Trà chiều

Từ bức ảnh lưu lại khuôn mặt cái chết của Marcel Proust

Tôi vẫn sẽ lưu giữ khuôn mặt ông khoảnh khắc rời xa trần thế đó mãi mãi. Chỉ là bây giờ, tôi cần phải sống. Sống thật trọn vẹn.

Published

on

Tôi đã 24 tuổi được 8 ngày.

Lẽ ra tôi phải viết những dòng này cách đây 8 ngày. Rốt cuộc, vì quá nhiều việc xảy đến mà bây giờ tôi mới viết được.

Bắt đầu từ năm tôi 16 tuổi, mỗi năm vào sinh nhật mình, tôi luôn tự viết cho bản thân mình vài dòng. Tùy mỗi năm mà mục đích mỗi khác nhau: có năm viết là nhớ lại những sự kiện bao giờ muốn quên trong tuổi ấy, có năm viết là để tự an ủi bản thân, có năm viết như lời nhắn nhủ gửi đến người thân yêu, cũng có năm viết là để hoạch định các việc muốn làm trong một tuổi mới… Nhưng năm nay, có lẽ tôi sẽ dành những dòng trong sinh nhật của mình để suy nghĩ về cái chết.

Trước sinh nhật tôi 5 ngày, cụ thể là ngày 10.7, hôm ấy là sinh nhật Marcel Proust. Tôi vẫn chưa kịp đọc dòng nào cuốn Đi tìm thời gian đã mất của ông nhưng lần đầu tiên, chỉ nghe mỗi cái tên ấy thôi đã gợi trong lòng tôi biết bao hoài niệm, sự đồng cảm. Một cảm giác mơ hồ nào đó rằng mình đồng chất với người này. Rồi khi biết Proust sinh ngày 10.7 cũng là Cự Giải – tôi vỡ òa ra vì hiểu nguyên nhân nào khiến tôi có cảm giác vô hình được kết nối với ông. Tôi đã hân hoan đến mức chỉ nhớ 10.7 là sinh nhật ông mà quên mất ngày ấy cũng là sinh nhật của Alice Munro. Ồ, trước đây tôi luôn tự ti vì mình là Cự Giải. Bây giờ vẫn thế. Nhưng nếu có một chút gì thuộc về Cự Giải khiến cho tôi cảm thấy tự hào thì chính là việc có rất nhiều nhà thơ, nhà văn thuộc cung Cự Giải. Tôi chỉ mới phát hiện điều đó vào năm ngoái. Tôi có thể kể những cái tên như: Hermann Hesse, Wislawa Szymborska, Pablo Neruda, Hemingway, Marcel Proust, Franz Kafka, Alice Munro, Pearl. S Buck, Henry David Thoreau, George Orwell, Yann Martel, Amelie Nothomb, Jean Cocteau, Antoine de Saint-Exupéry, Erich Maria Remarque, E.B White, Jacques Derrida… Họa sĩ thì có Frida Kahlo, Gustav Klimt, Marc Chagall. Những người truyền cảm hứng thì có Hellen Keller, Kito Aya… Với danh sách cũng khá dài như thế thì chẳng có gì khiến tôi phải tự ti cả. Cự Giải có thể không nhiều nhân tài như những cung khác hấu như tất cả nhân tài Cự Giải đều tập trung vào lĩnh vực văn chương. Lẽ ra, tôi nên vững tâm một chút vào sự lựa chọn của mình khi có hậu thuẫn niềm tin từ việc cùng cung hoàng đạo với họ. Cách đây một năm, tôi đã rất hồ hởi, vui vẻ, phấn khởi khi nhìn danh sách này. Nhưng bây giờ, điều này chẳng còn quan trọng và ý nghĩa gì với tôi nữa. Họ là họ. Tôi là tôi. Tìm kiếm sự an ủi trong những việc linh tinh như thế này chỉ làm hư bản thân thêm thôi. Tôi phải nhớ mục tiêu sơ khởi của mình, ước mơ tối thượng của mình, không bao giờ được quên nó, không bao giờ được nản lòng, phải thật cố gắng và kiên tâm.

Tôi lại tiếp tục đi một đường vòng với lối nói chuyện dông dài của mình. Quay về sinh nhật Marcel Proust. Vâng, hôm sinh nhật Proust tôi đã tìm hình của ông, trong đó tôi tìm được hình ông nằm nhắm mắt ngay khoảnh khắc cuối cùng của cuộc đời. Nếu không có dòng chú thích, tôi đã không nghĩ đó là bức hình chụp một người đã chết. Lúc ấy, tôi cứ nghĩ đó là hình ảnh của ông khi nằm ngủ thôi, một giấc ngủ bình thường, không mộng mị. Trông khuôn mặt ông thật yên bình, thanh thản làm sao… Nhưng rồi nhìn vào đôi mắt có vệt thâm quầng ấy, tôi thấy được sự mệt mỏi. Trong sự thanh thản vẫn có vương một chút gì đó sự mệt mỏi. Cả hai trạng thái đó đều nằm trên khuôn mặt của ông lúc ấy thoáng ẩn thoáng hiện hệt như một biển hiệu quảng cáo hễ xoay chiều thì nhìn ra một bức khác vậy. Có khi tôi nhìn thấy sự mệt mỏi và chỉ mỗi sự mệt mỏi. Có khi tôi nhìn thấy sự thanh thản và chỉ mỗi sự thanh thản. Có khi tôi nhìn thấy cả hai thứ cùng một lúc… Nhưng không chỉ có ba trạng thái này. Nó chỉ là ba điểm mốc cơ bản trong chuỗi trạng thái biến thiên những cảm xúc của tôi khi nhìn bức hình ấy. Và vì thế mà tôi mê mẩn. Tôi lưu hình ông chết vào điện thoại và ngắm mỗi tối trước khi ngủ để mong tìm được giấc ngủ bình yên cũng như ông vậy. Tôi biết ông có một đời sống đau khổ, ông chết khá trẻ. Nhưng dù sao khi ông chết, khuôn mặt ông đã có sự thanh thản, an yên, không vướng chút gì sự đau khổ, dằn vặt của những năm tháng dài tuổi trẻ trước đó cả. Chỉ một chút sự mệt mỏi nhẹ nhàng thoáng qua mà thôi. Nhưng ấy là sự mệt mỏi có thể chữa lành. Tôi muốn sau này mình cũng có thể có một giấc ngủ bình yên như thế. Bây giờ, mỗi khi ngủ, hầu như lúc nào tôi cũng nằm mơ. Việc đó mang lại cho tôi nhiều cảm hứng nhưng đồng thời cũng làm đầu óc tôi mệt mỏi mỗi khi tỉnh dậy.

Tôi cứ nghĩ việc mình ngắm hình Marcel Proust chết trước khi ngủ sẽ kéo dài mãi.

Nhưng rồi cách đây vài ngày, tôi đã xóa hết hình ông chết trong điện thoại.

Không phải vì tôi không còn yêu mến hình ảnh ấy nữa. Tôi vẫn sẽ lưu giữ khuôn mặt ông khoảnh khắc rời xa trần thế đó mãi mãi. Chỉ là bây giờ, tôi cần phải sống. Sống thật trọn vẹn. Không như vài năm trước, tôi chẳng ép mình phải cố gắng sống tích cực nữa. Cũng không như một số năm, tôi hài lòng với việc đắm chìm trong vũng bùn ngập ngụa sự tiêu cực của mình. Bây giờ, chỉ đơn giản là tôi muốn sống thật trọn vẹn một ngày, những điều đã xảy ra trong một ngày tôi muốn thu nhận nó thật trọn vẹn: nếu là buồn thì phải thật buồn trong khoảnh khắc ấy, lặn xuống thật sâu trong lòng để xem hình dáng nỗi buồn của mình như thế nào; nếu là vui, phải thật sự tận hưởng khoảnh khắc ấy hết mình, không một chút đắn đo, hoài nghi, nhớ về quá khứ, so sánh… làm tỉ thứ khác khiến niềm vui bị cản trở. Đơn giản là thế thôi.

Bởi vì, vào ngày 15.7 ấy – cái ngày mà tôi chỉ biết nó là sinh nhật mình, hi vọng nó sẽ trôi qua tốt đẹp… tôi đã không biết được rằng đó là ngày cuối cùng người thầy kính yêu của tôi còn làm việc tại cơ quan. Ngày hôm sau, thầy xin nghỉ phép để vào bệnh viện điều trị. Và ngày hôm sau nữa…thầy đã ra đi. Đến tận bây giờ, tôi vẫn còn chưa thể chấp nhận việc này. Một người tốt và tử tế đến thế như thầy… tại sao cuộc đời lại bất công vậy? Ngày cuối cùng tôi còn được trò chuyện với thầy là vào khoảng cuối tháng 3, lúc đó thầy đã biết mình bị bệnh, lúc đó có lẽ thầy đang rất đau, vậy mà tôi đã không nhận ra, không một chút mảy may nhận ra điều gì… Sao tôi có thể vô tâm như thế chứ? Tôi giận bản thân mình lắm. Ở cuộc gặp cuối cùng ấy, thầy vẫn như mọi khi, hiền hòa, chia sẻ, hỏi những câu gợi ý để tôi nói và rồi lắng nghe tôi, và rồi dịu dàng mỉm cười… vẫn như rất nhiều lần trước đây. Thầy hỏi tôi gần đây nhất đề tài quan tâm mà tôi đã viết là gì. Tôi nói là cung hoàng đạo. Nhưng bây giờ, tôi đã không còn quan tâm về cung hoàng đạo, tôi không muốn mình quá dễ dãi khi viết, dự án sắp tới của tôi sẽ là một đề tài khác. Thầy vẫn mỉm cười lắng nghe. Ấy thế mà tôi vẫn quan tâm cung hoàng đạo nên sẵn dịp vội hỏi thầy:“Thầy ơi, thầy sinh ngày mấy?” “Em hỏi để coi bói cho thầy hả?” “Không phải đâu thầy. Em rất muốn biết cung hoàng đạo của thầy nhưng em cũng muốn biết sinh nhật của thầy để sau này chúc mừng sinh nhật thầy nữa. Năm nào thầy cũng chúc mừng sinh nhật em, vậy mà đến giờ em vẫn chưa biết sinh nhật thầy…” “Em không cần biết đâu. Điều đó không cần thiết. Thầy cũng không tin vào cái gọi là số mệnh. Vậy nên thầy chẳng tin tử vi phương Đông lẫn tử vi phương Tây.”

Khi thầy mất, tôi đọc bản tin cáo phó thông báo và biết được ngày sinh nhật của thầy. Nhưng điều đó quá muộn màng rồi, có còn ý nghĩa gì nữa vào lúc ấy đâu. Khoảnh khắc đó, khi hỏi sinh nhật thầy, tôi thật sự muốn biết con người quá đỗi tuyệt vời ấy chào đời vào ngày mấy, tôi thật sự tin rằng chỉ cần thầy nói một lần là tôi sẽ nhớ mãi và cứ hằng năm đến sinh nhật thầy, tôi sẽ chúc mừng thầy, sẽ cho thầy biết rằng tôi nhớ đến thầy vào ngày thầy sinh ra đời. Tôi thật sự muốn làm điều đó với thầy. Bởi vì thầy đã nhớ sinh nhật tôi, thầy đã luôn động viên, khuyến khích tôi viết, sáng tạo; thầy giúp tôi nhiều đến mức tôi cảm thấy cần phải cố gắng phấn đấu hơn nữa để không phụ lòng thầy; mỗi lúc buồn và nghĩ mình viết thật tệ, tôi lại tìm về đọc những bức thư của thầy, suy nghĩ về những điều thầy gửi gắm để đừng bao giờ bỏ cuộc… thầy đã đem lại cho tôi một nguồn khích lệ lớn đủ để tôi biết mình chẳng thể từ bỏ việc viết. Tôi khao khát một ngày nào đó những thứ tôi viết không chỉ khiến thầy hài lòng mà còn tự hào nữa. Tôi thật sự rất muốn chúc mừng sinh nhật thầy. Tôi đã nghĩ thầy sẽ dễ dàng cho tôi biết ngày sinh nhật như bao người khác; tuy nhiên hôm đó, dù thầy vẫn nói rất nhẹ nhàng nhưng cũng đủ khiến tôi có cảm giác cố gặng hỏi thêm thầy cũng sẽ không nói. Và tôi đã không thể ngờ rằng có ngày tôi cũng biết được sinh nhật thầy nhưng lại trong hoàn cảnh như thế này, hoàn cảnh oái oăm hoàn toàn không có trong đầu tôi. Nhớ lại cuộc nói chuyện ngày hôm ấy, tôi đã buồn và hiểu vì sao thầy nói thế. Thầy không tin vào số mệnh. Khoảnh khắc khi thầy nói điều ấy, tôi cảm giác thầy tràn đầy sức sống, thầy sẵn sàng làm tất cả mọi điều mình muốn, thầy mạnh mẽ làm sao… Nhưng tôi đã không biết được, chính giây phút ấy, mầm bệnh trong cơ thể thầy vẫn đang dần lan rộng làm cơ thể thầy suy yếu từng chút một mỗi ngày… Tôi sẽ chẳng bao giờ còn được chúc thầy sinh nhật vui vẻ nữa… Tôi vẫn không thể tin mình sẽ chẳng còn thể gặp được thầy dù chỉ một lần nào nữa trong cuộc đời này. Tôi vẫn luôn hình dung thầy còn ở đó, thầy ngồi trong văn phòng xung quanh toàn sách, thầy sẽ rất chậm rãi hỏi tình hình của tôi dạo này thế nào, thầy sẽ cười mỉm thật hiền, thầy sẽ phân tích rồi gợi ý cho tôi biết đâu là những điều tôi nên làm, thầy sẽ chỉ cho tôi biết những thói quen cần phải duy trì để viết tốt hơn, thầy luôn dặn tôi phải cẩn trọng với những gì mình viết, viết xong phải đọc sửa đi sửa lại nhiều lần, phải chờ một khoảng thời gian lâu, khi mình đã dần quên văn bản rồi đọc lại một lần nữa để thấy điểm nào không ổn, thầy sẽ nói rằng cần phải đọc thật nhiều và tập viết mỗi ngày, thầy sẽ hỏi tôi thích đọc sách nào, thầy sẽ lục tìm trong những cuốn sách vây quanh thầy cuốn nào tôi cần rồi đưa cho tôi, thầy sẽ nói nếu sau này cần thêm sách để đọc nữa mà không có tiền mua thì cứ đến tìm thầy, thầy sẽ nói nếu rảnh rỗi thi hôm nào mình sẽ nói chuyện nhiều hơn… Vậy mà bây giờ, tất cả những điều đó sẽ không bao giờ lặp lại nữa. Tôi chỉ còn có thể tái lập nó bằng cách nhớ lại. Nhưng tất cả cũng không bằng nụ cười trên khuôn mặt thầy.

Ngày ông ngoại tôi mất vì ung thư, tôi đã không khóc. Đám tang ông tôi cũng không khóc. Tôi đã nghĩ mình không thể khóc khi thấy quá nhiều người khóc. Tại đám tang của thầy, tôi cũng không khóc. Tôi vẫn nghĩ mình sẽ không khóc. Nhưng vừa vào nhà vệ sinh, có khoảng riêng tư cho mình, tôi đã khóc một chút. Rồi thì về đến nhà, tôi vừa ăn trưa vừa khóc. Không thể nào kìm nén nổi những giọt nước mắt để ăn cho tròn chén cơm qua bữa. Ăn xong tôi về phòng và khóc nhiều hơn, không cần phải kìm nén nữa, tôi khóc như chưa bao giờ được khóc, khóc cho đến khi mệt rồi ngủ.

Thầy không còn nữa, tôi mới biết việc thực sự mãi mãi không được gặp một người mình yêu mến nó kinh khủng thế nào. Vậy mà tôi lại nỡ nào nói câu đó với một người rất đặc biệt trong lòng tôi. Tuổi trẻ của chúng ta có nhiều hoang mang, lầm lỡ, những đổ vỡ và khi chia tay với người ta yêu, vì sự tổn thương, tự trọng, cả suy nghĩ muốn tốt cho tương lai nữa mà ta hay nói: “Chúng mình đừng bao giờ gặp nhau nữa.” Lẽ ra, đó là một câu không nên nói cho dẫu trong tình huống như thế. Bởi việc không bao giờ gặp lại một người nào đó, nó thật sự kinh khủng. Việc có thể sống trên đời này, có cơ duyên gặp nhau trong kiếp người hữu hạn này là một điều rất đỗi quí giá, cần phải trân trọng. Cho dẫu, có lẽ không còn cùng người ấy đi đoạn đường dài phía trước nữa thì cũng không nên nói điều đó. Chia tay có lẽ chỉ cần một nụ cười tạm biệt nhẹ nhàng và chúc nhau sống tốt là đủ.

Thầy ra đi, trong nỗi buồn mất thầy, tôi lại nhớ người ấy. Nhớ da diết. Và rồi lòng tôi nhẹ nhàng vì người ấy vẫn còn sống, vẫn còn tồn tại trên cuộc đời này. Tôi lại nhớ đến câu hát trong bài Your song của Elton John: “How wonderful life is, now you’re in the world.” Phải rồi, chỉ mỗi việc người ấy vẫn đang sống cũng đủ khiến cho cuộc đời này vẫn còn tươi đẹp. Dù không còn được gặp người ấy nữa nhưng chỉ cần nghĩ đến việc ở đâu đó người ấy vẫn đang sống, vẫn đang cố gắng mỗi ngày… điều ấy cũng đã khiến tôi cảm thấy ấm áp. Tôi mong những nguồn năng lượng sống sẽ luôn căng tràn trong người ấy để mỗi ngày với người đều là một ngày mới để sáng tạo, sáng tạo ra những phần cuộc đời khiến người thấy hạnh phúc khi sống trong nó. Và tôi vẫn muốn nói một lần nữa: “Ich liebe dich, meine schöne Wassermann.” Cảm ơn cuộc đời vì đã cho tôi gặp người ấy.

Tôi sẽ mãi nhớ đến thầy. Tôi biết điều đó.

Và trong tuổi 24 này, dù không liệt kê ra danh sách cụ thể những việc cần làm như năm trước nhưng tôi muốn dù mình có làm điều gì đi chăng nữa thì cũng đừng bao giờ đánh mất sự nghiêm túc, đừng bao giờ dễ dãi. Tôi muốn mình sẽ luôn nhớ những điều tâm huyết mà thầy đã dạy cho tôi. Tôi muốn một ngày nào đó mình có thể mỉm cười vì đã không đi chệch lí tưởng, ước mơ mà bản thân mình đặt ra. Tôi muốn ở tuổi này tôi sẽ bình tâm lại không viết gì nữa mà dành thời gian để đọc, đọc thật nhiều hết mức có thể. Và học nữa. Cố sức thu nhặt lấy những kiến thức mà tôi nghĩ là cần thiết, những kiến thức giúp tôi sẽ không phải cô đơn dù ở một mình.

“Chỉ cần thực lòng yêu một người, cuộc đời sẽ được cứu rỗi.”

Tôi cứ lặp đi lặp lại mãi câu nói ấy của Aomame. Và tôi thực sự tin tưởng điều ấy. Chỉ cần trong lòng luôn có hình bóng một người, rồi cố gắng, cố gắng… chắc chắc cuộc đời sẽ ổn.

Cố gắng lên nhé tôi!

Phải đọc thật nhiều hơn nữa.

Happy belated birthday, myself.

Hết.

K

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng