Phía sau trang sách

Ngầm: Vì sao những con người ưu tú của xã hội Nhật lại giết hại người vô tội lạnh lùng như thế?

Đọc “Ngầm”, tôi sợ. Tôi thấy mình cứ yếu đi dần dần với mỗi chân dung người hiện ra. Chưa có quyển sách nào của Murakami lại khiến tôi sợ đến vậy.

Published

on

Thường sách của Murakami sẽ khiến tôi hơi khó hiểu chỗ này chỗ kia, bối rối và mệt mỏi truy tìm ý nghĩa một chút. Ngầm thì là sách phi hư cấu, nhưng lại khiến tôi sợ kinh khủng. Không phải nỗi sợ mơ hồ những điều không đoán định được như ma quỷ, mà vì những điều tăm tối nhất trong con người (cả con người tôi, nhất là con người tôi), vốn bị nén chặt ở tầng sâu ý thức, đang được mời lên và truy vấn để lộ diện rõ ràng nhất. Những điều đen tối đó có sức mạnh huỷ diệt và khiến người ta sợ (vì thế người ta mới phải nhốt chúng cho thật sâu chứ.)

Thật ra, Ngầm có hai phần. Và phần 1 phỏng vấn về những nạn nhân sarin thì tôi không sợ chút nào. Bất cứ câu chuyện về sự vượt qua thảm hoạ và khủng hoảng dù bi thương đến đâu cũng đều mang đến cảm giác dễ chịu và tin tưởng về sức mạnh của con người. Sự hồi sinh sau huỷ diệt, kiểu thế. Suốt cả tuần tôi đọc phần này, thấy lòng mình bình lặng và vui vẻ.

Đến cuối tuần, tôi mới bắt đầu đọc phần Hậu-Ngầm, phần phỏng vấn về những thành viên của Aum, giáo phái tổ chức rải sarin. Trước đó, khi đọc về những câu chuyện của nạn nhân sarin, tôi cũng hết sức thắc mắc về Aum rồi.

Tôi luôn có kiểu thắc mắc về động cơ đằng sau những hành động độc ác của con người. Có dạo tôi đi đọc về phát xít Đức, những kẻ giết người hàng loạt và những kẻ ăn thịt người các loại. Là người hoàn toàn ghê sợ bạo lực dưới mọi hình thức, tôi luôn không thể hiểu nổi điều gì dẫn bất cứ một con người nào đến những hành vi dã man như vậy. Tôi không thể quy dẫn đơn giản rằng có những người sinh ra đơn giản là độc ác thế. Mình cứ yên tâm đứng ở phía này của Thiện là ổn rồi, còn bọn Ác kia thì mặc kệ chúng với tất cả những hỏng hóc kinh khủng của chúng. Một trong những bài học quan trọng nhất tôi đã học trong thời gian học đại học, là chẳng có gì tuyệt đối đen trắng cả, chỉ có những góc nhìn khác nhau và màu xám là tuyệt đối thôi.

Vậy nên vừa đọc đoạn đầu câu chuyện về vụ sarin năm 1995, tôi cứ thắc mắc mãi. Điều gì dẫn những con người ưu tú và xuất sắc hết mực của xã hội Nhật đi đến hành vi giết hại những người vô tội lạnh lùng như thế. Tại sao họ lại đi theo Aum nếu đó chỉ là một trò hề khủng bố ngu ngốc và độc ác của một tên giáo chủ tuyên bố mình đã đạt được giác ngộ? Tôi xem Youtube, thấy người của Aum mặc áo quần trắng kì dị, nghe cuộn băng thu ma quái lặp đi lặp lại một lời gì đó, thực hành những hình thức hành xác dưới nước trong khi Giáo chủ lẩm bẩm gì đó. Khi Giáo chủ ra lệnh, không ai có thể cưỡng lại mệnh lệnh ấy. Trong những bài viết về Aum trên BBC, Guardian và nhiều báo khác, chữ brainwash (tẩy não) được lặp đi lặp lại.

Tôi bắt đầu đọc phần Hậu-Ngầm trong tâm thế tràn ngập định kiến về Aum như một tổ chức ma quỷ tẩy não người, khiến họ mụ mị, đánh mất ý thức.

Thế mà, trong sự kinh ngạc tuyệt đối, tôi nhận ra những cựu thành viên và thành viên hiện tại của Aum lại hoá ra là những người bình thường, có thật, với khát vọng đi tìm một điều gì đó có ý nghĩa hơn đời sống mỏi mòn này. Họ thật tâm đi tìm ánh sáng với những động cơ trong sáng, đẹp đẽ và chân thành nhất. Họ truy tìm ánh sáng, và khi thấy ánh sáng đó, họ sẵn sàng rũ bỏ tất cả để bắt đầu hành trình đến gần với bản thể mình hơn. Họ sẵn sàng bỏ công việc, bạn bè, gia đình, của cải,… để gia nhập Aum, cống hiến bản thân cho một lý tưởng cao đẹp, tu tập gian nan để sống cuộc đời có ý nghĩa, thay đổi những điều đang xảy ra trong xã hội.

Đi tìm ánh sáng, họ lại gặp bóng tối. Đoạn cuối của câu chuyện chất độc sarin là hàng thành viên Aum đứng trước vành móng ngựa, với mức án tử hình và chung thân vì tội ác chống lại loài người.

Tôi thích cách lý giải của Murakami, không phải là câu hỏi, tại sao họ lại tham gia Aum trong khi họ là những người ưu tú, xuất sắc nhất, mà là họ đã trở thành tín đồ của Aum vì họ đã ưu tú, xuất sắc và luôn tuyệt vọng muốn đi tìm ý nghĩa của cuộc sống như vậy. Nhưng rồi lại bị dẫn dắt sai lầm. Giống như là loài động vật giáp xác, bỏ đi những lớp vỏ để trở nên thành thật nhất và dễ bị lung lạc nhất. Họ đã đánh mất bản thể và bị lung lạc bởi những ý tưởng – những ý tưởng thật sự nguy hiểm. Nó có sức mạnh kinh khủng để dời non lấp bể, để giết người, để huỷ diệt.

Shoko Asahara – giáo chủ của Aum
Ảnh: Independent UK

Ở Aum, như mọi tôn giáo khác, lại là ý tưởng về sự nhân danh, mục đích vượt trên phương tiện. Từ lý thuyết của Phật Giáo Mật tông, không giống Phật giáo Đại Thừa và Tiểu Thừa, Mật tông cho rằng có con đường đi đến giác ngộ ngắn hơn. Đi con đường tắt ấy, người ta có thể vượt qua lằn ranh phân biệt thiện và ác. Asahara sử dụng lý thuyết đó để che lấp cho những mầm ác dần dần nảy sinh trong Aum. Tín đồ đầu tiên chết trong một nghi thức hành xác tôn giáo. (Để truy tìm sự giác ngộ, Aum sử dụng những phương pháp tu khổ hạnh, gần như là tra tấn, đưa con người đến những giới hạn của cơ thể. Tín đồ phải vượt qua những giới hạn đó để đạt đến những mức khác nhau của sự giác ngộ.) Cái chết bị che đậy để bảo vệ thanh danh cho Aum. Vì một sứ mệnh cao hơn của Aum, Asahara và những lãnh đạo cấp cao của Aum lại quyết định giết một tín đồ khác, để bí mật về cái chết thứ nhất không lộ ra. Dần dần, Aum đi theo con đường bạo lực và khủng bố để loại bỏ tất cả những chướng ngại ngăn trở sứ mệnh tôn giáo và mục tiêu thay đổi thế giới trở thành một nơi tốt hơn của Aum. Và cuối cùng sarin được những nhà khoa học ưu tú nhất của Bộ Khoa học và Công nghệ điều chế ra để chứng minh và đẩy nhanh hơn đến Ngày Phán xử Cuối cùng sẽ huỷ diệt, để từ đó Aum xây dựng lại tất cả theo lời tiên tri của Asahara.

Toàn bộ câu chuyện nghe như một kịch bản rẻ tiền của một bộ phim rẻ tiền. Vậy mà bấy nhiêu tín đồ đã nhất nhất làm theo. Murakami lý giải, họ tuân theo không phải là vì đó là một kịch bản hay mà vì bản thân việc được nghe theo – cảm giác bình yên khi trao tất cả quyền quyết định cùng tất cả những bất định của họ cho một người ở trên. Chỉ cần nhất nhất đi theo con đường đó, họ được hứa hẹn cứu rỗi. Họ đánh mất bản thể, đánh mất sự tự do, vì họ MUỐN như vậy.

Câu chuyện của Aum làm tôi nhớ đến lý thuyết trốn khỏi tự do (escape from freedom) của Erich Fromm. Fromm sử dụng câu chuyện về Adam và Eva để nói về sự tự do của con người. Khi ăn quả từ Cây Tri Thức và có lý trí, họ vươn khỏi bóng tối mù mờ bản năng của thế giới động vật, họ của không còn là một phần của tự nhiên nữa. Họ trở thành con người, với tất cả ý thức về sự hữu hạn và sự bất lực, nhỏ bé của mình trước tự nhiên. Tự nhiên là lòng mẹ ấm áp mà họ đã không còn đường trở về. Cùng với sự tự do để hành động độc lập theo lý trí của mình, con người luôn luôn cảm thấy nỗi đau chia cách. Con người hiểu rằng họ chỉ là một thực thể bất toàn, bất định và cô đơn giữa thế giới.

Để chạy trốn, họ tìm cách rũ bỏ sự tự do của mình. Trong Aum, các tín đồ quy phục ý chí tối cao của một giáo chủ tuyệt đối để bỏ đi sự cô đơn và bất định của mình.

Vẫn là ý tưởng muôn thuở, con người là mục đích tự thân. Không được hy sinh con người nhân danh bất kì một điều gì cả. Tất cả mọi điều xấu xa trên thế giới này đều sinh ra vì sự nhân danh. Vì bất kì điều tốt đẹp nào. Không được nhân danh Thánh Allah, không được nhân danh Chúa Jesus, không được nhân danh Đức Phật, không được nhân danh toàn thể loài người, không nhân danh công lý, không nhân danh bình đẳng – bác ái. Mục đích tối thượng sẽ làm người ta hy sinh chính con người. Không được biến con người thành phương tiện, vì con người là mục đích tự thân.

*

Tôi thích đọc Murakami, vì sau khi được dẫn đi sâu thật sâu vào tất cả những tầng tâm thức đen tối đó, tôi lại được dẫn lên, và được chỉ cho thấy, kia là ánh sáng, đây là cuộc sống cứ mới hoài, đi vào cuộc sống đi.

Bởi thế, Ngầm làm tôi sợ vì chỉ cho tôi thấy con người dễ bị lừa mị và thoát khỏi vòng kiểm soát của lý trí biết bao. Ngầm cảnh báo về cái ác, nhưng lại chỉ ra rằng không có cái ác tuyệt đối, mà chính cái ác có thể sinh ra từ khát vọng lương thiện. Kết luận cuối cùng về những người tham gia Aum, Murakami nói “những người gia nhập các giáo phái đều không phải là người dị thường, họ không có điểm gì thiệt thòi, họ không lệch lạc…Có thể họ đã nghĩ về mọi chuyện hơi quá nghiêm túc một chút. Có thể trong nội tâm họ có nỗi đau nào đó họ cứ mang theo. Họ không giỏi bày tỏ cảm xúc của mình cho người khác và có phần nào đó bất an. Họ không thể tìm ra cách thích hợp để tự diễn đạt bản thân, và cứ đắn đo qua lại giữa cảm giác kiêu hãnh và cảm giác mình thiếu năng lực. Tôi rất có thể là như thế. Và cả bạn nữa.”

Đọc xong Ngầm, tôi thấy mình như vừa đi qua những cơn lốc xoáy của những bình nguyên và cánh đồng cuộc sống. Cảm xúc của tôi mạnh đến mức không thể gom những suy nghĩ và cảm xúc của mình thành điều gì khả dĩ đọc được sau đó. Mãi sau hai tháng, tôi mới mở review này ra để viết lại. Đọc xong Ngầm, tôi thấy mình cần ánh sáng kinh khủng. Tôi như vừa trở lại từ thế giới bên trong, vẫn còn lơ mơ. Không cần chi ánh sáng của tri thức hay hiểu biết, mà chỉ là ánh nắng ấm của cuộc sống hằng ngày thôi.

Thật ra, đôi khi phải trèo xuống sâu trong những suy nghĩ nặng nề của đầu mình, để cảm thấy rõ khao khát ánh sáng đó hơn. Chẳng cần lo gì, vì chỉ cần còn nguyên nỗi khát thèm sống lại này thì sự sống đâu được mệt mỏi và hẹp hòi quá lâu.

Hết.

Chi Mai


Muôn màu của Haruki Murakami




Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng