Phía sau trang sách

William Faulkner đã dạy cho tôi cách viết văn như thế nào

Hay lời giới thiệu mới cho “Âm thanh và Cuồng nộ”

Published

on

Nhân kỷ niệm 123 năm ngày sinh của người thầy dạy tôi viết, cùng với nhạc The Carpenters.

Văn chương Mỹ thế kỷ XX có hai người khổng lồ xuất hiện như bằng chứng cho sự phát triển rực rỡ về tất cả điểm nhìn mà một nhà văn có thể khai thác được thông qua phương pháp nhìn cổ điển cùng sự chán chường cùng cực của hậu thế hệ nhạc Jazz, và vô tình hoặc hữu tình thay, họ đều là những nhà văn được trao giải Nobel với lý do tương đồng – công lao không thể thay thế trong việc định hình phong cách và sự phức tạp trong tiểu thuyết hiện đại hậu kỳ: Ernest Hemingway (tất nhiên), và William Faulkner (rất ngạc nhiên). Nói như thế để làm tỏ tường rằng, so với Mr. Papa thì Faulkner vẫn chưa nhận được sự nhìn nhận đúng đắn và dẫu cho có thì sự đúng đắn ấy chưa đủ tính xung đột để xiển dương nhà văn và tác phẩm, ít nhất là ở Việt Nam. Tới nay, chỉ có 7 tiểu thuyết trong số 13 cuốn tất cả được dịch sang tiếng Việt một cách chính chuyên và không phải dưới dạng sách ngầm, sách chui, hoặc tôi không biết, đó là: Cọ hoang, Âm thanh và Cuồng nộ, Khi tôi nằm chết, Thánh địa tội ác (mới được tái bản sau nhiều lần thét một mức giá vô cùng học sinh, sinh viên, cho những tầng lớp bình dân muốn học vụ, từ phía các account facebook khơi dậy tinh thần ham đọc sách của giới trẻ bằng cách chuyển hóa việc đọc thành một việc thiêng liêng và hợp thời: sưu tầm bản sách quý, bên cạnh sưu tầm các phiên bản S100, S500 mà một nghìn năm nữa tôi cũng không dám bước chân vào), Bọn đạo chích, Nắng tháng Tám và hình như chỉ có một chiếc truyện ngắn duy nhất trong số hơn 900 trang truyện ngắn được Random House ấn hành năm 1934 (lúc này William vẫn còn tiếp tục viết) đó là Bông hồng cho Emily. Đáng chú ý thay, ba cuốn sách quan trọng và sáng giá bậc nhất của ông là A Fable (được giải Pulitzer, trước Bọn đạo chích, rất kinh tế cho các nhà in), Absolom, Absolom! (được đánh giá ngang hàng với Âm thanh và Cuồng nộNắng tháng Tám) và Go Down, Moses vẫn chưa có ai thèm dịch, hoặc có đủ khả năng và kiên tâm để dịch. Trong khi đó, hầu như tất cả tiểu thuyết của Ernest Hemingway đều đã được xuất hiện ở Việt Nam ngay cả trước 75 và nghe đâu là trước luôn 65, chưa kể các tuyển tập truyện ngắn hùng hậu rải khắp nhà sách đất nước. Đặc biệt, Ông già và Biển cả được đưa vào chương trình lớp 12 cũng là dịp để các mầm non Tổ quốc có cơ hội tiếp cận với cây đại thụ trong nền văn chương của một đất nước mà các em thầm ngưỡng mộ chiều dài của quý, hay một ban nhạc, một người nổi tiếng, xinh đẹp nào đó, hoặc nhân vật Francis Scott Fitzgerald của nhà văn Gatsby, hoặc muôn vàn các phong trào và thuật ngữ mà các em hằng ao ước lĩnh hội hết.

Chỉ có một lý do cốt yếu mà tôi dùng để giải đáp thắc mắc cho sự vô danh của thầy tôi (dĩ nhiên là tôi đang nói về Faulkner, tôi chưa bao giờ coi Hemingway là thầy) là sự sinh sau đẻ muộn và bực dọc của ông ta. Nếu như người dịch mọi miền thế giới có thể xử lý Ernest Hemingway với vốn tiếng Anh trung tầm và khả năng ngữ pháp tầm sư phạm và được lay động con tim với trận Thế chiến II lịch lãm và con người lao động đánh đúng gót chân Achilles của dân ta, thì nếu như không nhân một đợt thiếu thốn tiền của mà viết nên Thánh địa tội ác, William sẽ vô danh. Cuốn tiểu thuyết sáng giá nhất của ông ta, thứ đem lại cho ông ta sự tung hê nhiệt tình của lớp lớp thế hệ văn chương Mỹ và lấn sang cả La-tinh – Âm thanh và Cuồng nộ, ông ta lại ngạo nghễ trả lời nó là sự thất bại rực rỡ nhất của ông, dù miệng bảo là yêu thích nhất nhưng chưa bao giờ hài lòng về nó.

Âm thanh và Cuồng nộ hấp dẫn người ta ngay từ cái global-brand danh giá, một trong những văn bản khó đọc nhất thế kỷ XX, rõ ràng là như thế. Dấu hiệu đầu tiên ta có thể thấy, tựa đề được William thuổng từ một đoạn thơ trong Macbeth mô tả một người điên. Đúng vậy, ban đầu ý định của William chỉ là muốn viết một truyện ngắn dưới góc nhìn của một kẻ khờ dại, nhìn lên cái quần nhỏ bị dính bùn của một đứa bé gái lúc trèo lên cây và nghĩ đó là hình ảnh tuyệt diệu nhất xuyên suốt văn bản. Đó là lý do trong bản hòa tấu Âm thanh và Cuồng nộ, nhịp moderato lại để vào tay một thằng khờ, nỗi ô nhục của gia đình Jason Compson trình bày. Đó là Benjamin, hay trước đó là Maury. Đặt bối cảnh vào ngày 7/4/1928 nhưng không phải là như thế, vì bản chất dở khùng dở điên nên ý niệm về không gian và thời gian trong Benjamin-thằng khờ bị tháo dỡ đến vô cực, đó là sự giao thoa của tất cả sự kiện vụt qua như một cơn gió và trở lại ở những phần sau đó. William Faulkner chặn đứng tất cả các sự ý thức của nhân vật trong một dòng ý thức miên man nhưng đứt đoạn, đứt đoạn nhưng vẫn miên man. Với Benjy, tính từ bị triệt tiêu đến số cực tiểu, thay vào đó là động từ nguồn và danh từ phổ quát. Nhưng nhà văn tự nhận truyện ngắn chủ ý mình viết không đạt (trong bài phỏng vấn với Frederick L. Gwynn và Joseph L. Bronte) nên Quentin ở chương thứ hai là một sự nỗ lực phát triển câu chuyện mang tính chữa cháy.

Chương của Quentin lùi người đọc về mốc thời gian 2/6/1910, từ Jefferson đổi sang Harvard. Tuy Quentin là người tỉnh táo và có học vấn nhất nhưng chương của anh vẫn giàu nỗ lực phá bỏ không gian và thời gian. Ở chương này, cảm hứng chính cho ông chính là khúc bi ca của những số phận lạc lối mà Quentin chính là đại diện: anh ta chết chìm trong suy tư trước hiện thực của mình, anh ta không đủ khả năng để đối diện với nó. Thế nên ở chương này, Quentin cũng chẳng khá khẩm hơn Benjy là mấy, anh vẫn dở khùng dở điên, tự tiện phá dỡ mọi hình thức ngữ pháp và lối điệu cổ điển, để bước vào một thế giới ảm đạm nơi anh đối thoại với mình từng phút một ý nghĩ sự loạn luân và bi quan chủ nghĩa do cha anh gán cho từ thủa tấm bé. Ở thế giới đó, biểu mẫu lại xuất hiện dưới dạng sự vật phổ quát song lại mang nhiều suy tư và ẩn ý hơn Benjy: cổ mẫu nước, đồng hồ, chuông, em bé người Ý, bóng,… Nhưng William vẫn thấy mình thất bại trong việc tái tạo lại cảm giác ban sơ mà hình ảnh đứa bé gái trèo lên cây để lộ quần nhỏ dính đầy bùn đánh thức ông, thế là ông để Jason xuất hiện. Jason đưa người đọc quay lại trước chương của Benjy một ngày và chương kể ngôi một duy nhất không có chữ in nghiêng, được trình bày tuần tự và dễ dàng như chính nhân cách khô khan và khốn đốn của nhân vật. Và cuối cùng, Faulkner bước vào câu chuyện ở ngôi ba chương cuối, nhưng đúng như ông vẫn bi quan chấp nhận, ba nỗ lực sau này biến truyện ngắn thành tiểu thuyết vẫn chưa đủ để Caddy hiện ra từ sương mờ mông lung của lớp lớp câu chữ được viết bằng một thứ từ vựng dễ hiểu nhưng chính ngữ pháp khiến chúng thăng hoa và bế tắc.

Có thể nói Âm thanh và Cuồng nộ là một cuốn sách đi từ thất bại này đến thất bại khác, đúng như nhà văn của nó luôn tự nhủ với chính mình qua các cuộc phỏng vấn công khai. Chủ ý của ông là tái hiện một nhân vật “bị ẩn” là Caddy qua bốn điểm nhìn, song, hết lần này đến lần khác lại không đạt mong muốn và thỏa mãn sự yêu quý của ông với nhân vật, người Faulkner gọi là người tình trăm năm. Ở chương đầu, William Faulkner trang bị cho người kể chuyện là Benjamin một ý định thực sự khôn ngoan: một kẻ khờ mang dáng dấp của Chúa Khổ Đau. Mọi cảm giác và tri nhận của nhân vật kể đều trong trắng và trinh bạch đến mức khùng dở. Thế nên sự mờ hóa (declearisation) phân hóa mạnh mẽ hơn bao giờ hết, ở đó người kể cũng không thể tự ý thức và nắm bắt nhân vật của mình, nâng sự tri nhận và khả năng đồng sáng tạo của độc giả lên mức tối đa và ghép hình lại tất cả mảnh vỡ mà nhà văn xáo lên, để tìm ra trong đó vẻ đẹp vô thường của vạn vật: lửa, cây hoa cà, mười lăm xu, quả bóng golf và những bí mật tăm tối mà nhân vật đã tri nhận nhưng không thể xử lí. Nhân vật là một kẻ khờ, rõ ràng, thế nên người đọc gặp khó khăn trong việc khái quát hóa câu chuyện, trao đổi với thế giới bên ngoài của Benjy chỉ qua những lời âu yếm của Caddy hay lời xua im và dọa mắng của các thành viên trong gia đình. Cách nhìn của Benjy với mọi thứ cũng tinh khiết như cách Chúa nhìn người khác, và đến đây, bắt dây sang nhân vật chi phối bốn chương, Caddy, thì có lẽ rằng Benjamin đối với Caddy như cái nhìn của Chúa với vẻ đẹp đã mất của loài người. Có nhiều bằng chứng cho thấy William Faulkner bị chi phối bởi tín ngưỡng miền Nam vào Chúa để tạo ra nhân vật này: Benjamin mãi mãi dừng lại ở tuổi 33, con số cho số tuổi thọ tương truyền của Chúa, con số linh thiêng và đặc biệt. Thế nên thế giới câm và thiểu năng cùng với những tri giác đột biến như nhìn lửa, ngửi mưa (một vết tích đỉnh cao của sự mờ hoa định dạng trong văn chương hậu hiện đại),… của Maury luôn chất chứa sự muôn màu và phản chiếu một cách chân thành nhất nhưng cũng không kém phần đẹp đẽ, một Caddy biểu trưng trong cuộc sống đan xen vào nhau, đẹp và khó hiểu. Nếu Caddy trong Benjamin khởi sinh từ sự trong trắng và thành thật thì Caddy trong cách tự sự của Quentin được vớt ra từ bùn. Rõ ràng Quentin là kẻ thất bại bị hiện thực đẩy xuống hố, trong anh mang nỗi thống khổ của một con người khủng hoảng rất hiện sinh cùng phức cảm bi quan cực đoan. Những ý niệm của cha anh truyền lại biến thành hồn ma ám ảnh anh, mà thời gian, thói thường, bóng, nước cũng là vật anh tự biến thành nỗi ám ảnh riêng, dẫn đến cái chết bằng cách nhảy cầu. Caddy với Maury mang từ Mẫu nhưng sang Quentin mang chữ Dục, vì nàng góp phần ám ảnh trong Quentin suy nghĩ loạn luân và giết anh ta với thói sống quá phóng túng và tự hủy của mình. Càng về sau sự giải phóng cấu trúc và hỗn loạn càng ngày càng năng động: cắm thằng những câu không đầu không cuối được in nghiêng vào trong đoạn chữ viết bình thường, xuống dòng liên tục với chỉ một câu văn lạ lùng, cấu trúc bị tan biến, vô thức,… kết hợp cùng với hàng loạt các sự kiện chỉ được kể sơ sài và bôi mờ làm câu chuyện dường như không thể giải mã. Anh vào tiệm sửa đồng hồ và bị chế ngự bởi thời gian còn lại của mình do chính mình từ đặt ra, khao khát tìm một chiếc đồng hồ chạy đúng; anh thấy chiếc bóng mình ngả đổ sau khi bỏ tiết lang thang ngoại ô cùng với cuộc sống vẫn đang vui vẻ với lễ hội đua xuồng, và áo flannel, lần lữa với cái chết của mình; tiếng chuông báo hiệu các giờ học ngân nga trên Harvard là sợi dây ràng buộc một con người đã quá túng quẫn vào lại nếp gấp cõi cằn, sự hiểu lầm trước tiệm bánh mỳ với em bé người Ý ở Jefferson là sự ẩn dụ cho tình yêu đau đớn và trinh bạch nhưng quá tục tằn với người em gái Caddy, đây là những điều William Faulkner vẫn can tâm chối bỏ, tất cả những vật mẫu và “tầng băng nổi” ẩn lên không được ông gán ghép bất cứ ý nghĩa sâu xa nào, điều đó càng mời gọi sự giải mã từ bất cứ tay đọc nào, ở bất cứ thời kỳ nào và cách đọc ra sao.

Cần soi rọi hai điểm nhìn thú vị, nghệ thuật và khó tiếp nhận bậc nhất trong văn bản này bằng lý thuyết hệ hình hay mô thức (paradigm) của Thibaudet. Rõ ràng tuyến đường liên kết duy nhất của chương một và chương hai chính là sự phát triển về nỗi thống khổ và điểm nhìn chú trọng không gian và trải nghiệm riêng của hai nhân vật Benjy phát triển thành Quentin. Sự vận động đó diễn ra không ngờ trên một tuyến trình thời gian chạy từ những mảnh vỡ ngày 7/9/1924 (đây cũng chỉ là một cột mốc mù) trở ngược về 2/6/1910 cùng với nỗi buồn được biến thiên. Ở chương Benjy ngập ngụa nước mắt (ai cũng bảo anh ta nín, mọi lúc) là thanh âm của vĩnh viễn và đau đớn được chuyển dịch theo một đường thẳng qua phép đối xứng tâm và tâm là sự phức tạp trong cách biểu đạt của một thiên truyện tiếp cận theo tư duy hậu hiện đại, thì ở chương của Quentin, không có nước mắt nhưng cách kể cùng sự phá vỡ cấu trúc (cấu trúc tạo nên cảm giác nhịp nhàng, lặng yên) thành đa cấu trúc hoặc phi cấu trúc làm nên sự bất bình và hỗn độn, tức là hành động tượng trưng cho nỗi buồn của Benjy đến lượt Quentin đã thành nỗi khổ đau mông lung, không hành động cụ thể nhưng mờ ảo và tê tái.

Flannery O’Connor, một nhà văn theo đuổi trường phái Gothic miền Nam khác nói ông đã tạo ra sự dời về những điều nhà văn không được phép làm. Đó là sự thể nghiệm xô đổ phong cách cổ điển và cách tân từ Ulysses của James Joyce. Nếu như trong sách James luôn ẩn khuất một vở kịch ngầm đâu đó dưới bóng dáng tiểu thuyết thì William Faulkner lại quan tâm tới sự bẻ gãy quy luật cấu trúc và nhịp phách của âm vị học từ nguyên tạo ra. Khó mà đọc được William nếu ta không để mình bị ông thách thức và làm cho chán chường: cách đặt tên nhân vật giống nhau cùng các ngôi xưng thứ ba không rõ hướng vào ai, cách ghép nối các tính từ xuyên suốt và thi thoảng ném vào đó các trợ từ, trạng từ không liên quan, thách thức sự dịch và sự đọc nghiêm túc. Vậy nên William vẫn còn là một thứ quá cao siêu ở Việt Nam, nơi cấu trúc và hình thức vẫn còn in sâu từ thuở còn viết những bài văn nghị luận dối lòng. Văn chương của William đánh tan đi cách suy tư thông thường mà chúng ta có thể gán cho một nhà văn và tác phẩm của anh ta. Gia đình Jason Compson xuất hiện sơ sài lần đầu tiên trong chương đầu của truyện Lễ cầu siêu cho một nữ tu, và đưa đến cục diện ở Âm thanh và Cuồng nộ rồi sau đó thường xuyên xuất hiện khắp các truyện ngắn và tiểu thuyết. Thế nhưng trong các thiên truyện viết sau này, dòng họ của nhà này lại xuất hiện thêm nhân vật mới, đó là Nancy, một người giặt đồ thuê trong Mặt trời trong đêm ấy (mà trong Âm thanh và Cuồng nộ là tên của con ngựa rã xương trên mương), là Thomas Sutpen trong Absolom, Absolom! dưới cách kể của Quentin trong căn phòng kín cùng với một bà cô gia tên là Miss Coldfield (ông rất thích đặt tên các nhân vật lớn tuổi bằng cách ghép các từ đơn), v.v,… Chúng ta cũng cần quan tâm đến sự bẻ gãy tính logic nếu xem các tác phẩm của William Faulkner là hệ liệt và tuyến tính với nhau theo một cách sắp đặt nào đó nhất định. Bằng chứng là các sự kiện của các nhân vật được nhắc lại như Boon Hogganback trong Go down, MosesBọn đạo chích cùng địa vị với nhau, song hành động nếu trải ra trên một biểu đồ tuyến tính và logic thì không hoàn toàn tương hỗ; nhưng Quentin Compson trong Âm thanh và Cuồng nộ và Quentin Compson trong Absolom, Absolom! là tương đồng. Absolom, Absolom! đã mở rộng gia phả của nhà Compson thêm hai thế hệ, điều mà trong Âm thanh và Cuồng nộ chưa đề cập đến, thông qua những lời kể của Quentin với anh bạn cùng phòng Shreve của mình. Điều này là hoàn toàn hợp lý khi xét đến Âm thanh và Cuồng nộ, quan hệ của hai người này rất tốt và thường hay kể chuyện quá khứ cho nhau nghe. Nhưng nếu trải Âm thanh và Cuồng nộ bên cạnh Mặt trời trong đêm ấy viết cách đó khoảng nửa thập kỷ thì phi logic hẳn, Quentin đã tự tử ở tuổi 19 ở Harvard trong Âm thanh và Cuồng nộ bỗng nhiên sống dậy ở tuổi ba mươi hơn và kể chuyện quá khứ trong Mặt trời trong đêm ấy (!). Ta thử dời sự logic thông thường tạo ra bằng tam giác thao tác thời gian và không gian sang sự siêu logic cao hơn qua phương pháp nhìn nhận rơi vào hậu hiện đại: phương pháp giải cấu trúc (deconstruction) của Jacques Derrida. Đối chiếu tư tưởng với cách thể hiện, William Faulkner thể hiện sự xung đột trong cách chống lại nạn phân biệt chủng tộc sâu sắc ở miền Nam nước Mỹ những năm 30, 40 và cách thể hiện: cách gọi các nhân vật da màu của mình là Negro (một từ với hàm ý hơi miệt thị) và đẩy những con người này vào sự biến thái tư tưởng và thực dụng không thể chứa trong Red Leaves, Mule in the Yard mà về sau bị James Baldwin nhiệt tình công kích, đi vào sâu thế giới nội tâm nhân vật, rõ ràng tác giả luôn biện minh cho tình yêu tục tằn của anh Quentin bằng xử lí văn bản của anh này điên chẳng khác gì Benjamin, thậm chí còn hơn, nhưng kết cuộc nhà văn cũng ném anh ta vào cảnh tự tử với nỗi bi quan siêu thực,…

Đó là bằng chứng cho thấy cảm hứng trong các tác phẩm văn chương đầy thể nghiệm của William Faulkner vẫn rút ra từ trải nghiệm cá nhân của một nhóm nhân vật có thực trong cuộc sống muôn vẻ, một tuyên bố đi tuân theo lối đi của hiện thực chủ nghĩa, không tách rời với một áng văn hiện đại. Trong cuộc phỏng vấn với Joseph L. Fant và Robert Ashley, khi được hỏi về tác giả yêu thích, ông đã bảo rằng mình chỉ thích các nhân vật chứ không thích người tạo ra bọn họ lắm, và đó là Don Quixote trong tiểu thuyết cùng tên của Cervantes, bà y tá Sarah Gamp trong Martin Chuzzlewit của Charles Dickens, vài người của Balzac, Conrad,… Đó là những nhân vật mang tầm vóc thể hiện thời đại mạnh mẽ. Thật vậy, tất cả nhân vật của ông đều đại diện cho những lớp người ở miền Nam nước Mỹ trong thời kỳ đổ sập của các thái ấp giàu có và nạn phân biệt chủng tộc không thể nguôi ngoai. Dẫu khoác lên mình di sản của văn học lãng mạn và bánh răng đưa dòng ý thức xoay chuyển thì bọn họ vẫn là con người tượng trưng cho thời đại và cách thăng hoa của nhà văn gán cho họ. Quentin gục ngã, Jason loay hoay và tìm cách đứng dậy bằng cách cóp nhặt xu tiền, một mammy da đen là Dilsey vun đắp gia đình vì bà chỉ nghĩ đó là điều nên làm,…

Không có sự xuất hiện nào của William Faulkner trong cuốn sách Lịch sử văn học Mỹ của Lê Đình Cúc do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành năm 2007 là thỏa mãn. Cuốn sách viết dưới dạng tiểu dẫn bối cảnh văn chương Mỹ qua các giai đoạn: văn học dân gian, văn học thời thuộc địa (thế kỷ XVI -XVII), văn học thời cách mạng (1775-1820), văn học thế kỷ XIX với hai dòng là lãng mạn và hiện thực và cuối cùng là văn chương Mỹ thế kỷ XX, sau đó đi vào giới thiệu cụ thể từng đại diện mỗi thời kỳ. Và như tôi không ngờ đến, lão già một đời đưa miền Nam nước Mỹ hay Mississippi thành một lãnh thổ văn chương lại vô danh ở đây, trong khi những hậu duệ tốt và hậu duệ xấu của ông lại ít nhất được vài dòng nhắc tới: Flannery O’Connor, Thomas Pynchon, Carlos Onetti,… William Faulkner chỉ được nhắc sơ sài ở phần tiểu dẫn thời kỳ văn chương đầu thế kỷ XX nhân lúc nói về Ernest Hemingway và Francis Scott Fitzgerald với một hàm ý sai lầm sau: William Faulkner hoạt động dưới ngọn cờ của Ernest Hemingway. Ta thừa nhận rằng “Thế hệ bỏ đi” của Ernest Hemingway kế thừa từ người thầy viết-chẳng-ai-hiểu Gertrude Stein của mình (chữ này cũng không phải của bà nữa là) kéo đến Thế hệ Jazz là cảm hứng với yếu tố chủ đạo thể hiện sự chênh vênh và tự hứng của các tác phẩm sau này của Sinclair Lewis, kịch của Eugene O’Neill,… và cả tiểu thuyết và thơ đầu tay của William Faulkner, đặc biệt là sự xuất hiện của nhà văn Sherwood Anderson, người mê mẩn trường phái cực tiểu hay tối giản của Gertrude Stein và Hemingway, là người trực tiếp hình thành ý niệm về tiểu thuyết đầu tiên trong William Faulkner qua lời giới thiệu từ người bạn Stone lúc lông bông. Thế nhưng, nói bóng cờ của Ernest Hemingway cùng thuyết tảng băng trôi là thứ cốt yếu cần theo đuổi bên dưới lớp văn chương trùng điệp của William Faulkner là sai lầm. William Faulkner luôn nỗ lực chối bỏ tất cả các hình tượng biểu tượng trong truyện mình và gọi đó là các yếu tố phải xảy ra và không biết chúng tượng trưng cho điều gì. Đối với ông, biểu tự và vật mẫu xuất hiện vì chúng cần phải xuất hiện, như một thói đời lạ lùng mà nhà văn nghĩ ra để chải chuốt cho sở thích của mình. Như nhà văn đã nói, nếu anh ta là tất cả nỗi đau của anh ta, thì viết là nỗ lực giải tỏa bằng việc điều khiển nhân vật tượng trưng cho nhân vật có thật để tái hiện lại hình ảnh mà tác giả đã ấn tượng, như hình ảnh cô bé gan dạ trèo lên cây nhòm vào nhà trong đêm bà mất với chiếc quần lót lấm lem bùn đất; đó là Caddy, người tình trọn đời nhà văn ưu ái trong tất cả mọi văn bản mà nàng có mặt.

Chúng ta đang bị kẹt lại với William Faulkner trong thời đại này. Nếu như có ai đó hỏi tôi, dưới tư cách một người viết tham vọng ngạo nghễ rằng chúng ta nên làm gì với ông, chắc chắn tôi sẽ xua người ta dìm tượng đài của ông xuống sông để nước trôi đi tất cả. Bàn tay của ông đặt ở khắp mọi nơi trong địa hạt văn chương và đầy đủ những thần tượng mà ta ngưỡng mộ: sẽ không có một tác phẩm về Thế chiến kinh điển như Bẫy-22 của Joseph Heller nếu A Fable không ra đời, Khi tôi nằm chết là phiên bản đầu tiên để Carlos Fuentes học cách tường thuật trên giường bệnh và xáo tung mốc thời điểm và thời gian trong The Death of Artemio Cruz. Phương pháp tạo ra một địa điểm hư cấu để các nhân vật đại diện được trọn vẹn hoạt động của William Faulkner đã làm với hạt Yoknapatawpha được Marquez kế thừa tạo nên làng Macondo bất hủ hay Santa Maria của Juan Carlos Onetti. Đó là những bằng chứng cho thấy cách thức tiếp cận vấn đề có thể ảnh hưởng và lung linh như thế nào đến câu chuyện. Ngoài ra, trong các câu chuyện của William Faulkner, trải nghiệm đặt cạnh nhau những mảnh vỡ của không gian và thời gian cũng là điều đáng nói, như cách Henry James sắp đặt các điểm sáng cạnh nhau, những tình tiết được rút tỉa cẩn thận tạo cho người đọc cảm giác dễ chịu, thư giãn ở Tuổi hoa mộng, cách sắp xếp các tình tiết trong Âm thanh và cuồng nộ vỡ nát nhưng không phải là vô ý tứ, các thái độ dồn dập, nhiều hoạt động được đặt cạnh những trang giữa và về sau tạo nên nhịp điệu căng thẳng, cho độc giả cảm giác kết thúc giả khi lời kể Benjy chấm dứt mãi mãi.

Có một điều ta không thể chối cãi được rằng William Faulkner xứng đáng đặt bên cạnh Ernest Hemingway, thậm chí bên trên vì những thành tựu to lớn của ông trong cách định hình một lối viết thực sự thời thượng và trải nghiệm, điều mà chúng ta đang thấy Krasznahorkai László kế tục xuất sắc với cách tân giao thoa với triết học để thể hiện rõ ràng cái tôi và siêu tôi trong những trang văn nghẹt thở, không lối thoát đẩy ta vào một chuyến tàu đến vô cùng của ngôn ngữ, đặc biệt hấp dẫn trong Melancholy of Resistance hay một Toni Morrison với cách khai thác tư duy hình ảnh và đánh động bằng sự mô tả siêu thực trong chuyến phiêu lưu đi tìm lại sự đẹp đẽ của người da màu trong Bé Jar hay Yêu Dấu. Đó là lý do William Faulkner không còn khó hiểu với chúng ta nữa, khi chúng ta nhìn nhận văn chương của ông trên những phiến gạch mà những thần tượng mà chúng ta say đắm và đi cùng cách kế thừa thỏa đáng với phong cách viết văn tuyệt vời và những trải nghiệm hiện thực cổ điển bậc thầy của nhà văn lỗi lạc này.

Hết

Gia Bin

*

Đọc tất cả bài viết của Gia Bin

Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng