Trà chiều

You Are the Apple of My Eye (2011)

Published

on

Giải quyết xong You Are the Apple of My Eye rồi…
Không nghĩ là tôi có thể khóc…

Vì đơn giản là phim 1 tiếng 49 phút thì xem đến 1 tiếng 40 phút tôi vẫn còn thấy rất bình thường, chưa lần nào quá buồn cả. Vậy mà đoạn gần kết thúc, tình huống đó bất ngờ với tôi quá… Khi nhìn anh ấy hôn chú rể của cô dâu với sự say mê mãnh liệt như thế, và tưởng tượng rằng đó là người con gái anh yêu… chính lúc đó tôi hơi ngỡ ngàng chứ cũng chưa khóc. Rồi phim kết thúc. Màn hình đen, dòng chữ credit đoàn làm phim hiện ra cũng chưa khóc. Tưởng thế là xong. Vậy mà không hiểu sao, cuối cùng cũng khóc cho được. Lại còn khóc rất nhiều. Giống như đó là nỗi buồn của tôi vậy. Lạ quá. Lần đầu tiên tôi mới khóc kiểu như thế. Trước đây chưa bao giờ như vậy. Nghĩa là, nếu phim buồn, thì tôi thường khóc ngay cảnh buồn đó, ngay khi bộ phim còn đang diễn ra chứ chẳng đợi nó hết rồi mới ngồi ôm chân một mình khóc sướt mướt như vậy. Lại cảm thấy ghét bản thân tôi vì dạo này dễ khóc quá. Nước mắt đâu mà nhiều thế. Chắc khóc luôn cho những năm tháng trước đây đã không khóc. Phải rồi, hồi cấp một, cấp hai vào trường bị bắt nạt, tôi muốn khóc lắm chứ. Nhưng tôi không thể khóc. Vì tôi chỉ có một mình. Tôi biết mình mà khóc là lại càng bị bắt nạt nhiều hơn. Do đó, tôi phải làm mặt lạnh lùng như không có gì, trò bắt nạt đó không ảnh hưởng đến tôi để mà sống, mà tiếp tục học. Nghĩ lại, không hiểu sao tôi có thể học suốt 9 năm trời trong môi trường như vậy nữa…

Trong phim, có một cảnh có lẽ với nhiều người nó là bình thường, nhưng nó làm tôi chạnh lòng. Đó là cảnh ngày lễ tốt nghiệp cuối năm, mọi người ghi đầy trên áo nhau những dòng chữ kỉ niệm. Hồi xưa, trường cấp một, hai và ba của tôi cũng như vậy. Nhưng năm nào thì những chiếc áo của tôi cũng sạch sẽ, trống trơn. Cấp một, ba cũng không có gì… Nhưng đến giờ tôi vẫn còn nhớ những ngày cuối cùng của năm cấp hai là tồi tệ nhất. Cảm giác bơ vơ, lạc lõng. Không biết phải đứng ở đâu, làm gì, đi đâu. Mọi người đem bút lông, hăm hở viết vào áo nhau. Còn tôi, chẳng có lấy một người bạn. Thế là trong giờ ra chơi thì tôi… dựa cột. Đi hết từ cột bê tông này đến cột bê tông khác trong hành lang. Chỉ như một cái mốc đánh dấu nơi đi qua. Rồi trong giờ học thì đọc truyện tranh. Còn nhớ bộ truyện tôi đọc lúc đó là Kindaichi. Cô giáo chủ nhiệm của những năm cấp hai lúc nào cũng ghi vào sổ liên lạc, hoặc nói trực tiếp với tôi rằng sao không mở lòng với bạn bè, sống như thế làm sao mà sống. Tôi chỉ im lặng. Bởi vì các cô không biết tôi bị bắt nạt. Tôi cũng không hiểu tại sao tôi lại bị bắt nạt. Ý tôi là, tôi im lặng, không nói chuyện với mọi người. Vậy thì có gì đâu? Tại sao mọi người không thể chỉ đơn giản là để cho cái đứa im lặng đó tự sống một mình lặng lẽ trong thế giới của nó mà cứ thấy nó im lặng quá rồi đi bắt nạt? Thà lờ đi sự tồn tại của tôi trong lớp còn hơn là cứ bắt nạt tôi như thế. Tôi mệt mỏi lắm… Mỗi lần mà bị cô giáo nói chuyện với tôi cuối giờ, tôi thật sự rất muốn hỏi ngược lại cô là phải làm sao đây, em phải làm sao. Đâu phải lúc nào chuyện cũng đơn giản rằng em nghĩ em muốn mở lòng là mọi người sẽ đón nhận, em nói chuyện là sẽ có người nghe? Tại sao cô không nghĩ rằng em đã từng thử? Em cũng đã từng thử rồi cô ạ… Và đã thất bại. Nên em mệt mỏi và không muốn bắt chuyện với ai nữa. Em chỉ muốn ở yên trong thế giới của em. Và viết, và viết mà thôi. Vì em khó nói nên những năm tháng đó, em mới siêng viết như thế.

Những năm tháng đó của tôi, đã chẳng có chuyện giống như những năm tháng trong phim. Chỉ là một chuỗi ngày lo sợ mai vào trường sẽ như thế nào, có bị bắt nạt nữa không, có bị bạn bè giễu cợt gì nữa không. Và một ngày trôi qua với tôi là thêm một niềm vui. Vì rằng ồ tôi đã qua được ngày hôm đó rồi sao. Và chỉ cần cố gắng qua được từng ngày, rồi sẽ đến từng tháng. Và cuối cùng là hè đến, chỉ việc ở nhà xem phim, đọc sách, viết truyện. Chẳng có một cuộc gặp gỡ với bất kì ai.

Nhưng tôi vẫn cảm nhận được, những năm tháng đó trong phim rất thật. Nó thật đơn giản bởi vì nó thật. Tôi biết đó không phải là những năm tháng của tôi nhưng lại là những năm tháng của nhiều người khác khi còn là học sinh.

Ngoài ra, tôi còn thích một chi tiết nữa. Đó là cách Kha Cảnh Đằng nói rằng: “Tớ thích hình ảnh của tớ những năm tháng ấy khi thích cậu.” Phải rồi. Thật lòng mà nói, tôi cũng có cảm giác đó. Vì vậy, tính ra là khi thích một người, thực ra người ta đang thích cả hai con người: một là chính đối tượng mình thích, hai là con người của bản thân mình khi thích người đó. Tôi nghĩ rằng đó là tình yêu lí tưởng. Yêu một người đồng thời tình yêu đó quá lớn, đến nỗi chính bản thân mình cũng thấy rằng nó đẹp, để rồi tự chính mình lại đi yêu hình ảnh của mình khi yêu người đó. Dù  sao, trong tình yêu dành cho một người nhiều như thế nào, cũng sẽ có chút phần tự yêu bản thân mà.

Tôi luôn biết một điều đơn giản rằng: chuyện gì xảy ra trong đời, dù có vẻ vô lí như thế nào, cũng đều có ý nghĩa của nó. Thế nhưng, mỗi khi gặp một chuyện buồn, một sự mất mát, không khi nào tôi có đủ bình tĩnh để nhìn ra được ý nghĩa của nó. Tất cả những gì tôi đã làm chỉ là chìm sâu hơn vào nó, đau, tiếc nuối, khóc cho những ngày đã qua.

Tôi vẫn chưa tìm ra được ý nghĩa cho sự trống rỗng hiện tại…

Nhưng, những năm tháng đó, những năm tháng đó thì tôi đã có câu trả lời rồi. Việc tôi bị bắt nạt như thế giúp tôi sau này dễ đồng cảm với nỗi đau của người khác hơn. Đó là một điều không phải dễ gì có được. Và chính vì những năm tháng đó, tôi đã luôn im lặng, không thể nói được nên tôi mới có thôi thúc viết. Chính vì khó nói lên suy nghĩ của mình nên khi viết, tôi lại càng dễ dàng diễn tả được điều tôi suy nghĩ hơn. Chính vì đã không thể sống thật là tôi, làm những gì tôi muốn ở ngoài đời thực nên tôi làm tất cả những điều đó trong thế giới do tôi tạo ra khi viết: sống thực với tôi, nói những điều tôi nghĩ và… nổi loạn. Đã luôn muốn nổi loạn nhưng ở ngoài đời chẳng có can đảm. Với tôi, viết chỉ đơn giản là thực hiện những điều tôi đã không thể làm được trong đời sống hiện thực.

Xem hơn phân nửa phim, ban đầu tôi có suy nghĩ: phim này cũng khá bình thường, hay thì có hay nhưng sao được nhiều người thích và thành công như vậy? Tôi biết, không khí phim tạo ra khá hay. Một không gian trầm mặc, điềm tĩnh, đúng chất hoài niệm và tự sự. Điều đặc biệt mà không khí phim tạo ra là cả hai mặt cảm giác về thời gian: vừa nhanh vừa chậm. Người ta vừa cảm giác được sự chậm chạp như kiểu một người bình thản kể câu chuyện đã qua của cuộc đời mình, vì nó đã qua rồi nên chẳng việc gì phải kể vội vàng. Đồng thời, đôi khi người ta cũng cảm giác thời gian trôi qua quá nhanh. Đó là do sự mất mát ở những điểm chuyển giao trong cuộc đời của các nhân vật. Có điều gì đó luôn mất mát, nhẹ nhàng, nho nhỏ thôi, khó nhận ra nhưng chắc chắn là có.

Tôi thích một đoạn nữa mà tôi nghĩ với nhiều người, có lẽ nó cũng bình thường, thậm chí với một số người có thể nó còn hơi dung tục. Đó là đoạn cả phòng kí túc xá thủ dâm khi xem phim con heo của Nhật. Mọi người đều đổ mồ hôi và lên đỉnh. Nhưng một người nói: “Cuối cùng, chúng ta làm tất cả chuyện này để làm gì…” Suy nghĩ đó cũng đã chợt đến với tôi đôi lần. Tại sao con người ta lại phải thủ dâm? Nếu không có một ai đó, tại sao không thể đơn thuần chỉ cần chờ đợi người đó đến rồi có thể từ từ làm sau cũng được, cần gì phải luôn làm trước như thế? Ngày còn bé, đương nhiên tôi không hiểu và không ủng hộ chuyện này. Lúc đó, chỉ nghĩ tại sao dục tính con người cao quá, chỉ cần yêu bằng tâm hồn cũng được mà. Nhưng sau này lớn lên dần hiểu, chỉ đơn giản thôi đó là bởi vì họ đã quá cô đơn. Vì cô đơn nên không thể chờ đợi, chờ đợi ai đó đến và chạm vào cơ thể mình. Khoảng thời gian ấy dường như quá dài… nên người ta chỉ còn cách tự chạm vào cơ thể để giải khuây. Đơn giản là vậy thôi. Tôi không hối hận vì đã xem bản uncut. Bản uncut chẳng qua chỉ đơn giản là có thêm khoảng chừng năm, sáu phút đoạn các bạn nam thủ dâm. Tôi thấy cảnh này chẳng có gì phải ghê gớm để cut cả. Cũng chẳng có gì ghê gớm để các bạn nam upload phim trên forum phải khuyên nhau rằng khi xem phim này với bạn gái, nên xem bản cut, đừng xem uncut.

Nụ hôn cuối phim, hay nhỉ…

Nếu như cô ấy muốn nghĩ đó là trò đùa trẻ con thì nó là trò đùa trẻ con. Còn nếu như nghĩ đó là tình cảm thật của anh ấy thì thêm một lần nữa, cô lại nhận ra anh ấy yêu mình nhiều như thế nào, đã muốn chạm vào mình như thế nào…

Kết thúc phim, tôi nhận ra một điều nữa: điểm đặc biệt của phim là có thể khiến người ta khóc mà không cần phải làm bất cứ một cảnh nào quá buồn hay quá cao trào. Mọi thứ cứ nhẹ nhàng diễn ra như cuộc sống. Cuộc sống thực ra cũng vốn có ít kịch tính. Nếu như cuộc sống có nhiều kịch tính thì có lẽ nó đã không khiến người ta phải đau như thế. Vì kịch tính nghĩa là cái gì cũng được đẩy lên quá mức, mà khi đẩy lên quá mức như thế người ta rất dễ dàng nhận ra mình đang buồn vì điều gì, đang mất mát đi điều gì. Còn cuộc sống ngoài đời thực thì cứ nhẹ nhàng trôi đi trên bề mặt nhưng là những nỗi buồn, những mất mát ẩn sâu bên trong, người ta khó nhận ra, không thể nhận ra được trước. Chính vì vậy, khi nó đến mới đau như thế, buồn như thế. Người ta thường dễ đau vì những điều mình đã nghĩ rằng lẽ ra nó vẫn còn tồn tại chứ không phải là mất đi như thế hơn những điều vốn ngay từ đầu đã cảm nhận được là sẽ sớm mất đi… Chính cảm giác mất mát mà không biết mình đã mất nó từ khi nào mới là thứ khiến người ta đau lòng nhất chứ không phải là chính bản thân sự mất mát. You Are the Apple of My Eye làm được điều đó. Mọi thứ thực và nhẹ nhàng nhưng lại chứa đựng sự mất mát ẩn sâu như cuộc sống.

“Khi bạn rất rất yêu một người nào đó thì bạn sẽ hạnh phúc khi thấy người đó có một người yêu thương và đang hạnh phúc…”

Phải rồi. Nếu yêu một ai đó thực sự thì tình yêu đó có thể chiến thắng được nỗi sợ hãi bị lãng quên trong mắt người mình yêu. Chỉ cần người đó được hạnh phúc là đủ rồi.

For lonely night missing the one who was always by my side…
You’re the apple of my eye.

Hết.

Kodaki

Trà chiều

Mặt trái của “Manifest”: Khi tư duy tích cực có thể phản tác dụng

“Manifest” – từ khóa của năm 2024 do từ điển Cambridge bình chọn, đã trở thành một cơn sốt trong giới trẻ, lan tỏa mạnh mẽ trên khắp các nền tảng mạng xã hội. Nhưng liệu manifest có thực sự là con đường thần kỳ dẫn đến hạnh phúc?

Published

on

Manifest, hay luật hấp dẫn, đại diện cho một niềm tin vào sức hút kỳ diệu của vũ trụ, vào một thế lực lớn lao và quyền năng hơn chính bản thân, có thể giúp ta đạt được mọi mong muốn. Từ ước mơ về một cuộc sống giàu sang, một tình yêu viên mãn đến khát khao thành công trong sự nghiệp, tất cả dường như đều nằm trong tầm tay chỉ với sức mạnh của suy nghĩ tích cực.

Nhằm mang đến cho bạn đọc một cái nhìn đa chiều về trào lưu này, Bookish xin giới thiệu bài viết được dịch từ tạp chí Psychology Today, phân tích những mặt trái tiềm ẩn của manifest, giúp chúng ta tránh sa vào những cạm bẫy tư duy.

***


“Manifest” đang là một trong những trào lưu thịnh hành nhất ở lĩnh vực sách self-help. Tác phẩm MANIFEST - 7 Bước Để Thay Đổi Cuộc Đời Bạn Mãi Mãi (2022) của Roxie Nafousi đã ngay lập tức trở thành hiện tượng bán chạy toàn cầu khi vừa ra mắt. Cuốn sách này từng có mặt trong danh sách bán chạy nhất của Sunday Times nhiều tuần liền, và được không ít người nổi tiếng tìm đọc.

Tuy nhiên, cuốn sách của Nafousi lại thuộc về một trường phái self-help lâu đời hơn, vốn cổ súy cho ý tưởng về “luật hấp dẫn”. Luật này cho rằng chính suy nghĩ của chúng ta quyết định những gì ta thu hút trong cuộc sống như may rủi, giàu nghèo, ốm đau hay khỏe mạnh, những mối quan hệ độc hại hay tốt đẹp. Tôi cho rằng mặc dù việc nhiều người thích những cuốn sách kiểu này là điều dễ hiểu, nhưng manifest lại là một xu hướng tiềm ẩn nhiều nguy hiểm.

Những ví dụ tiêu biểu nhất về sách self-help theo luật hấp dẫn là The Secret - Bí Mật (2006) của Rhonda Byrne và Think and Grow Rich - Nghĩ Giàu Và Làm Giàu (1937) của Napoleon Hill. Những cuốn sách này đẩy ý tưởng kiểm soát tâm trí (được ủng hộ bởi nhiều trường phái triết học cổ đại như Khắc kỷ, cũng như các chuyên gia trị liệu nhận thức hành vi – CBT) đi xa hơn. Các tác giả đưa ra quan niệm có thể tạm gọi là học thuyết “tâm trí chế ngự vật chất”, khẳng định rằng suy nghĩ của chúng ta có sức mạnh toàn năng, không chỉ quyết định cảm xúc mà còn định hình cả thế giới bên ngoài.

Đúng là có bằng chứng cho thấy rằng tư duy lạc quan tốt hơn tư duy bi quan; và ở một mức độ nào đó, tâm thế và thái độ tích cực có thể dễ khiến ta thành công hơn, ít gặp vấn đề về sức khỏe và các mối quan hệ hơn – nhìn chung là ta có một cuộc sống tốt đẹp hơn. Đơn cử là, cha đẻ của tâm lý học tích cực, Martin Seligman, đã viết rất nhiều về chủ đề này. Seligman cho rằng tư duy bi quan và cái mà ông gọi là “sự bất lực tự ứng nghiệm” chính là nguyên nhân gây ra nhiều vấn đề về sức khỏe, khiến ta bị giảm tuổi thọ, đạt thành tích kém cỏi hơn và gặp nhiều tai họa hơn trong cuộc đời – bởi lẽ, luôn lo sợ những điều này xảy ra có thể biến chúng thành sự thật. [i] Lợi ích của việc hình dung những mục tiêu tích cực và việc chúng ta đạt được kết quả mong muốn cũng đã được nghiên cứu rộng rãi.

Tuy nhiên, nhóm người ủng hộ trào lưu manifest lại đưa ra những tuyên bố cực đoan hơn nhiều. Thông thường, các tác phẩm của họ đều dựa trên những niềm tin huyền bí đáng ngờ, được cho là đúc kết từ một số nguyên lý vật lý lượng tử (mặc dù chưa từng có bằng chứng khoa học nào củng cố cho những tuyên bố này).

Truyền thống self-help này bắt nguồn từ khoảng mấy chục năm cuối thế kỷ 19, khởi đầu với phong trào “chữa lành bằng tâm trí” ở Mỹ. Những người theo phong trào này tin rằng mọi bệnh tật đều bắt nguồn từ tâm trí. Do đó, suy nghĩ lành mạnh sẽ có tác dụng chữa lành. Người thợ đồng hồ Mỹ Phineas Parkhurst Quimby (1802–1866) là một trong những người đầu tiên nêu rõ ý tưởng này. [ii] Quimby cho rằng tất cả bệnh tật chẳng qua chỉ là một niềm tin sai lầm biểu hiện ra thành các triệu chứng vật lý. Nếu chấp nhận rằng bệnh tật chỉ nằm trong tâm trí, chúng ta có thể dễ dàng tự chữa lành cho mình.

Giáo phái chữa bệnh bằng tâm trí nổi bật nhất là Giáo hội Khoa học Kitô giáo, do Mary Baker Eddy (1821–1910) sáng lập. Cuốn kinh thánh trước tác của Eddy, Science and Health with Key to the Scriptures (1875) (Tạm dịch: Khoa học và Sức khỏe với Chìa khóa giải mã Kinh Thánh), hiện đã bán được hơn 9 triệu bản. Giống như Quimby, các tín đồ Khoa học Kitô giáo tin rằng bệnh tật có thể chữa khỏi chỉ bằng cầu nguyện. Thần học của Eddy dựa trên quan niệm thần bí cổ xưa rằng thực tại thuần túy là tâm linh và thế giới vật chất chỉ là ảo ảnh. [iii] Do đó, bệnh tật không gì khác hơn là một lỗi lầm của tâm trí – hậu quả của việc sai lầm khi đặt niềm tin vào vật chất và giác quan. Những tín đồ Khoa học Kitô giáo cực đoan hoàn toàn bác bỏ mọi can thiệp y tế và phẫu thuật. Không có gì ngạc nhiên khi phương pháp chăm sóc sức khỏe này đã khiến cho nhiều thành viên giáo phái và con cái của họ phải vong mạng.

Nhà triết học và tâm lý học William James (1842–1910) cũng rất quan tâm đến ý tưởng về nguồn gốc tâm lý của bệnh tật. Trong The Varieties of Religious Experience (1902) (Tạm dịch: Muôn mặt kinh nghiệm tôn giáo), ông mô tả phong trào chữa lành bằng tâm trí là một “quan điểm sống lạc quan”:

Những người dẫn dắt phong trào này tin tưởng sâu sắc vào năng lực chữa lành của một tâm trí khỏe mạnh, vào khả năng chiến thắng của lòng can đảm, hy vọng và niềm tin, đồng thời khinh miệt sự nghi ngờ, sợ hãi, lo lắng và mọi trạng thái tinh thần căng thẳng, dè dặt thái quá.. [iv]

Chúng ta có thể thấy rõ ràng là trong các nguyên lý của phong trào chữa lành bằng tâm trí có chứa đựng hạt giống của tư duy tích cực. Tư duy tích cực lần đầu tiên được phổ biến là trong tác phẩm The Power of Positive Thinking (1952) (Tạm dịch: Sức mạnh của tư duy tích cực) của mục sư người Mỹ Norman Vincent Peale. Cuốn sách này có tầm ảnh hưởng, nhưng đồng thời cũng gây tranh cãi.

Một nhà tư tưởng “chữa lành bằng tâm trí” quan trọng khác là Prentice Mulford (1834–1892) –  ông đã đặt ra các nguyên tắc của “luật hấp dẫn”. Trong Thoughts are Things (1889) (Tạm dịch: Tư duy là Vạn vật), Mulford giải thích rằng suy nghĩ tích cực thu hút kết quả tích cực và suy nghĩ tiêu cực thu hút kết quả tiêu cực. William Walker Atkinson sau đó cũng đưa ra những tuyên bố tương tự trong Thought Vibration or the Law of Attraction in the Thought World (1906) (Tạm dịch: Sóng Tư tưởng và Luật hấp dẫn trong Thế giới Tinh thần). Tác giả self-help đầu tiên kết hợp ý tưởng tâm linh của luật hấp dẫn với khát vọng vật chất hữu hình là Napoleon Hill. Công thức này hóa ra lại cực kỳ sinh lời. Hill đã xuất bản cuốn sách bán chạy nhất của trong sự nghiệp của ông là Think and Grow Rich! vào năm 1937. Tác phẩm này đã trở thành khuôn mẫu cho một loại sách self-help mới khi tập trung vào việc theo đuổi tiền bạc.

Thông điệp của Hill rất đơn giản: Tất cả chúng ta đều có thể trở nên giàu có nếu khao khát đủ lớn. Nếu tập trung chuyên chú vào những suy nghĩ về tiền bạc và sự sung túc, vũ trụ sẽ tạo ra sự cộng hưởng kỳ diệu với tiềm thức và gửi đến vô vàn tài lộc. [v] Để trở nên giàu có, chúng ta chỉ cần nuôi dưỡng một khát khao rõ ràng. Khi đó, suy nghĩ của chúng ta, “như những thỏi nam châm, sẽ thu hút vô số nguồn lực, con người và hoàn cảnh phù hợp với bản chất của những suy nghĩ chủ đạo đó.” Nếu “từ tính hóa tâm trí” và trở nên “nhạy bén với tiền bạc”, chúng ta sẽ trở thành triệu phú ngay lập tức.

Không có gì ngạc nhiên khi một thông điệp như vậy lại an ủi những độc giả đang vật lộn với hoàn cảnh kinh tế suy thoái trong cuộc Đại khủng hoảng. Nhưng thông điệp còn nhiều mơ hồ này vẫn tiếp tục hấp dẫn cho đến tận ngày nay. The Secret của Byrne đã xào nấu lại ý tưởng này. “Bí thuật” của cô ấy, không gì xa lạ, chính là luật hấp dẫn. Các nguyên tắc của luật này cứ được nhắc đi nhắc lại. Suy nghĩ của chúng ta, rõ ràng là có tần số riêng. Chúng ta phát ra tần số này vào vũ trụ và từ đó thu hút mọi thứ cùng tần số với suy nghĩ của mình. The Secret tràn ngập những câu chuyện về việc bất ngờ nhận được séc qua thư và những biến chuyển kỳ diệu trong cuộc sống cá nhân của một người. Cuốn sách đưa ra lời hứa hẹn rằng rằng độc giả có thể dễ dàng thu hút 10 triệu đô la, bởi vì “Bí thuật có thể cho bạn bất cứ điều gì bạn muốn.” Bởi “Bạn là thỏi nam châm mạnh mẽ nhất trong Vũ trụ!… Suy nghĩ của bạn sẽ trở thành hiện thực!” [viii]

Nhiều người trong chúng ta có thể thấy những lời hứa hẹn thái quá về sự chuyển đổi dễ dàng này là đáng ngờ. Nhưng tệ hơn nữa, học thuyết của Byrne và những người ủng hộ nguyên lý “tâm trí chế ngự vật chất” lại có xu hướng đổ lỗi cho nạn nhân. Về cốt lõi, họ quan niệm rằng những người gánh chịu bất hạnh phải tự nhận trách nhiệm cho những đau khổ của mình, bao gồm cả chuyện ung thư, hiếp dâm, tai nạn xe hơi và bạo lực. Chẳng hạn như, Byrne thẳng thừng cho rằng mọi tai ương trong cuộc sống là do chúng ta không chịu suy nghĩ tích cực và không truyền tải đủ mạnh mẽ những mong muốn về vật chất xa xỉ vào vũ trụ. Byrne và nhiều chuyên gia làm giàu đã đóng góp cho cuốn sách của cô còn khẳng định chắc nịch rằng quy luật hấp dẫn cũng có thể áp dụng với 6 triệu người Do Thái bị sát hại trong thảm họa Holocaust. Rõ ràng, chính “những suy nghĩ về nỗi sợ hãi, sự chia ly và bất lực” của người Do Thái đã khiến họ “hiện diện ở nơi lầm lạc vào một thời điểm sai trái”. [ix] Tác giả của The Secret khẳng định chắc nịch: “Mọi trải nghiệm đều bắt nguồn từ những suy nghĩ dai dẳng trong chính bạn.” [x] Đây rõ ràng là những luận điệu vô cùng đáng lo ngại, và tôi ngạc nhiên rằng những tuyên bố dối trá, hoàn toàn không thể biện minh này lại không vấp phải quá nhiều chỉ trích.

Vậy tại sao những cuốn sách như Think and Grow Rich!, The Secret, và giờ là Manifest của Nafousi lại hấp dẫn nhiều người đến vậy? Tất nhiên, ai mà chẳng thích được nghe rằng mình có thể giàu sang mà không cần động tay động chân, rằng những tấm séc 10 triệu đô la sẽ tự động bay vào hộp thư chỉ cần ta nghĩ đủ nhiều về tiền. Những cuốn sách cho rằng mọi sự tự hoàn thiện bền vững đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì và thời gian thường ít hấp dẫn hơn – mặc dù có lẽ thông điệp đó lại thực tế hơn.

Tuy nhiên, tôi cho rằng không chỉ vì chúng ta khao khát những giải pháp nhanh chóng, dễ dàng mà những cuốn sách như thế này mới trở nên phổ biến; một yếu tố quan trọng khác là mong mỏi từ ngàn đời nay của con người về việc tự làm chủ cuộc sống. Tư duy vũ trụ kỳ diệu được cổ súy bởi những người theo trường phái “chữa bệnh bằng tâm trí” giúp chúng ta nuôi dưỡng khát vọng toàn năng, bất khả chiến bại và quyền làm chủ thế giới vật chất. Nó đánh vào mong muốn nguyên thủy của chúng ta là khả năng tự bảo vệ mình trước hai mối đe dọa là sự tổn thương và tình trạng mất kiểm soát.

Phép thuật tư duy trong những cuốn sách này cũng mang tính chất thoát ly thực tại. Nó cho phép ta mơ mộng về những cuộc đời khác, nơi ta là nhân vật chính trong truyện cổ tích – thành đạt, giàu có, quyến rũ và luôn tự tin trong giao tiếp xã hội. Ngoài ra, thời điểm những cuốn sách này được xuất bản và tạo nên tiếng vang cũng rất đáng chú ý: sách của Hill ra đời trong thời kỳ Đại khủng hoảng, sách của Byrne ra đời ngay trước khủng hoảng tài chính, còn sách của Nafousi nổi lên năm 2022 – một năm đầy biến động với những ảnh hưởng kéo dài của đại dịch Covid, bất ổn kinh tế gia tăng, khủng hoảng chi phí sinh hoạt trầm trọng và chiến tranh Ukraine kinh hoàng.

Vấn đề tôi thấy là: Mặc dù đọc những cuốn sách này có thể mang lại cảm giác hy vọng nhất thời, thậm chí là sự kỳ vọng hão huyền, nhưng thực tế cuối cùng cũng sẽ ập đến. Chúng ta sẽ cảm thấy tồi tệ hơn khi những khoản tiền hứa hẹn không xuất hiện. Không một vấn đề nào được giải quyết. Ta chẳng học được gì mới mẻ về bản thân và cũng chẳng thu được bài học hữu ích nào để thực sự tiến bộ. Hơn nữa, việc đánh giá quá cao khả năng thay đổi tâm lý và năng lực cá nhân, đồng thời đánh giá thấp bối cảnh kinh tế và xã hội mà ta đang sống, sẽ khiến ta phải trả giá. Khi mọi thứ không diễn ra như mong đợi, ta sẽ chìm trong cảm giác tội lỗi và xấu hổ.

***

Tư liệu tham khảo

[i] See Martin Seligman, Learned Optimism: How to Change Your Mind and Your Life (London, Boston: Nicholas Brealey Publishing, 2006).

[ii] Phineas Parkhurst Quimby, The Quimby Manuscripts: Containing Messages of New Thought, Mesmerism and Spiritual Healing from the Author, edited by Horatio W. Dresser (s.p.: Pantianos Classics, 1921), p. 73

[iii] Mary Baker Eddy, Science and Health With Key to the Scriptures (Boston: The Writings of Mary Baker Eddy, 2000), p. viii.

[iv] William James, The Varieties of Religious Experience (Cambridge, MA: Harvard University Press, 1985), pp. 92–3.

[v] Napoleon Hill, Think and Grow Rich!: The Original Version, Restored and Revised (Anderson, SC: The Mindpower Press, 2007), p. 9.

[vi] Ibid., p. 21.

[vii] Ibid.

[viii] Rhonda Byrne, The Secret, 10th anniversary edition (London and New York: Simon & Schuster, 2016), p. xv, 7, 9.

[ix] Ibid., p. 28.

[x] Ibid., p. 43.

***

Khi những ảo tưởng về một cuộc sống hoàn hảo nhờ manifest tan vỡ, ta thường chìm trong thất vọng và tự trách bản thân. Việc đánh giá quá cao sức mạnh của suy nghĩ mà quên đi nỗ lực thực tế chính là nguyên nhân dẫn đến thất bại. Tuy nhiên, không thể phủ nhận sức hút và sự phổ biến của manifest. Nếu biết vận dụng một cách tỉnh táo, kết hợp với hành động thiết thực và kế hoạch rõ ràng, manifest có thể trở thành một công cụ hữu ích, giúp ta củng cố niềm tin, duy trì động lực và rút ngắn con đường đến với mục tiêu. Suy cho cùng, tư duy tích cực luôn là một yếu tố quan trọng trên hành trình hoàn thiện bản thân, nhưng chìa khóa then chốt vẫn nằm ở sự cân bằng giữa giấc mơ và hiện thực, giữa niềm tin và hành động. Đó cũng chính là thông điệp mà Bookish mong muốn gửi gắm đến bạn đọc.

Nguồn: Psychology Today

Kodaki dịch

Đọc bài viết

Trà chiều

Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 thu hút đông đảo bạn đọc tại TP HCM

Published

on

Ngày 27.01.2025 (tức 28 Tết), Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 chính thức khai mạc. Lễ hội thu hút sự quan tâm và yêu thích của người dân cũng như khách du lịch thành phố. Đường sách được tổ chức với quy mô lớn, có nhiều không gian văn hoá, nghệ thuật đặc sắc, hứa hẹn sẽ trở thành điểm vui chơi và mua sắm náo nhiệt trong mùa Tết.

Lễ hội lần thứ 15 có chủ đề Non sông gấm hoa, vui xuân thái hòa. Năm 2011, lễ hội Đường sách Tết lần đầu được tổ chức tại đoạn đường Mạc Thị Bưởi (nối Đồng Khởi và Nguyễn Huệ, quận 1). Từ năm 2023 đến nay, hoạt động này được tổ chức trên trục đường Lê Lợi, đoạn từ giao lộ Nguyễn Huệ đến bùng binh Quách Thị Trang, dài khoảng 400 m. Lễ hội tổ chức trên khu vực có tổng diện tích 11.200 m2, thu hút nhiều đơn vị tham gia kiến tạo không gian văn hóa, nghệ thuật, nổi bật trong số đó có Công ty Cổ phần Văn hóa Phương Nam (gọi tắt là Công ty Phương Nam hoặc PNC).

Năm 2025 đánh dấu kỷ niệm 15 năm Công ty Phương Nam tham gia Lễ hội Đường sách Tết với gian hàng lớn, đẹp, giàu cảm xúc. Sau buổi lễ khai mạc, gian hàng của Phương Nam vinh dự đón tiếp các lãnh đạo Thành phố đến tham quan: ông Nguyễn Trọng Nghĩa - Uỷ viên Bộ Chính trị, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương, ông Phan Văn Mãi - Chủ tịch UBND TP.HCM, ông Nguyễn Thanh Nghị - Phó Bí thư Thường Trực Thành ủy TP.HCM, ông Lâm Đình Thắng - Giám đốc Sở TT&TT TP.HCM cùng đại diện lãnh đạo Sở, ngành. Bên cạnh đó, nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Tư cũng ghé thăm các gian hàng của Nhà Sách Phương Nam tại Lễ hội Đường sách Tết. Đại diện Công ty Phương Nam đón tiếp đoàn lãnh đạo và các vị khách quý là ông Nguyễn Hữu Hoạt - Chủ tịch Hội đồng quản trị.

Đến với các gian hàng của PNC tại Đường sách Tết, khách tham quan có thể tìm mua những đầu sách best-seller giá trị và đầy ý nghĩa do Phương Nam Book liên kết xuất bản; trải nghiệm khu vực sách nói KOMO Audio tiện lợi và hiện đại; đắm chìm trong những giai điệu bất hủ tại quầy băng đĩa Phương Nam Film; cũng như mang về nhà những món đồ chơi, quà lưu niệm đa dạng mẫu mã đến từ các thương hiệu nổi tiếng trên thế giới. Là thương hiệu có bề dày 43 năm kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, Công ty Phương Nam tự hào là đơn vị uy tín, chất lượng và luôn nỗ lực để mang lại trải nghiệm tốt nhất cho khách hàng. Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025 là cơ hội để PNC tiếp tục phục vụ khách hàng và bạn đọc với những sản phẩm cũng như dịch vụ chất lượng cao.

Trong suốt thời gian diễn ra Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025, khách tham quan sẽ có cơ hội gặp gỡ, giao lưu với nhiều tên tuổi nổi tiếng trong làng sách, tham gia các chương trình thú vị để nhận nhiều lì xì hấp dẫn, và tận hưởng không khí du xuân tràn đầy niềm vui. Tết này, đừng quên ghé chơi với Nhà Sách Phương Nam nha!

Thời gian: Từ 27/01/2025 – 02/02/2025

Địa điểm: Đường Lê Lợi, Quận 1, TP HCM

Một số hình ảnh trong ngày khai mạc Lễ hội Đường sách Tết Ất Tỵ 2025:

Đọc bài viết

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Cafe sáng