Chuyện người cầm bút

Tưởng nhớ Rachel Carson – Mùa xuân vắng lặng, một mùa đau thương (phần 2)

Published

on

Mùa xuân vắng lặng của Rachel Carson không phải là một tác phẩm tầm thường: nó phát động phong trào vì môi trường; thúc đẩy việc thông qua Đạo luật Không khí sạch (1963), Đạo luật Hoang dã (1964), Chính sách Môi trường Quốc gia (1969), Đạo luật Nước sạch và Đạo luật về các loài có nguy cơ tuyệt chủng (1972); dẫn đến việc thành lập Cơ quan Bảo vệ Môi trường Mỹ (EPA) vào năm 1970. Trên thế giới, số lượng sách đạt được những thành tựu trên có thể đếm được trên đầu chi của loài sao biển. Tuy nhiên, số sách còn lại của Carson và gần như tất cả tiểu luận của bà đều liên quan đến đại dương. Việc Carson được tưởng nhớ vì một cuốn sách đề cập đến hiểm họa của thuốc trừ sâu thông dụng DDT hẳn sẽ khiến bà ngạc nhiên trong những năm tuổi trẻ, khi bà còn là một nhà nghiên cứu sinh vật biển tại Cục Thủy sản Hoa Kỳ, viết ghi chú về cá-trích-mình-dày, nghiên cứu mũi cá voi với chuyên ngành cao học về cá chình Mỹ.

Đọc các phần trước: Phần 1

*

Thời gian đầu công tác tại Cục Thủy sản Hoa Kỳ, Rachel Carson đã soạn thảo bài luận mười một trang về sinh vật biển với tên gọi “The World of Waters” (tạm dịch “Thế giới của vùng nước”). Cấp trên đánh giá bài luận quá xuất sắc để chỉ in trong một ấn phẩm chính phủ và gợi ý bà gửi nó cho tờ The Atlantic. Sau khi bài luận được đăng dưới tên “Undersea,” Carson bắt đầu viết cuốn sách đầu tay với sự tài trợ của F.D.R.’s New Deal (Chính sách kinh tế mới của Tổng thống Franklin Delano Roosevelt). Under the Sea-Wind ra mắt vài tuần trước khi Nhật Bản đánh bom Trân Châu Cảng, và cuốn sách mau chóng chìm luôn như một chiến hạm.

Trong những năm tháng chiến tranh thiếu-thịt, Carson dành thời gian hướng dẫn các bà nội trợ cách nấu những món cá ít ai biết, và bà trở nên bồn chồn. Bà đã viết một đoạn cho tờ Reader’s Digest về thuốc trừ sâu DDT. Khi chiến tranh diễn ra, các công ty hóa chất đã bán thuốc trừ sâu cho quân đội để ngăn chặn sự lây lan của bệnh sốt phát ban bằng cách tiêu diệt chấy rận. Sau chiến tranh, họ bắt đầu bán thương mại DDT và các loại thuốc trừ sâu khác, dùng trong trang trại và vườn cây. Carson, sau khi đọc báo cáo chính phủ về thủy hải sản và động vật hoang dã, bắt đầu hoảng hốt: DDT chưa được kiểm nghiệm cho mục đích sử dụng dân sự, và nhiều sinh vật khác ngoài côn trùng dường như đang chết dần. Bà đã gửi một bài báo về thuốc trừ sâu, xem xét “liệu nó có thể làm đảo lộn toàn bộ sự cân bằng tinh tế của tự nhiên nếu bị sử dụng kém khôn ngoan hay không”. Tờ Reader’s Digest chẳng quan tâm.

Viết vào buổi đêm, Carson bắt đầu một cuốn sách khác, hy vọng mang đến cho người đọc những phát hiện cách mạng trong ngành sinh vật biển và khám phá biển sâu thông qua hiểu biết về hệ sinh thái đại dương. “Tuy chúng ta không thể nhận thấy bằng mắt thường, kì thật bề mặt đại dương được phân chia thành những vùng xác định,” bà giải thích. “Các loài cá và sinh vật phù du, cá voi và mực, chim và rùa biển, tất cả đều được liên kết bởi những mối dây không thể phá vỡ với một số loại nước.” Nhưng còn nghiên cứu cũng có nghĩa là còn bí ẩn tồn tại: “Cá voi đột nhiên xuất hiện ngoài sườn bờ biển nơi bầy tôm nhuyễn thể đang đẻ trứng — những con cá voi đến từ nơi mà không ai biết là đâu, và cũng không ai biết là từ đường nào.”

Carson viết về chủ đề và lĩnh vực nghiên cứu rộng đến mức bà bắt đầu đặt tên cuốn sách của mình là “Ngoài tầm hiểu biết của tôi” hay “Carson lạc ngoài biển”. Bà cũng bị ám ảnh bởi linh tính về những điều không may. Năm 1946, bà đã cắt bỏ một khối u nang trên ngực trái. Năm 1950, bác sĩ phát hiện một khối u nang khác. Sau cuộc phẫu thuật, bà đi đến bờ biển Nags Head, Bắc Carolina. Trong ghi chép thực địa được bà lưu giữ trong quyển sổ gáy xoắn, bà viết: “Đã thấy dấu vết của một loài chim biển, có lẽ là dẽ-cổ-xám, và theo chân chúng một chút, sau đó chúng lao về phía mặt nước và nhanh chóng bị biển xóa sạch dấu vết. Bao nhiêu thứ đã bị rửa trôi, như thể chúng chưa từng tồn tại”.

Ảnh: Pittsburgh Post-Gazette

Khi Carson hoàn thành cuốn sách, tờ The Atlantic từ chối đăng một đoạn trích, vì cho rằng nó quá văn chương. William Shawn, biên tập viên của tờ The New Yorker, không cho là vậy. The Sea Around Us (tạm dịch Đại dương quanh ta) xuất hiện trên tạp chí vào năm 1951, dưới dạng Tiểu sử ba phần về Biển — Tiểu sử đầu tiên không viết về con người. Thư từ độc giả đổ về: “Tôi bắt đầu đọc với thái độ ôi-mẹ-ơi-cái-gì-đây, và rồi thấy bản thân mình bị mê hoặc”, và nhiều người khác tuyên bố đây là bài viết đáng nhớ nhất trong lịch sử tờ New Yorker (bên cạnh Hiroshima của John Hersey).

The Sea Around Us đã giành được Giải thưởng Sách Quốc gia và nằm trong danh sách sách bán chạy nhất của New York Times, phá kỉ lục tám mươi sáu tuần. Bản tái bản của Under the Sea-Wind cũng lọt vào danh sách này. Độc giả muốn biết “tác giả là ai?”. Ngòi bút mạnh mẽ của bà khiến nhiều nhà phê bình nam đặt nghi vấn Rachel Carson hẳn phải có một nửa là đàn ông. Phóng viên tờ Boston Globe viết, “Có phải bạn hình dung một người phụ nữ viết về bảy vùng biển và những điều diệu kì của nó hẳn là một người có hình thể tráng kiện không? Đó không phải Quý cô Carson. Cô nhỏ nhắn và mảnh mai, với mái tóc nâu hạt dẻ, đôi mắt lai giữa xanh lục và xanh lơ – một màu rất biển. Cô gọn gàng và nữ tính, sơn móng tay hồng nhạt, thành thạo sử dụng phấn dặm và son môi, nhưng không hề màu mè.”

Carson rời bỏ công việc chính phủ và bắt đầu đặt nghi vấn về chính sách liên bang. Khi Bộ trưởng Nội vụ mới, Eisenhower, một doanh nhân đến từ Oregon, thay thế các nhà khoa học trong bộ này bằng những tay-buôn-chính-trị; Carson viết một lá thư cho tờ Washington Post: “Một mô thức đáng ngại đang xuất hiện rõ ràng. Đó là việc loại bỏ những người có chuyên môn và kinh nghiệm lâu năm ra khỏi bộ máy Chính phủ, và bổ nhiệm những người thay thế vì lí do chính trị”.

Nhưng thay đổi lớn nhất mà thành công của Carson mang lại, là khi — với khoản tiền kiếm được từ Tiểu sử về đại dương của mình — bà mua mảnh đất khiêm tốn trên đỉnh mỏm đá ở Maine và xây dựng một ngôi nhà nhỏ. Carson từng lặn gần 2.5m dưới mặt nước, đội một cái mũ lặn nặng 34kg chỉ để được ngắm nhìn thế giới đại dương trong mười lăm phút. Tình yêu thực sự của bà là bờ biển: “Trong suy nghĩ của tôi, không nơi nào thú vị hơn là thế giới của bãi triều thấp. Khi thủy triều xuống sớm vào buổi sáng tinh mơ, thế giới tràn đầy mùi muối, âm thanh của nước và sự mềm mại của sương mù.” Để hiểu sâu hơn, bà đọc sách. Các bức tường trong ngôi nhà của bà ở Maine được lót bằng sách. Sách được lèn giữa những giỏ và khay chứa đầy thủy tinh biển, vỏ sò và đá cuội. Tại đây, bà đã viết một phần của cuốn sách tiếp theo, The Edge of the Sea (tạm dịch Bên rìa đại dương).

“Sự bất đồng của tôi với hầu hết những cuốn sách về biển dành cho độc giả phổ thông là chúng cung cấp rất nhiều mẩu thông tin riêng biệt về một loạt các sinh vật, mà không bao giờ đặt trong môi trường sống của các sinh vật ấy.” Cuốn sách về bờ biển của Carson rất khác. Một lời giải thích về bờ biển như một hệ thống, một hệ sinh thái – một từ mà hầu hết độc giả chưa từng nghe tới trước đây, một từ mà chính Carson hiếm khi sử dụng. Thay vào đó, bà gợi nó lên, như một làn sóng của chuyển động và lịch sử:

Trong suy nghĩ của tôi, những bờ biển, dù rất khác nhau về bản chất và những giống loài được chúng cho cư ngụ, đều được liên kết bởi sự thống nhất của biển. Sự khác biệt mà tôi cảm nhận được trong khoảnh khắc này chỉ là sự khác biệt của một thời điểm, được xác định bởi vị trí của chúng ta trong dòng thời gian và trong dòng giai điệu dài của biển. Từng có thời bãi đá dưới chân tôi là bờ cát. Và một lần nữa trong tương lai không xác định, những cơn sóng sẽ mài những tảng đá này thành cát, đưa bờ biển trở lại trạng thái ban đầu. Và trong tâm trí tôi, những hình thái bờ biển này hợp nhất, hòa trộn trong một mô hình kính vạn hoa luân phiên chuyển dịch. Trong đó không có thực tại cố định cuối cùng.

Paul Brooks, biên tập viên của Carson tại Houghton Mifflin, từng nói rằng, với tư cách là một nhà văn, Carson giống như “người thợ đá không bao giờ mất cái nhìn tổng quan về nhà thờ”. Carson là một biên tập viên tỉ mỉ; Brooks cũng vậy. Nhưng Carson không thích bị chỉnh sửa và nói thẳng ra, đã cảnh cáo Brooks, “Tôi có khả năng sử dụng những thứ có vẻ như là một sự đảo ngược gây tò mò của các từ hoặc cụm từ” – những hư từ đẫm-nước-muối – “nhưng phần lớn những điều này là phong cách của tôi và tôi không muốn chúng bị thay đổi”.

Khi sáng tác bên bờ biển, Rachel Carson đã yêu. Bà gặp Dorothy Freeman năm 1953 trên một hòn đảo ở Maine, nơi gia đình Freeman đến nghỉ hè. Carson bốn mươi sáu tuổi, Freeman năm mươi lăm. Freeman đã kết hôn và có một cậu con trai trưởng thành. Khi Freeman và Carson không ở bên nhau, họ duy trì một mối quan hệ thư từ nồng nàn đến nghẹt thở. Carson viết cho Freeman mùa đông năm đó: “Tại sao em lại giữ những bức thư này? Tại sao ư? Vì em yêu chị!” Freeman đáp lời: “Tình yêu của tôi dành cho em vượt ngoài mọi sự biểu đạt. Tình cảm ấy như biển cả không có bến bờ.”

Cả hai người phụ nữ đều quan ngại về điều mà những bức thư của họ có thể mang lại. Trong một phong bì, họ thường gửi kèm hai bức thư, một bức để đọc cho gia đình (Carson đọc cho mẹ, Freeman đọc cho chồng), một bức đọc trong bí mật. Và những bức thư riêng tư bí mật ấy sẽ bị đốt bỏ sau khi đọc xong. Nhưng cuối cùng họ đã không nỡ tiêu hủy tất cả: những bức còn sót lại được cháu gái của Freeman biên tập và xuất bản năm 1995 với tiêu đề Always, Rachel (tạm dịch Mãi mãi, Rachel).

Sau khi The Edge of the Sea (1955) được xuất bản, Shawn muốn Carson viết một cuốn sách mới. Tuy nhiên, khi cháu gái Marjorie của bà qua đời vì viêm phổi, Carson đã nhận nuôi Roger, cậu con trai bốn tuổi của Marjorie. Một cậu bé mà bà mô tả là “hiếu động như mười bảy con dế vậy”. Bà gạt sang một bên những dự án viết lách dài hơi, cho đến khi — với một chút miễn cưỡng — bà bắt đầu thực hiện nghiên cứu có tiêu đề Man Against the Earth (Tạm dịch Con người chống lại Trái đất).

*

Tháng 1 năm 1958, các thành viên của Ủy-ban-công-dân-chống-đầu-độc-hàng-loạt đã gửi rất nhiều thư tới các tờ báo ở vùng Đông Bắc, kêu gọi chú ý những hậu quả thảm khốc do chương trình phun thuốc trừ sâu trên không tại địa phương và toàn tiểu bang gây ra: côn trùng không chết, nhưng mọi thứ khác đang hấp hối. Olga Owens Huckins, một bà nội trợ và một người quan sát chim ở Massachusetts, đã gọi các chương trình phun thuốc này là “vô nhân đạo, phi dân chủ và có thể đi ngược lại hiến pháp”. Ủy-ban đã đệ đơn kiện ở New York. Và Huckins đã viết cho Carson một bức thư, đề nghị Carson viết về vụ này.

Carson từng muốn viết về sự hủy hoại môi trường kể từ vụ ném bom Hiroshima và việc sử dụng DDT cho mục đích dân sự vào năm 1945. Tuy nhiên, bà không thể bỏ rơi Roger và người mẹ đang đau ốm để viết bài tường thuật về một phiên tòa ở New York. Vào tháng 2, bà viết cho E. B. White, “Tôi hy vọng ông có thể đưa tin về các phiên tòa này cho tờ The New Yorker.” White từ chối và bảo Carson mới là người nên viết, rồi chuyển tiếp bức thư của Carson cho Shawn. Sau này White nói với Carson rằng ông không “còn không phân biệt nổi thuốc trừ sâu với một con bọ bí”. Tháng 6, Carson đến New York và giới thiệu câu chuyện với Shawn. “Chúng tôi thường không nghĩ The New Yorker có khả năng thay đổi thế giới,” Shawn nói với bà, “nhưng lần này, có thể.”

Freeman, một người phụ nữ khôn ngoan, đã lo lắng rằng các công ty hóa chất sẽ hướng mũi nhọn công kích Carson. Carson trấn an rằng bà đã tính đến điều đó, nhưng “sẽ không có sự thanh thản nào trong tương lai cho em nếu em giữ im lặng.” Marjorie Spock, chị gái của một bác sĩ nhi khoa, gửi cho Carson báo cáo từ những phiên tòa, trong khi Carson thực hiện nghiên cứu của bà tại nhà, ở Maryland và Maine, thường với Roger ở bên cạnh. Bà đã tìm hiểu một lượng lớn tài liệu khoa học trong nhiều lĩnh vực, bao gồm y học, hóa học, sinh lý học và sinh học, và đưa ra một lời giải thích rõ ràng dễ hiểu.

Mùa thu năm 1958, mẹ bà bị đột quỵ. Carson chăm sóc mẹ tại nhà. Mẹ của Carson đã dạy bà tiếng của những loài chim. Lần đầu tiên họ đến Maine cùng nhau, Carson viết: “Và sau đó có âm thanh của những con chim khác, nhỏ hơn – tiếng kêu lạch cạch của con bói cá đậu trên những cái cột ở bến tàu; tiếng gọi của con Sẻ-đớp-ruồi nép mình dưới mái hiên cabin; những con Sẻ-đuôi-đỏ kiếm ăn trong rừng bạch dương trên ngọn đồi phía sau căn nhà gỗ và mãi mãi hỏi nhau đường đến Wiscasset, tôi có thể dễ dàng ghép các âm tiết của chúng vào câu hỏi, ‘Which is Wiscasset? Which is Wiscasset?’”.

Vào cuối mùa thu khi mẹ Carson lâm bệnh, Spock đã gửi cho bà một album thu bài hát của những loài chim. Carson lắng nghe cùng Roger và dạy cậu bé về những âm thanh ấy. Bà viết cho Spock: “Roger có một cảm xúc rất ngọt ngào với mọi sinh vật sống. Cậu bé thích ra ngoài với tôi, ngắm nhìn và lắng nghe tất cả mọi sự”. Mẹ của Carson qua đời tháng 12 năm đó, ở tuổi 89. Mùa xuân năm 1959 là mùa xuân đầu tiên của Carson mà không có mẹ. Carson viết: “Trên những khu vực ngày càng rộng lớn của Hoa Kỳ, mùa xuân đến mà không được báo trước bằng sự trở lại của những loài chim. Ở nơi từng tràn ngập vẻ đẹp tiếng hót của loài chim, những buổi sáng tinh sương im lặng đến lạ lùng.” Chính Paul Brooks là người có ý tưởng sử dụng tiêu đề của chương về loài chim làm tiêu đề cho toàn bộ cuốn sách: “Mùa xuân vắng lặng”. Một mùa đau thương.

Ảnh: ©Erich Hartmann / Magnum Photos

Và, Carson vẫn lo lắng rằng bản thân bà không thể cất tiếng. Bà bị bệnh nặng. Bà và Freeman không tiết lộ với ai, kể cả Brooks. Đầu năm 1960, trong khi đang mải mê trong những tài liệu khoa học ngày càng tăng về hậu quả của hóa chất đối với con người, bà phát hiện một khối u trên ngực trái. “Dòng hóa chất không có điểm dừng mà thuốc trừ sâu là một phần trong đó. Hóa chất đang lan tràn khắp thế giới mà chúng ta đang sống, tác động lên chúng ta trực tiếp và gián tiếp, từng cá nhân và cả cộng đồng,” nếu tất cả chúng ta đều là cá, ta đang bơi trong một vùng biển nhiễm độc.

Vào ngày 4 tháng 4 năm 1960, Carson phẫu thuật cắt bỏ toàn bộ tuyến vú. Bác sĩ phẫu thuật không cung cấp cho bà thông tin về các khối u đã bị loại bỏ và không khuyến nghị điều trị tiếp. Khi bà hỏi vị bác sĩ, ông đã nói dối, như thường lệ, đặc biệt là với bệnh nhân nữ. Sự phục hồi diễn ra rất chậm. “Tôi nghĩ rằng tôi đã giải quyết được vấn đề rắc rối của các chương về ung thư,” bà viết cho Brooks từ Maine vào tháng 9. Nhưng trước tháng 11, bà phát hiện ra nhiều khối u hơn, lần này là trên xương sườn. Bà tham khảo ý kiến của một bác sĩ khác, và bắt đầu xạ trị. Vào tháng 12, bà cuối cùng đã tâm sự với Brooks.

Carson giữ căn bệnh ung thư của mình trong vòng bí mật vì bà là một người kín đáo, nhưng cũng vì bà không muốn cho các công ty hóa chất cơ hội hạ thấp uy tín công việc của bà (chẳng hạn họ có thể nói căn bệnh ung thư là động cơ khiến bà viết Mùa xuân vắng lặng). Và có lẽ bởi vì, họ càng khó khăn trong việc công kích bà, trông họ càng tồi tệ. Điều này đòi hỏi một sự khắc kỷ ghê gớm. Bắt đầu từ đầu năm 1961, bà phải ngồi xe lăn. Đợt điều trị này tiếp nối đợt điều trị khác: phẫu thuật nhiều hơn, tiêm thuốc nhiều hơn (một bác sĩ thậm chí đề nghị tiêm vàng). Bệnh này nối tiếp bệnh khác: cảm cúm, nhiễm trùng tụ cầu, viêm khớp, nhiễm trùng mắt. “Như một cuốn ca-ta-lô bệnh tật!” bà viết cho Freeman. “Ai đó mê tín chắc sẽ dễ dàng tin vào những ảnh hưởng xấu trong công việc và quyết tâm để cuốn sách không bị hoàn thành.”

Ngay từ đầu, Carson đã được thông báo rằng bà “chỉ còn vài tháng.” Bà sợ chết, nhưng bà sợ chết khi cuốn sách chưa kịp hoàn thành. Freeman nghĩ rằng chính công việc đang giết chết Carson, hoặc ít nhất là cản trở khả năng chống lại ung thư của bà. Freeman đã thúc giục Carson từ bỏ cuốn sách mà bà đã lên kế hoạch, thay vào đó, hãy hoàn thành một thứ gì đó ngắn hơn. “Tôi đoán vậy sẽ tốt hơn là không có gì,” Carson trầm ngâm, cân nhắc việc viết lại các trang bản thảo thành một thứ gì đó “sôi sục” và “có lẽ mang tính triết lý hơn”. Bà quyết định không làm vậy, và vào tháng 1 năm 1962, bà gửi cho tờ The New Yorker một bản thảo gần như hoàn chỉnh của cuốn sách.

Shawn gọi đến nhà để nói với bà rằng ông đã đọc xong, và cuốn sách là “một thành tựu rực rỡ”. “Carson, bà đã biến nó thành văn học, đầy vẻ đẹp và chiều sâu của cảm giác.” Carson, người không chắc mình có thể sống để viết hết quyển sách hay không, lần đầu tiên, chắc chắn rằng cuốn sách sẽ làm được những gì bà muốn nó làm với thế giới này. Bà gác máy, đặt Roger lên giường, bế con mèo lên và bật khóc, gục xuống trong nhẹ nhõm.

-Còn tiếp-

ichigo lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Jill Lepore, đăng tại The New Yorker.

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng