Anh không đi đến những khu vườn nơi mà cây cối đang ra hoa kết trái, hay đến với những con suối nơi dòng nước tinh khiết đang tắm mát cho đất trời; anh lại đi đến các lò mổ, nhà cốt, ngôi mộ. “Tôi đã thu thập xương,” anh nói, “và bị xáo trộn, bởi những ngón tay tục tĩu, những bí mật to lớn của cấu tạo con người.” Chúng ta thưởng thức các trang văn xuôi bóng bẩy của Shelley về việc nghiên cứu sự phân hủy và cái chết, những phân đoạn vừa tuyệt đẹp vừa thô thiển. Đây không phải cầu nguyện, cầu vồng hay sức mạnh của hy vọng. Đây là sự chết chóc với tính lộn xộn vốn có, như Frankenstein nói với ta, “với sự háo hức không chút buông lỏng, tôi đã đuổi theo tự nhiên, đến cả những nơi ẩn náu của nàng.”

Tôi không thể biết liệu có phải những bận tâm của Shelley với việc giành giật sự sống từ cõi chết vốn xuất phát từ những mất mát của chính cô, nhưng tôi biết, kinh nghiệm của bản thân khiến tôi khao khát kiểm soát vũ trụ theo cách đặc biệt đó, để khai thác loại phép thuật có thể khôi phục nhịp đập của một trái tim đã chết. Bất kể khó khăn, bất kể cái giá phải trả. Mùa hè năm đó ở Geneva, bên cạnh những người bạn của cô, không còn nghi ngờ gì nữa, vẫn nặng trĩu những đau buồn, và rồi Mary Shelley bắt đầu viết Frankenstein. Khi cô hoàn thành cuốn tiểu thuyết, cô có thai lần thứ hai, vì vậy cô thực sự đã tạo ra sự sống trong cơ thể song song với việc tạo ra một tác phẩm, thổi hồn vào Frankenstein và quái vật của anh, tưởng tượng ra hậu quả của sự sáng tạo nhất thời của anh. Frankenstein là một câu chuyện được kể lại từ khoảng cách an toàn ở vùng đất xác thịt, trong tất cả vinh quang phàm trần và chết chóc của nó.

Cuối cùng, sau nhiều nghiên cứu và làm việc căng thẳng, Frankenstein đã thành công. Anh khám phá ra bí mật của sự sống, thu thập tất cả các bộ phận cần thiết cho con người mới của anh. Vào một đêm mưa bão, trong phòng thí nghiệm, thí nghiệm lớn được tiến hành, sinh vật ấy mở mắt ra, và gã bắt đầu di chuyển. Nhưng bằng cách nào đó, thậm chí sau tất cả cân nhắc và công sức miệt mài, cái thứ ấy vẫn sinh ra quá sớm, quá thiếu suy nghĩ – sinh vật kia chỉ là một bộ lắp ghép các mảnh xác chết được thu thập và khâu lại với nhau một cách lộn xộn. Nó rất gần với một con người nhưng lại chẳng phải một con  người. Đó là những gì Frankenstein hằng mong mỏi và làm được, nhưng nó thật tồi tệ. Trong nỗi kinh hoàng, anh ta ngay lập tức từ bỏ phát minh của mình: “…Giờ đây khi ta đã hoàn thành, vẻ đẹp của giấc mơ cũng tan thành tro bụi, nỗi kinh hoàng nghẹt thở và ghê tởm tràn ngập trái tim ta.”

Frankenstein là một tiểu thuyết đồ sộ với rất nhiều mất mát, nhưng sự mất mát trung tâm lại không phải sự đau khổ của nhà khoa học dành cho đứa con tâm huyết của mình. Ngay sau khi sinh vật đó được sinh ra, tôi nhận ra rằng Frankenstein chẳng phải một người mẹ – anh ta lùi bước và bắt đầu bỏ chạy. May mắn thay, bản thân tác giả lại tử tế hơn nhiều đối với sinh vật kia, và rồi, khi cuốn tiểu thuyết chuyển sang góc nhìn của gã, chúng ta có thể chứng kiến sự phát triển của ý thức, khi gã dần dần hiểu về thế giới xung quanh và biết vị trí của mình trong thế giới ấy là gì. Tất nhiên, sự nhận thức này chỉ để mọi thứ kết thúc trong bi kịch. Gã cầu xin Frankenstein tạo ra một thứ khác giống như gã, để gã có một người bạn đời, để gã có thể yêu và được yêu, và người ấy sẽ chẳng bao giờ kinh hãi khuôn mặt hay hình hài gã. Nhưng Frankenstein, sau khi suy nghĩ về ý tưởng ấy, đã từ chối một cách chán ghét. Trong câu chuyện này, sinh vật đáng thương kia đã phải chịu quá nhiều mất mát. Dù rằng trong sự đau khổ và giận dữ, gã đã làm rất nhiều việc tàn ác, nhưng Shelley đã cho chúng ta thấy được trái tim của gã, và chúng ta còn bàng hoàng hơn khi biết rằng, tất cả những gì con quái vật ấy cần chỉ là một cuộc sống yên bình, và ai đó mỉm cười với gã mỗi khi gã trở về nhà.

Shelley không bao giờ viết trực tiếp về nỗi đau của mình, ngoài những dòng ghi chú thi thoảng trong nhật ký; Frankenstein là một cuốn tiểu thuyết quá sức phong phú và sâu sắc, không thể chỉ chắt lọc từ một nguồn cảm hứng duy nhất ngoài đời thực. Nhưng tôi nghe nhiều tiếng vang dội lại trong đầu, và cuốn tiểu thuyết trở nên trầm buồn mà cũng mạnh mẽ hơn khi tôi đọc nó qua lăng kính đời thực. Chính Frankenstein đã nói về công trình của mình, trong suốt khoảng thời gian khi anh ta còn hướng tới và khao khát thực thi nó: “Tôi nghĩ, giá như tôi có thể ban tặng ý thức cho những sinh vật vô hồn, tôi có thể tái tạo lại sự sống ở chính nơi mà rõ ràng cái chết đã hi sinh những cơ thể để chúng thối rữa.” Vâng, đó là mong muốn đầu tiên và sâu sắc nhất của chúng tôi – đưa đứa trẻ trở về với sự sống.

Trước khi mất Pearl, tôi không hề thích viết sách phi hư cấu. Tôi chỉ có sách hư cấu, càng xa rời thực tế của tôi càng tốt. Và sau khi con bé ra đi, để lại sau lưng một kiếp người chưa kịp đơm hoa, tôi muốn kể với mọi người về con bé. Tôi học một lớp viết tiểu sử và bắt đầu bị ám ảnh với ý tưởng viết tiểu sử về con bé, về một cuộc đời chỉ tồn tại bên trong cơ thể tôi. Với tư cách nhà văn, chúng ta luôn mang hơi thở cuộc sống vào một điều gì đó. Đôi khi là một suy nghĩ vụt qua, đôi khi là một hình hài chúng ta muốn giữ chặt nhưng buộc phải buông tay. Con gái tôi sống trong những tác phẩm của tôi theo cái cách mà con bé sẽ không bao giờ sống trên thế giới này. Con bé ở ngay đó, trong tiểu thuyết hư cấu, những bài tiểu luận về sự mất mát, và cả trong thực tế, một đứa trẻ bị thất lạc và đánh cắp, một bà mẹ biết cảm giác khi sống với sự trống rỗng này. Tôi viết về Pearl trong những tác phẩm của mình với lý do tương tự như việc tôi gọi tên con bé, vì nó là cách duy nhất con bé sống.

Có một mối liên kết mãnh liệt giữa Frankenstein và quái vật của anh. Dù cho họ không có mối quan hệ huyết thống và Frankenstein chẳng buồn quan tâm đến gã quái vật, nhưng họ bị ràng buộc với nhau mãi mãi, chỉ có người tạo ra và người được tạo ra, mối liên kết ấy mang tên vĩnh viễn. Sau khi mọi thứ sụp đổ, sau khi con quái vật của Frankenstein – trong cơn thịnh nộ không thể kiểm soát – đã giết hết những người mà Frankenstein yêu thương nhất, sau tất cả nỗi đau và mất mát, chỉ đến khi Frankenstein chết thì gã quái vật mới có thể chết một cách tự do. Khi gã suy ngẫm về cái chết của chính mình, và sự giải thoát khỏi những đau thương sẽ đến cùng cái chết, gã lại suy nghĩ về mối liên kết của họ: “Anh ta đã chết, người đã gọi ta đến với thế giới này, và khi ta chẳng còn, những kí ức về hai ta rồi sẽ nhanh chóng tan biến.”

Tất nhiên là không như vậy. Mặc dù trong câu chuyện của Shelley, mối ràng buộc giữa họ có thể đã giữ cả hai trên trái đất lâu hơn họ có thể, nhưng cả hai đều không tan biến cùng cái chết. Câu chuyện về họ vẫn còn, và vì thế, họ vẫn sống. Chúng ta sẽ tồn tại cho đến khi chúng ta bị quên lãng. Chúng ta lưu giữ kí ức về người đã khuất và kể cho thế giới nghe những câu chuyện về họ, như thế họ sẽ chẳng bao giờ rời xa chúng ta. Pearl sẽ không bao giờ chết cho đến khi những câu chuyện về con bé biến mất, cho đến khi chẳng còn ai nhớ về chúng.

Trong nhật ký của mình, Shelley đã viết: “Điều này thật ngu ngốc, tôi cho là vậy. Tuy nhiên, bất cứ khi nào tôi bị bỏ mặc một mình với những suy tư hỗn độn, tôi chẳng thể làm gì để đuổi chúng đi, chúng sẽ luôn đưa tôi tới một thời điểm: khi tôi là một người mẹ, và rồi không còn nữa.”

Nhưng tất nhiên, cô là người mẹ, điều đó đã thay đổi cuộc đời cô mãi mãi. Điều đó thể hiện qua sự sâu sắc, phong phú và đau đớn trong nghệ thuật của cô.

Hết.

Chan Trang dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Mary Milstead, đăng tại Electric Literature

Ảnh đầu bài: Bernie Wrightson

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng