Phía sau trang sách

Lời thì thầm của cây

“Hãy bước ra ngoài kia, cầm cuốc xẻng lên để trồng một mầm non cho mai sau.”

Published

on

WHAT THE TREES SAY

Thomas Pakenham

Vào năm 1664, John Evelyn – nhà biên khảo, chủ đồn điền và cao ủy viên dưới thời vua Charles II đã xuất bản một cuốn sách phi thường về các loài cây: Sylva, or a Discourse of Forest Trees (Tạm dịch: Sylva, hay cuộc luận bàn về các rừng cây), một trong những cuốn sách được quan tâm bậc nhất thế kỷ 17. Evelyn thật sự là đứa con chính tông của thời Phục Hưng khi đó là cuốn sách đầy uyên thâm, sắc sảo, thực tế và nồng nhiệt dù ở khía cạnh nào; để rồi sau này không một tác phẩm nào viết về thực vật lại có sức ảnh hưởng lên công luận nước Anh như thế. Thông điệp của ông? Một thông điệp thức thời: Chúng ta đang cần ghê gớm các loài cây; vì thế, hãy ra khỏi nhà, cầm xẻng lên, và bắt đầu gieo một mầm non.

Sylva, or a Discourse of Forest Trees
Ảnh: AbeBooks.com

Mặc cho những thảm họa đã khiến London tê liệt hai năm sau đó – trận đại dịch và đại hỏa hoạn – Evelyn vẫn sống sót để chứng kiến cuốn sách của mình được in lại đến bốn lần. Một thế kỷ sau, nó được tái bản và bổ sung thêm những minh họa chạm khắc mạ đồng thanh lịch cùng nhiều bình luận thấu đáo để cập nhật với thời đại hơn. Tiếp đến là những phiên bản gần đây nhất (rút gọn tên thành Sylva). Rất nhiều cây bút hiện đại cố gắng viết với tinh thần của Evelyn. Nhưng bằng một cách nào đó, Sylva vẫn nghiễm nhiên đứng đấy với một vị thế khó ai sánh kịp. Cứ như thế cho đến hiện tại. Hai cuốn sách mới nhất về các loài cây được đánh giá cao là The long, long life of trees (Tạm dịch: Một cuộc đời dài, rất dài của các loài cây)The hidden life of trees (Phương Nam Book đã dịch và phát hành tại Việt Nam với tựa đề Đời sống bí ẩn của cây). Với những phương thức khác nhau, chúng vẫn mang đậm “phẩm chất” Evelyn.

Một cuộc đời dài, rất dài của các loài cây viết bởi Fiona Stafford được đánh giá là tiệm cận nhất với tư tưởng Sylva. Đúng là Evelyn có sự mạo hiểm hơn trong việc chọn lựa giống loài cây để đi sâu khai thác miêu tả. Ông bao hàm một phạm vi rộng đáng kinh ngạc lên đến hơn 31 chi: từ những loài mới ở Bờ Đông Mỹ như sồi đỏ và thông Weymouth, cho đến những loài ngoại lai ở Anh như tuyết tùng Leban hay cây dâu tây Ireland. Trong khi đó, với cuốn sách của mình, Stafford khoanh vùng trong phạm vi an toàn hơn với chỉ 17 chi đại diện phổ biến trong các khu vườn, rừng cây và trên các bờ giậu rộng khắp Tây Âu và Bắc Mỹ như sồi, sung dâu, dẻ ngựa, sơn trà và nhiều loài khác. Nhưng thật may, những diễn giải của cô không phải là những luận điệu nhàm chán.

Stafford là giáo sư ngôn ngữ và văn chương Anh tại Đại học Oxford, cô thể nghiệm đa thể loại: từ tiểu thuyết, thơ ca, nghệ thuật cho đến môi trường. Bằng cách riêng mình, cô cũng là một học giả thông thái như Evelyn, và cô là một cây bút tiềm năng. Với cô, cây cối có ý nghĩa như thế nào? Theo lời Stafford, cuốn sách ra đời nhờ vào “cảm giác diệu kỳ” của cô hướng về cây cối. Cô ngưỡng mộ vẻ đẹp hình thể của chúng. Cô kinh ngạc bởi cách thức chúng sinh tồn. Và trên hết, có lẽ cô bị hút vào bởi nền văn hóa tổ chức lớp lang của chúng. Cô nhắc chúng ta nhớ rằng thật dễ dàng để coi nhẹ sự tồn tại của cây cối. Thế nhưng chúng ta phải làm nhiều hơn là chỉ đơn thuần ngưỡng mộ. “Hãy bước ra ngoài kia”, cô tiếp lời với thứ ngôn ngữ phảng phất âm điệu Evelyn, “cầm cuốc xẻng lên để trồng một mầm non cho mai sau.”

*

The long, long life of trees
Ảnh: GoodReads

Nếu trồng một cái cây mới, tôi tin chắc rằng lựa chọn đầu tiên của Stafford hẳn là một cây sồi. Hầu hết những người khôn ngoan đều không thể khước từ sức hấp dẫn của loài sồi thường gặp tại châu Âu, Quercus robur. Có bao giờ bạn bước chân vào Royal Oak? Stafford đang ám chỉ đến những quán bar Anh Quốc chứ không phải cây sồi nổi tiếng vùng Boscobel mà ở đó vua Charles II từng ẩn nấp sau trong trận thua Worcester năm 1651 trước cơn cuồng nộ của toán quân “kẻ đầu tròn”. Dĩ nhiên chuyện này dẫn đến chuyện khác, và ngày nay, số lượng quán bar Royal Oak hơn hẳn số lượng những quán bar khác, ngoại trừ Crown và Red Lion.

Trong chương viết về cây sồi, Stafford mở ra một lịch sử phức tạp về sự mê đắm của nước Anh dành cho loài cây này. Từ rất lâu trước cuộc trốn thoát nhiệm mầu của nhà vua ở Boscobel, sồi vốn đã là biểu tượng của quyền lực và sức mạnh xa xưa. Đó là loài cây của Zeus – vua của những vị thần. Đó là loài cây tiên tri xứ Dodona miền Hy Lạp, có thể đoán định trước tương lai. Augustus Caesar, người rất ý thức về hình ảnh của mình, cũng từng đối mặt đội quân La Mã khi mang trên đầu vương miện dân chủ lá sồi. Phẩm chất “nam tính” của cây sồi khiến nó là lựa chọn phù hợp cho biểu tượng của bất kỳ quốc gia nào, như Anh chẳng hạn, và tạo ấn tượng lấn át những người xóm giềng. Không quá khó để nó trở thành quốc thụ của đất nước này, mặc dù lời khẳng định trên không hẳn là chưa bao giờ bị thách thức. (Nhiều người dân yêu nước tại Anh chắc hẳn sẽ rất bất ngờ khi biết rằng từng có đến mười hai nước châu Âu khác và Mỹ xem nó như quốc thụ của họ.)

“Mạnh mẽ, kiên định và ngang tàng”, Stafford viết, “cây sồi luôn được ngưỡng mộ bởi nguồn năng lượng nội tại bền bỉ…. Không một loài cây nào bền lòng vững chí và hòa làm một với thế giới như nó. Không giống giẽ gai, dẻ ngựa hay sung dâu – những loài mà cành cây vươn đến bầu trời – thân sồi trưởng thành vững chắc, lởm chởm tỏa ra như vòng tay mở bán cầu dày lá.”

Những vòm lá trùng trùng điệp điệp này là nhà cho những sinh thể nhỏ hơn với số lượng đáng kinh ngạc: côn trùng, chim chóc, động vật, địa y, dương xỉ và nấm. Nếu ta tìm kiếm giữa những nhánh cây bám đầy địa y hoặc dương xỉ, ta cũng có thể bắt gặp cả chim ruồi, chim cổ đỏ và chim oanh tìm kiếm côn trùng; trong khi gõ kiến và cú nhỏ xây tổ trong những hốc rỗng trên thân. Một thân sồi lớn chứa đựng cả thế giới bên trong nó. “Sồi là Vua của các Loài Cây”, Stafford hào hứng viết, “là tinh thần, thể xác và môi trường sống của cả một nền văn minh”.

Một cây sồi lớn có thể tồn tại bao lâu? Không có khả năng đoán định chính xác, vì những cây sồi cổ xưa nhất thân đã bị rỗng, các đường vân gỗ cũng theo đó biến mất. Theo những ước tính khinh suất nào đấy (có cả của riêng tôi), nó nằm trong khoảng từ sáu trăm đến một nghìn năm. May thay, những cá thể sồi cổ tại Anh Quốc đã được ghi lại và miêu tả bởi Jacob Strutt trong cuốn sách tiên phong của ông, Sylva Britannica, được ấn hành lần đầu vào năm 1826. (Ông đã mượn một nửa tiêu đề từ John Evelyn.) Như một lẽ thường, phần nhiều loài cây cổ như sồi Yardley1, sồi Bull2 hay Cowthorpe3 – tất cả đã gục ngã hay đơn giản hơn, trở về tro bụi. Một vài trong số khác, như sồi Major4 ở khu rừng Hoàng gia Sherwood Forest, số phận của chúng đã cam chịu thành một kẻ tàn tật, được chống đỡ bởi những thanh nạng thép. Nhưng một vài trong số những cá thể nổi tiếng vẫn còn tồn tại.

Sồi “Majesty” ở công viên Fredville hạt Kent vẫn còn đứng vững, qua khoảng năm hay hay sáu trăm năm. Sồi Panshanger ở Hertfordshire mà Winston Churchill từng ngắm nhìn một thế kỷ trước vẫn còn hùng vĩ. Vĩ đại hơn cả là Sồi Bowthorpe5 ở Lincolnshire. Stafford miêu tả một cuộc viếng thăm của cô tới tạo vật ngàn tuổi này: “Tôi đồ rằng nó không dưới bảy trăm tuổi. Theo tính toán thì từ thế kỷ 18, thân cây đã rỗng đến mức không gian nội thất có thể dùng để đãi tiệc thịnh soạn cho tầm mười bảy người. Hiện nay, nó chỉ là nhà của một chú ngựa con và vài con gà. Nhưng người chủ sở hữu hào phóng vẫn mở cửa cho du khách viếng thăm.” Stafford tả lại những trải nghiệm ấy “như dời bước từ đời sống tầm thường để đắm chìm trong sự hiện diện của một tồn tại bất tử cổ xưa, gồ ghề nhưng lạ lùng thay, lại rất ấm áp.”

Quiver Tree Forest, Namibia; photograph by Beth Moon from her book Ancient Trees: Portraits of Time (2014). A collection of her color photographs, Ancient Skies, Ancient Trees, has just been published by Abbeville.

*

Một trong những chương hay nhất nói về một loài phổ biến và thường bị sỉ vả tại châu Âu – cây sung dâu. Stafford trích đăng một nhận định nổi tiếng của William Blake: “Không có ai nhìn thấy một sự việc theo cách thức giống nhau: Nếu một cái cây có thể khiến vài người nhỏ Lệ Cảm Động, thì với một số người khác, nó chỉ là một thứ màu xanh ngáng đường.” Liệu Black có nhớ tới loài sung dâu khi ông viết những dòng ấy? Tai tiếng của loài cây này chính bởi thói quen rụng thứ lá nhớp dính ngay trên vỉa hè hoặc đường ray, gây ra trì hoãn và tai nạn. Trong thực tế, “dịch ngọt” phủ trên lá sung dâu là một hỗn hợp sáp đậm đặc, giàu đường cùng chất thải của loài rệp vừng mà nó nuôi dưỡng. Danh sách những việc làm được cho là xấu xa của loài cây này chưa dừng ở đó. Stafford cho rằng, sung dâu là loài cây của sự “thừa mứa”.

“Vì nhiều lý do, sung dâu nhìn chung là một loài cây quá phóng khoáng. Nó phá hoại nhận thức tỉ lệ của con người, thậm chí dường như phơi bày sự lo âu đạo đức tiềm ẩn vì cái lối thừa mứa quá mức. Nó là loài cây đậm chất hoang phí: quá nhiều sáp, quá nhiều lá. Quá nhiều sung dâu, thật vậy.”

Hạt giống hình cánh cánh quạt của nó là cực hình với người làm vườn. Nó phá hoại thảm cỏ và cả khóm hồng. Tệ hại nhất, nó là loài “tầm gửi”, là một sinh vật ngoại lại xâm lấn, là kẻ xâm lược tàn độc từ Âu châu.

Stafford điềm tĩnh quan sát những cáo buộc trên và đưa ra những lập luận mạnh mẽ để bảo vệ chúng. Cô chỉ ra rằng loài sung dâu đã nhuộm sắc Anh quốc cả trăm năm trước, và trái ngược với thứ ảo danh huênh hoang này, số lượng của chúng vẫn không hề tăng trong nửa thế kỷ qua. Thật thế, chúng nằm gọn trong hệ sinh thái, khéo léo điều chỉnh số lượng và chiếm giữ không gian nơi các loài khác không phát triển mạnh. Chúng hào phóng theo cách tốt nhất. Chúng thêm nét thanh tao và sự an tĩnh cho bờ biển Yorkshire ảm đạm hay đảo đá Scotland. Để phản bác với những nhận định rằng chúng là những kẻ xâm lược ngoại lai, Stafford chỉ ra rằng đền thờ Thánh Frideswide tại giáo đường Oxford từ thế kỷ 13 đã khắc hình lá sung dâu năm thùy trên khối đá lớn mặt trước ngôi mộ. Điều này cho thấy, ở thời Trung Cổ, lá sung dâu là một biểu tượng của đạo Thiên Chúa, và có lẽ nó đại diện cho Thánh tích hay Năm Vết Thương của Chúa. Đánh giá từ những nghiên cứu hiện đại về phấn hoa hóa thạch cho thấy, có khả năng sau tất cả những lời đồn đoán, sung dâu là một loài bản địa.

Stafford tiếp tục chỉ ra rằng các nhà thơ mau mắn hơn người làm vườn trong việc coi trọng những phẩm hạnh của loài cây này. Cô trích dẫn một khảo cứu thi vị của John Clare về loài “sung dâu lộng lẫy” với tầng tầng những tán lá xanh đầy nắng. Những chiếc lá dinh dính, ông viết, là món quà to lớn của tạo hóa. Chúng ta phải lắng nghe những vần thơ “Những con ong hoan hỉ với đôi cánh háo hức,/ Dùng bữa trên những chiếc lá rộng cùng dịch ngọt phủ phê.” Stafford cũng đồng thời gợi nhắc chúng ta về bài thơ đắng cay ngọt bùi của Shelley Khúc ca gửi ngọn gió tây được viết dựa trên trải nghiệm của ông vào mùa thu năm 1819 khi lang thang trong những khu rừng sung dâu vùng Florence. Shelley ngập chìm trong cơn bĩ cực vì hai đứa con đã mất; và mùa thu năm ấy, chiếc lá sung dâu rơi đã gợi liên tưởng cho ông. Những chiếc lá khô bị đưa đẩy bởi ngọn gió tây – “Vàng hay đen, nhạt mờ hay đỏ thắm,/ Cả một bầy ôn dịch: ôi ngươi/ Kẻ đã đem những hạt giống trên trời”6. Nhưng những cái cây, ông hy vọng, sẽ sớm “tỉnh thức để tái sinh”. Ngọn gió tây đồng thời được coi như người phân phát hạt giống hồi sinh, nhưng cũng là bàn tay què quặt lấy đi lá rớt. Những chiếc lá úa hứa hẹn một cuộc hồi sinh: “Nếu Đông về, Xuân có ở sau chăng?”.

The Amorous Baobabs (Tạm dịch: Cây Baobab si tình), gần Morondava, Madagascar; được chụp bởi Thomas Pakenham trong quyển Những dấu mốc Thực vật (2002).

*

Trong chương về loài tần bì và cây dẻ ngựa, Stafford đưa ra những ghi chú ảm đạm hơn. Cả hai đều là loài châu Âu của chi toàn cầu, có tên khoa học lần lượt là Fraxinus excelsior và Aesculus hippocastanu, và đang bị đe dọa bởi hai căn bệnh chết chóc đến từ phương Đông. Trong thực tế, những cá thể phổ biến nhất tại châu Âu và Bắc Mỹ cũng đang đương đầu với những mầm mống diệt chủng Á châu này. Năm mươi năm qua, chúng ta đã mất rất nhiều cây du do loài nấm Trung Hoa được gieo rắc bởi bọ cánh cứng đẻ trứng nhiễm mầm bệnh dưới lớp vỏ cây. (Cái tên bệnh gỗ du “Hà Lan” dễ gây hiểu lầm – thực chất căn nguyên đến từ châu Á chứ không phải châu Âu.) Ngày nay những kẻ thù mới – gây bệnh sồi chết đột ngột, suy giảm gỗ sồi cấp tính, giẽ gai khô héo, cây dẻ ngựa ngọt tàn lụi – đang phá hủy phần lớn những công viên và khu rừng của chúng ta.

Vấn đề cấp bách nhất của châu Âu ngày nay là nấm Chalara, một loài gây bệnh khô ngược – khô cành và héo lá – ở cây tần bì, được cho là bắt nguồn từ châu Á vào thập niên 1990 trong những thùng gỗ hay gỗ lát pallet nhiễm nấm. Ở Đan Mạch, hơn 80% cây tần bì đã chết. Thảm kịch này đang vươn tay bao trùm Anh và Ireland và được dự đoán là sẽ gây ra mức độ tàn phá tương tự. Stafford chẳng có hi vọng nhiều nhặn gì để đối phó với Chalara. Có lẽ đã quá trễ để kiềm hãm chúng. Những biện pháp khống chế nên được áp dụng từ khi Chalara mới được phát hiện lần đầu ở Đông Âu. Và thậm chí nếu những biện pháp kịp thời phát huy tác dụng thì vẫn còn đó những nguy cơ tàn nhẫn hơn đến từ châu Á ẩn mình đằng sau Chalara – sâu đục thân ngọc lục bảo, Agrilus planipennis, một loài bọ cánh cứng xanh sáng Trung Hoa đã gậm nhấm nhiều khu rừng Bắc Mỹ. Vì thế Stafford để lại kết luận ảm đạm rằng không còn cách nào khác, và dù làm gì đi nữa chúng ta cũng sẽ phải mất gần như những cây tần bì và nhiều hơn nữa những “con đường lát gỗ thân quen, công viên cây xanh và những thị trấn không còn mái nhà, trơ trọi và trống rỗng.

Về cây dẻ ngựa, người ta tin rằng hơn nửa số loài ở châu Âu đã bị nhiễm vi khuẩn chảy máu hạt – một loại bệnh nhiễm gây ra dịch nhớt tiết quanh những vết thâm trên thân, và dần dần giết hại cả cây. Stafford đưa ra một góc nhìn tích cực đáng ngạc nhiên về mối nguy này. Cô cho rằng “bệnh chảy máu hạt dẻ ngựa giống như… một sự sợ hãi tâm lý hơn là một căn bệnh bằng xương bằng thịt. Giả chết dường như là một trò lừa gạt mà đám dẻ ngựa hẳn sẽ rất thích thú…” Tôi ước gì tôi có thể tin cô ấy. Ở Ireland, nơi tôi đang sống, những cá thể khỏe mạnh nhất trong công viên và những khu vườn đều đã ngã quỵ. Mỗi năm chúng tôi lại mất từ hai đến ba những cây lớn và kỳ vĩ nhất trong công viên. Không thể kháng cự, không một giải pháp.

Nhưng một tin tốt có thể đến tai và an ủi Stafford là sau tất cả đã xuất hiện cách giảm thiếu những hiểm họa này. Nếu tham vọng của chúng ta là phục sinh những loài cây đã mất, chúng ta có thể chọn những cá thể có cùng chi Trung Quốc, Nhật Bản hay Ấn Độ. Điều này có nghĩa ta sẽ có dẻ ngựa Himalaya, cây du Trung Hoa, tần bì Trung Quốc, cây sồi Nhật Bản và còn nhiều nữa. Những cá thể châu Á này tiến hóa song hành hàng triệu năm cùng những mối nguy có chung nguồn gốc. Ngày nay những cá thể này được cho là miễn dịch với nguồn bệnh – dựa theo ý kiến những chuyên gia tôi đã trò chuyện. Và tôi hy vọng rằng họ đúng. Dù sao đi nữa, tất cả sẽ thật rõ ràng chỉ trong vòng một trăm năm tới.

*

Đời sống bí ẩn của cây
Ảnh: Nhà sách Phương Nam Phú Xuân, Thừa Thiên Huế

Đời sống bí ẩn của cây từ Peter Wohlleben lại khai phá một lĩnh vực hoàn toàn mới, và John Evelyn chắc hẳn sẽ vô cùng hứng thú với những phát kiến này. Wohlleben là chuyên gia về rừng, đang làm việc tại cộng đồng địa phương ở Hümmel – một ngôi làng nhỏ trong rặng núi Eifel phía tây nước Đức. Trong nhiều năm dài, ông vốn làm quản lý những rừng giẽ gai, sồi, thông và vân sam với những dây chuyền hiện đại: chặt cây lấy gỗ khi chúng trưởng thành và khai thác gỗ bằng máy móc công nghiệp. Như ông nói, ông “biết nhiều về đời sống bí ẩn của cây tựa như một người đồ tể hiểu rõ đời sống tình cảm của động vật.” Nhưng dần dần, ông bắt đầu có một cái nhìn mới về những loài cây. Ông để ý thấy, những du khách thường sẽ ngưỡng mộ một cái cây mà theo ông là không có giá trị nào về mặt thương mại: cái cây càng vặn vẹo hay càng thô ráp, người ta lại càng thích chúng. Tình yêu riêng biệt ông dành cho tự nhiên – vết tích từ thời thơ ấu – lại được thắp sáng. Ông bắt đầu lưu tâm đến những dạng rễ kỳ quái và kiểu mẫu tăng trưởng khác thường. Ông viết, “Bất thình lình tôi nhận ra vô số điều diệu kỳ mà tôi khó có thể giải thích với chính bản thân mình.”

Trong khi đó một thế hệ khoa học gia mới cũng đang nghiên cứu về khu rừng địa phương của ông, bao gồm một nhóm từ đại học Aachen. Ở đó và ở Đại học Vancouver cách đó hơn năm ngàn dặm từ tỉnh lỵ British Columbia, những khám phá mới đã khiến Wohlleben kinh ngạc.

Cả hai nhóm đều phát hiện ra một hệ thống mạng lưới kết nối ngầm rộng lớn được gọi là một mycorrhiza, mà ở đó những loài nấm kết nối những giống loài khác nhau bằng những tín hiệu hóa học và xung điện trên những rễ cây. Đó là một mạng Internet truyền thông “wood wide web”. Thực vật có thể thật sự giao tiếp với nhau bằng cách chuyển đổi carbon thông qua rễ của chúng, sự trao đổi này dẫn đến một mối tương hỗ. Carbon là thức ăn của thực vật, được tạo ra từ quang hợp bằng cách sử dụng lá cây như một tấm pin mặt trời. Đôi khi cái cây nào đó sẽ đóng vai trò cai trị khu dân cư và phân phát cho những hộ khác nhiều carbon hơn số lượng chúng nhận lại, và sau đó vai trò sẽ được luân chuyển cho cá thể khác, cứ thế tiếp tục.

Khi sự tinh vi của mạng lưới ngầm vừa được khám phá, các nhà khoa học nhận thấy rõ ràng rằng thực vật không chỉ thu lợi bởi sự trao đổi thức ăn trong mạng lưới này. Chúng còn trao đổi các thông tin sống còn, cảnh báo những cây lân cận (và những cây con) những mối hiểm họa để rồi đưa ra giải pháp giảm thiểu mất mát. Lấy một ví dụ, nếu một lá cây bị ăn bởi một chú sâu bướm thì cá thể cây này sẽ gửi thông điệp thông qua mạng lưới mycorrhiza và cảnh báo các cây khác trong mạng lưới tiết ra những chất hóa học đẩy lùi loài sâu.

Về phía Wohlleben, những phát kiến này cũng đã xác nhận những điều trăn trở của ông, rằng: Bằng cách riêng mình, thực vật cũng có cảm xúc và chúng biết cách làm cách nào để giao tiếp với các cây khác, một kiểu lá lành đùm lá rách. Nhưng làm thế nào để đồng nhất điều này với thứ công việc đồ tể rừng xanh? May mắn thay, những cộng sự của ông – dân làng Hümmel, đều có bản chất yêu mến thiên nhiên như ông. Họ đồng ý từ bỏ nguồn thu nhập từ việc bán gỗ và xây dựng lên một khu bảo tồn thực vật trong rừng. Tất cả máy móc hạng nặng đều bị cấm. Khi một cái cây cần được đốn ngã, chỉ ngựa mới được cho phép sử dụng chuyên chở những khúc gỗ này. Khu rừng lại phát triển xanh tươi nhờ những quy luật hào phóng mới, và du khách đổ xô đến khám phá những phép màu này. Có lẽ chính nhờ nhận thức cao mà làng Hümmel tự mình tạo ra một thương vụ béo bở.

Đến nay Wohlleben vẫn tiếp tục làm việc với rừng. Mỗi ngày ông đều khám phá một điều mới mẻ: hiểu nhiều về cách chúng tồn tại và tàn lụi đi, về cách chúng sống đời thuận hòa với láng giềng xung quanh và với cả hệ sinh thái. Dĩ nhiên bây giờ ông là vị thần bảo hộ của khu từng hơn là một vị quản lý. Ông sáng lập những tour cứu hộ và sắp xếp một phần khu rừng như một địa mộ. Bây giờ, cuốn sách mới này làm ông thêm phần nổi tiếng một cách xứng đáng. Phiên bản tiếng Đức của nó nằm trong danh sách bán chạy nhất. Hơn hai mươi năm, những nhà khoa học đã luôn khám phá những điều bí ẩn bên dưới rễ cây và đi tìm cách chúng chia nguồn sống. Peter Wohlleben là người đầu tiên giải thích và phơi bày những phát kiến này. Ông lắng nghe cây, giải mã ngôn ngữ của chúng. Và bây giờ, ông đã thay mặt chúng lên tiếng cùng thế giới.

Hết.

Chú thích:

  1. Cây sồi trong bài thơ cùng tên của thi sĩ nước Anh William Cowper.
  2. Cây sồi vang danh trong công viên Wedgnock nước Anh, bị cháy rụi hơn 100 năm trước và được đoán định có tuổi thọ hơn một thế kỷ.
  3. Cây sồi khổng lồ có đường kính hơn 18 mét, bị bật gốc vào năm 1718 bởi một cơn bão và chết hẳn vào năm 1950.
  4. Cây sồi lớn ở làng Edwinstowe, tương truyền là nơi Robin Hood đã nghỉ ngơi.
  5. Được xem là cây sồi cổ nhất nước Anh với tuổi thọ hơn một thế kỷ và chu vi thân 12,3 mét.
  6. Bài thơ Ode to the West Wind, tạm dịch Khúc ca của ngọn gió tây được viết bởi Percy Bysshe Shelley, lời dịch Phan Cẩm Thịnh.

Ngô Thuận Phát dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Thomas Pakenham, đăng tại The New York Review of Books.

Xem tất cả những bài viết của Ngô Thuật Phát tại đây.


Những bài viết có cùng chủ đề môi trường & thiên nhiên




Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng