Phía sau trang sách

Phỏng vấn ma cà rồng

Đúng như tiêu đề tác phẩm, Phỏng vấn ma cà rồng (Interview with the Vampire) có thể được tóm tắt đơn giản là: chuyện đời một ma cà rồng được kể lại dưới hình thức phỏng vấn.

Published

on

Narration

Một trong những điểm đầu tiên khiến tôi băn khoăn khi đọc Phỏng vấn ma cà rồng là tại sao Anne Rice lại chọn kể câu chuyện này dưới hình thức phỏng vấn? Vì khi đọc khoảng năm, sáu chục trang đầu tiên, tôi đã đoán rằng cách kể chuyện của tiểu thuyết này vẫn sẽ cứ như thế: nghĩa là phỏng vấn chỉ như cái cớ để câu chuyện bắt đầu, nó không được thể hiện rõ nét và xuyên suốt trong tác phẩm dưới dạng hình thức hay nội dung. Vì vậy, cuộc phỏng vấn ở đây giống như độc thoại hơn là đối thoại, phóng viên đóng vai trò giống như độc giả hơn là người chất vấn. Ban đầu, tôi đã đoán câu chuyện diễn ra dưới hình thức phỏng vấn là để xen kẽ hai tuyến thời gian: tuyến thời gian quá khứ trong những sự kiện Louis thuật lại, tuyến thời gian hiện tại khi anh đang ngồi phỏng vấn với người phóng viên. Tôi cũng nghĩ rằng động cơ của hành vi kể chuyện sẽ được nhấn mạnh vì vô hình trung, hình thức phỏng vấn thường khiến người đọc tự đặt câu hỏi rằng tại sao nhân vật lại chấp nhận yêu cầu phỏng vấn. Có thể hiện tại Louis đang gặp vấn đề gì đó (anh bị truy đuổi, hoặc sức khỏe yếu đi…) buộc anh phải thuật lại tường tận câu chuyện đời mình cho thế giới con người biết; và khi đó, câu chuyện anh kể sẽ không được liền mạch, nó luôn bị ngắt quãng bởi các đợt tấn công từ những yếu tố ngoại tại hay nội tại (chẳng hạn như kẻ thù ập đến căn hộ ấy, những tràng ho bỗng dưng kéo dài vì một chất độc nào đó trong cơ thể…). Tuy nhiên, đã không có bất kì tình tiết tương tự nào xảy ra, câu chuyện được kể liền mạch như một dòng sông thuận hòa xuôi thẳng ra biển, chỉ thi thoảng rẽ nhánh đây đó vào hai ven bờ ở những đoạn Louis tạm nghỉ ngơi và có chút tương tác với phóng viên để câu chuyện này còn có vẻ như được kể dưới hình thức phỏng vấn. Nếu như phỏng vấn chỉ là cái cớ, là thứ xuất hiện ở điểm đầu tiên – cuối cùng và vài đoạn ở giữa, vậy thì tại sao ngay từ đầu Anne Rice không kể thẳng câu chuyện này dưới ngôi thứ nhất? Khi đặt ra câu hỏi này, tôi nhớ lại vài chuyện, đồng thời cũng tìm được câu trả lời cho mình.

Tôi nhớ đến tác phẩm Trà Hoa Nữ (La Dame aux camélias) của Alexander Dumas và Lũ người quỷ ám (Demons) của Dostoevsky. Trong Trà Hoa Nữ, Dumas đã không trực tiếp bắt đầu câu chuyện bằng giọng kể ở ngôi thứ nhất của Armand dù rằng phần lớn câu chuyện rồi cũng sẽ được kể dưới góc nhìn của anh. Thay vào đó, ông đã chọn một nhân vật nam vô danh làm người kể chuyện để nhân vật ấy tìm đến Armand và người đọc được nghe câu chuyện từ ngôi thứ nhất của Armand kể cho nhân vật nam nghe – nhưng thực chất cũng là kể cho độc giả nghe. Trong Lũ người quỷ ám, Dostoevsky lại có cách xử lí hơi khác một chút. Câu chuyện gia đình bà Varvara được kể lại qua lời kể của ông Anton Lavrentyevich – một người bạn thân của Stepan Verkhovensky và ông Stepan Verkhovensky là tình nhân của bà Varvara. Câu chuyện Anton kể cho người đọc nghe về gia đình Varvara phần lớn là những chuyện do ông Stepan kể lại cho Anton nghe. Tuy câu chuyện có hiện diện người kể chuyện ở ngôi thứ nhất nhưng thực chất toàn bộ nội dung vẫn được kể ở ngôi thứ ba, Anton chỉ xuất hiện ở đầu-cuối truyện và một vài điểm ngừng nghỉ giữa các phần trong câu chuyện.

Tôi chưa đọc nhiều sách lí luận văn học để biết hiện tượng này gọi là gì, vậy nên trong bài viết này, tôi tạm chia ra: lối tường thuật sơ cấp (trực tiếp) và lối tường thuật thứ cấp (gián tiếp). Ở lối tường thuật sơ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc trực tiếp với nguồn kể chuyện, nó đồng thời cũng là nguồn đầu tiên, không bị lẫn qua công đoạn xử lí từ các nguồn trung gian, tựa như ta uống nước suối từ chính dòng suối chảy trong rừng, không phải uống nước suối trong chai đã qua công đoạn lọc của nhà máy. Ở lối tường thuật thứ cấp, độc giả sẽ tiếp xúc gián tiếp với nguồn kể chuyện thông qua một hay nhiều trung gian; lối tường thuật này không hẳn làm cho chất liệu câu chuyện bị lọc bớt đi như nước suối trong chai nhưng khi tiếp cận với lối tường thuật này, một khoảng cách nhất định sẽ được thiết lập giữa độc giả và câu chuyện, người đọc ý thức được rằng nhân vật đang kể chuyện (hay ngôi thứ ba khách quan đang kể chuyện) không chỉ để cho mình biết mà trước nhất, cho một nhân vật khác trong câu chuyện được biết. Theo cách chia này, những câu chuyện chỉ sử dụng duy nhất một ngôi kể chuyện (thứ nhất, thứ hai, thứ ba) xuyên suốt tác phẩm áp dụng lối tường thuật sơ cấp. Trong khi đó, những tác phẩm như Trà Hoa Nữ, hay Lũ người quỷ ám lại áp dụng lối tường thuật thứ cấp. Tuy vậy, lối tường thuật thứ cấp trong hai tác phẩm này, cũng như trong Phỏng vấn ma cà rồng không phải là sự đan xen liên tục giữa thứ cấp và sơ cấp, giữa nguồn trung gian và nguồn sơ khởi, giữa người kể chuyện và người trực tiếp trải nghiệm. Thực tế, những tác phẩm này vẫn được kể theo lối tường thuật sơ cấp, chúng chỉ có vỏ bọc là lối tường thuật thứ cấp ở vài điểm trọng yếu hoặc ngơi nghỉ trong tác phẩm. Đến đây, chúng ta quay về câu hỏi đầu tiên nhưng dưới cách diễn đạt khác: tại sao những câu chuyện này không được kể xuyên suốt theo lối tường thuật sơ cấp khi lối tường thuật thứ cấp chỉ như một lớp màn mỏng, phất phơ ở vài điểm nhỏ lẻ trong câu chuyện, khi mà bản thân câu chuyện cũng không hướng người đọc dành sự quan tâm đến nguồn thứ cấp – ở đây là người kể chuyện trung gian (nhân vật nam vô danh trong Trà Hoa Nữ, Anton Lavrentyevich trong Lũ người quỷ ám, phóng viên trong Phỏng vấn ma cà rồng), khi mà nguồn sơ cấp – ở đây là người trực tiếp trải nghiệm vẫn chiếm lĩnh vị trí chính yếu (Armand trong Trà Hoa Nữ, gia đình Varvara trong Lũ người quỷ ám, Louis trong Phỏng vấn ma cà rồng)?

Câu trả lời của tôi là: khoảng cách, độ lùi, sự bí ẩn.

Khoảng cách. Khi người đọc được tiếp xúc câu chuyện ở hình thức sơ cấp với vỏ bọc là thứ cấp, họ có một khoảng cách nhất định với nhân vật. Chính khoảng cách này tạo ra sự bí ẩn cho nhân vật, câu chuyện được kể.

Sự bí ẩn ấy khiến độc giả thấm thía hơn rằng có thể nhân vật vẫn còn nhiều góc khuất mà họ đã không kể ra cho nguồn thứ cấp biết, hoặc nguồn thứ cấp không kể lại cho độc giả biết. Đôi khi, cảm giác này sẽ đem lại chút kích thích theo kiểu trinh thám.

Độ lùi. Lối tường thuật thứ cấp chủ yếu hình thành dựa trên sự kể và kể lại. Chính vì vậy, nó thường không mang đến cảm giác trải nghiệm trực tiếp như lối tường thuật sơ cấp ở ngôi thứ nhất và ngôi thứ ba. Một nhân vật có thể kể lại toàn bộ cuộc đời anh ta cho người khác nghe nghĩa là anh đã sống sót và vượt qua những biến cố khó khăn, hiểm nghèo. Sự thật hiển nhiên này khiến người đọc không mấy lo lắng cho nhân vật khi anh gặp nguy hiểm vì họ nhận thức rõ ràng đó là chuyện trong quá khứ được kể lại, đó không phải là thực tại. Nói cách khác, độ lùi trong lối tường thuật thứ cấp là tác nhân làm giảm đi kịch tính câu chuyện, nó dịch chuyển sự quan tâm của người đọc từ sự kiện sang phương thức, từ tâm trạng hồi hộp sang trầm tư sâu lắng.

Tôi nghĩ rằng cả ba tác phẩm Trà Hoa Nữ, Lũ người quỷ ám, Phỏng vấn ma cà rồng đều đã tận dụng được tốt từ hai đến ba đặc điểm tối ưu trong lối tường thuật thứ cấp mà tôi vừa nêu ở trên. Phỏng vấn ma cà rồng là tác phẩm được viết theo lối gothic, vậy nên việc tạo cảm giác về khoảng cách và sự bí ẩn là cần thiết; hơn nữa, bản thân ma cà rồng luôn là nhân vật dễ tạo ra/cần tạo ra cảm giác bí ẩn cho độc giả. Độ lùi cũng là thứ cần thiết trong tác phẩm này vì những gì Louis đã trải qua không quan trọng bằng việc anh nghĩ gì về nó.

Style

Sau khi đọc Chiến tranh và Hòa bình của Lev Tolstoy, tôi đã giữ thói quen đọc lướt qua những bình luận của độc giả trên Goodreads. Lần này, với Phỏng vấn ma cà rồng, tôi tìm được một nhận xét khá hài hước, thú vị từ độc giả Daniel Marcos:

“I really wanted lo like this book, my hopes were high, because I LOVE vampire books and this is one of the most important, and it is without a doubt, the most boring one.
I hate Anne Rice’s writing, it makes me want to cut my veins.
Let me give you an example:

My keyboard is very beautiful, I like how the “Q” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Q” I also like how the “E” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “E” I also like how the “W” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “W” I also like how the “R” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “R” I also like how the “T” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “T” I also like how the “Y” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “Y” I also like how the “U” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “U” I also like how the “I” feels underneath my finger when I press the button to type the letter “I”.

Yes, it is THAT repetitive. The characters ramble and ramble and ramble and ramble about things that 1.- Do not make sense with the story 2.- Have been said a thousand times before 3.- Are beautiful, everything in this book is beautiful, the flowers are beautiful and she describes them for 7 pages, the windows is beautiful, the coin on the floor is beautiful, the moth documentary is beautiful…. it makes me want to kill myself.”

Tôi đã không ngăn được bản thân mình phì cười khi đọc nhận xét này. Các đánh giá một sao trên Goodreads bao giờ cũng hài hước. Dù vậy, tôi không đồng ý hoàn toàn với nhận xét trên. Đúng là Anne Rice miêu tả lặp đi lặp lại rất nhiều thứ trong tác phẩm này nhưng tôi không cảm thấy quá nhàm chán vì mỗi lần lặp lại, bà đều cố gắng miêu tả nó khác đi, nhìn nó dưới một góc cạnh khác (tuy không phải lần nào cũng khác nhau, song cũng tuyệt đối không phải là trùng lặp hoàn toàn). Có lẽ, với những người khác nhau, họ sẽ để ý những thứ khác nhau trong những điều bà hay lặp lại. Còn với tôi, tôi đặc biệt lưu ý đến cách bà miêu tả những ngọn lửa trong tác phẩm này. Nếu phải chọn một hình ảnh mang tính biểu tượng cho Phỏng vấn ma cà rồng, tôi sẽ chọn hình ảnh ngọn lửa bởi lẽ lửa đóng vai trò rất quan trọng trong câu chuyện này, nó góp mặt ở hầu hết những biến cố chính trong truyện. Trong vô số những thứ Anne Rice miêu tả trùng lặp, có lẽ sẽ sót lại đôi thứ quả thật là thừa, bỏ đi cũng không hề ảnh hưởng đến câu chuyện. Tuy nhiên, các miêu tả xoay quanh “lửa” tuyệt đối không nằm trong nhóm đó. Trích dẫn dưới đây là đoạn văn miêu tả lửa tôi thích nhất trong tác phẩm này:

“Một khúc gỗ đang rơi rất chậm xuống đống lửa, trượt xuống trong một chu trình sẽ mất cả đêm mới kết thúc được, và trên thân nó lỗ chỗ những vết rỗ, một thứ vật chất đã chọc xuyên qua đó và nhanh chóng cháy rụi, và trong mỗi lỗ nhỏ đó là một ngọn lửa tí hon nhảy múa, hòa mình vào ngọn lửa lớn hơn; những cái miệng đen của chúng dường như những khuôn mặt tạo thành một dàn hợp xướng; và dàn hợp xướng đang ngân nga mà không phát ra tiếng động. Dàn hợp xướng ấy không cần phải hát; chỉ bằng một hơi thở trong ngọn lửa bất tận, chúng đã tạo nên một bài ca thầm lặng của riêng chúng.”

Ban đầu, dù thấy đoạn miêu tả này hay nhưng tôi đã nghĩ nó hơi thừa. Về sau, tôi mới phát hiện đoạn miêu tả này chẳng thừa chút nào vì nó là set-up tinh tế cho những gì sắp diễn ra, nó là một điềm báo, một sự gợi nhắc khéo léo.

Tôi chưa đọc bản gốc nên không thể đưa ra nhận xét cá nhân về chất lượng bản dịch ở khía cạnh đúng sai. Tuy nhiên, nếu là cảm nhận mang hướng cảm tính khi đọc trên văn phong dịch sang tiếng Việt, tôi nghĩ rằng bản dịch của Hải Âu đã truyền tải được khá chính xác không khí cổ điển của thế kỉ 18, 19 – thời điểm câu chuyện diễn ra. Trước khi đọc tác phẩm này, tôi không tìm hiểu bất kì thông tin nào trên mạng nhưng trong quá trình đọc, văn phong dịch khiến tôi nhớ đến tác phẩm Biệt thự bảy đầu hồi (The House of the Seven Gables) của Nathaniel Hawthorne qua bản dịch của Việt Nam khảo dịch xã trước 1975. Đó là tác phẩm được xếp vào thể loại gothic, thời gian câu chuyện diễn ra cũng là ở thế kỉ 19. Để tìm câu trả lời lí giải cho cảm giác về sự giống nhau ở văn phong, không khí của hai tác phẩm này, tôi đã tra thông tin về Phỏng vấn ma cà rồng trên mạng. Và tôi không cần phải đọc nhiều, câu trả lời nằm ngay ở dòng đầu tiên: Phỏng vấn ma cà rồng là tiểu thuyết thuộc thể loại gothic horror. Thể loại này là sự kết hợp giữa hai đặc tính: lãng mạn và kinh dị; các câu chuyện thường diễn ra trong bối cảnh là những tòa lâu đài, biệt thự u ám, cổ kính. Có lẽ vì vậy mà phần lớn những đoạn miêu tả cảnh vật hay đồ vật trong Phỏng vấn ma cà rồng cũng như Biệt thự bảy đầu hồi đều có sự song hành giữa tính lãng mạn và tính kinh dị. Ở trên, tôi đã trích dẫn một đoạn miêu tả lửa trong Phỏng vấn ma cà rồng, dưới đây tôi sẽ ví dụ minh họa bằng một trích dẫn trong Biệt thự bảy đầu hồi:

“Còn về ngôi nhà cổ kính trong câu chuyện này, tất cả những đặc điểm của nó từ sườn nhà bằng gồi, vách ván, mái nhà và lớp hổ bị tróc, cho đến cả cái ống khối đồ sộ vĩ đại ở chính giữa, cũng chỉ có vẻ là phần nhỏ nhất của cái sự thực về ngôi nhà ấy. Biết bao kinh nghiệm của nhân loại đã qua tại đó, với bao đau khổ và cả đôi chút niềm vui khiến cho các tấm gỗ đều nhầy nhụa như thể bị nhiễm sự ẩm ướt của một trái tim. Chính đó là một trái tim lớn của con người, có sinh lực riêng biệt, đầy kỉ niệm dồi dào và bi đát.”

After credit

Ở đoạn kết của Phỏng vấn ma cà rồng, một lần nữa, ưu điểm bí ẩn – trinh thám trong lối tường thuật thứ cấp lại phát huy tác dụng. Phân đoạn kết thúc của tác phẩm này không hiểu sao lại khiến tôi nhớ đến những cảnh after credit trong các phim siêu anh hùng của Marvel. Ý tôi là, nó nhắc khéo khá rõ ràng rằng sẽ có phần tiếp theo nữa, các bạn đừng bỏ lỡ. Và quả thật, Anne Rice đã viết tiếp không chỉ một mà đến mười một phần tiếp theo trong tổng số mười hai phần của series The Vampire ChroniclesPhỏng vấn ma cà rồng chỉ mới là khởi đầu.

Hết.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng