Phía sau trang sách

Rừng Na-uy: Những dạng thức cô đơn…

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp.

Published

on

Gửi người bạn thân nhất của tôi,

I once had a girl, or should I say, she once had me.
She showed me her room, isn’t it good, norwegian wood?

Khi tôi viết những dòng suy nghĩ này, trí nhớ của tôi về Rừng Na-uy không còn được rõ như lúc trước nữa. Không hẳn là nó phai nhạt dần, chỉ là với riêng tôi, hình như việc quá yêu nó khiến tôi không thể nào viết được cảm nhận về nó khi trí nhớ còn quá rõ ràng. Bởi vì như vậy, nó sẽ làm tôi đau, đau lắm…

Giờ đây, khi những câu chữ kia trói buộc tôi đang dần nơi lỏng, chính thứ giai điệu bàng bạc nỗi cô đơn của bài hát ấy mới là cái gợi tôi nhớ đến Rừng Na-uy. Nó đã cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng nhưng vẫn cô đơn. Nỗi cô đơn có nhiều dạng thức. Có những nỗi cô đơn có thể giao hòa với nhau. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ được cảm thông và chia sẻ. Nhưng có những nỗi cô đơn như hai mặt phẳng trơ trọi trong không gian. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ càng cô đơn hơn.

Những con người trong Rừng Na-uy đã gặp nhau, yêu nhau để rồi bất lực không đến được với nhau vì nỗi cô đơn trong mỗi người khác nhau. Có thể nói, Rừng Na-uy như cuốn từ điển sống về nỗi cô đơn mà ở đó Murakami Haruki đã giải nghĩa thật tinh tế, ngắn gọn mà đầy đủ…

…đó là cái chết của người bạn thân nhất và duy nhất

Câu chuyện bắt đầu được kể lại bằng dòng hồi tưởng về những sự kiện diễn ra cách đó khá lâu. Nó là những mảnh kí ức của Toru qua năm tháng. Vì vậy, nó không chỉ bàng bạc nỗi cô đơn tự thân vốn dĩ của những con người trong thế giới đó, mà còn chất chứa niềm nhớ thương không nguôi cho những gì đã qua đi, không thể trở lại.

…đó là tình yêu dành cho người yêu của người bạn thân ấy.

…đó là sự ra đi của người con gái ấy.

Trong mối quan hệ giữa ba người Toru – Kizuki – Naoko, Kizuki chính là người đóng vai trò trung tâm. Anh luôn biết cách điều khiển câu chuyện nhịp nhàng giữa ba người, không bỏ mặc ai, không để ai cảm thấy cô đơn. Anh luôn tìm được sự thú vị trong những câu chuyện tưởng chừng như nhàm chán nhất, khiến cho người kể câu chuyện ấy cũng cảm giác mình thật đặc biệt. Đó là một dạng tài năng mà không phải ai cũng có thể phát hiện. Nhưng Toru đã nhận ra được và cảm thấy thật uổng phí vì Kizuki không giao thiệp rộng. Anh băn khoăn tự hỏi một người bình thưởng chỉ thích đọc sách, nghe nhạc như mình tại sao lại được Kizuki để mắt.

Tôi nghĩ, có lẽ đó là lực hút của sự cô đơn. Trong câu chuyện ngày ấy giữa ba người theo cách kể của Toru, có vẻ như Kizuki là người bình ổn nhất, biết cách hòa nhịp với cuộc sống nhất. Điều đó diễn ra tự nhiên đến nỗi không ai lại nghĩ một người như thế có thể tự tử. Cái chết của Kizuki đã khiến Toru suy nghĩ rất nhiều về ngày hôm ấy…

Có lẽ trong ba người chính Kizuki mới là người cô đơn nhất. Anh cô đơn nhất vì phải che giấu nỗi cô đơn của mình để làm chỗ dựa tinh thần cho người khác. Nhưng điều đó không khiến cho Kizuki mạnh mẽ hơn mà chỉ khiến cho anh yếu đuối hơn. Những người quá cô đơn nhìn vào ai cũng biết được họ đang cô đơn như Toru thật ra vẫn còn một hạnh phúc: đó là họ sống thật với bản thân mình. Vì họ sống thật, và vì cái tôi của họ không được xã hội chấp nhận nên họ mới cô đơn. Nhưng ngay cả khi đã như thế, họ vẫn không thay đổi hay giả vờ thay đổi để được xã hội chấp nhận. Họ vẫn là chính họ. Vậy chẳng phải là mạnh mẽ hay sao?

Còn những người cô đơn mà giấu nỗi cô đơn của mình là vì họ sợ bị tổn thương khi cái tôi của mình không được chấp nhận. Khi làm như thế, không hẳn là vì họ muốn hòa nhập với xã hội hơn, chỉ là vì khi phơi bày nỗi cô đơn của mình ra, dù muốn dù không, ai cũng có chút cảm giác hi vọng sẽ tìm được người hiểu mình. Họ sợ cảm giác thất vọng vì cho đến cuối cùng vẫn chẳng ai hiểu mình. Nhưng có cần nhất thiết phải tìm được người hiểu mình không, khi mình vẫn có thể tìm được niềm vui bên cạnh những người rất yêu thương mình, dù họ không nắm bắt được cái cơ bản nhất trong tâm hồn của mình?

Có lẽ đó là cách suy nghĩ của những người mang nỗi cô đơn như thế, là cách suy nghĩ của Kizuki. Nếu quả thật như thế thì đáng buồn thật. Dù cho bên ngoài, anh là một con người như thế nào đi nữa, một khi anh đã không sống thật với chính bản thân mình, sẽ đến lúc nào đó anh cảm thấy như có thứ gì đó đang chết đi trong con người anh mà anh không hay biết. Cứ sống và cho đến một ngày nhận ra mình đã mất đi điều gì đó cốt lõi trong tâm hồn, mình không biết điều gì có ý nghĩa nữa, mình cảm nhận đã đến lúc cuộc đời mình mãn hạn… Kizuki đã sống, tồn tại và biến mất như thế.

Cách thức này, khiến tôi có cảm giác tương đồng với chị của Naoko. Chị tài giỏi, được nhiều người yêu mến, là một dạng người mà ai cũng nghĩ không có bất cứ nỗi buồn nào sâu sắc với xã hội, không có nỗi cô đơn. Vậy mà một ngày, tâm hồn vốn đã nhỏ bé của Naoko bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh chị mình treo cổ tự tử chết chính trong căn phòng của chị ấy. Nó đã để lại nhiều ám ảnh trong Naoko sau này.

Nỗi cô đơn của Naoko lại khác với nỗi cô đơn của Kizuki. Naoko không cố che giấu nỗi cô đơn của mình nhưng lại không biết cách để bộc lộ nó. Tôi hiểu được cảm giác này, cảm giác suy nghĩ nhiều đến nỗi mình không nắm bắt kịp mình đang nghĩ gì. Khi một câu chuyện chưa được hình thành rõ ràng trong tâm trí thì nó đã là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác, những câu chuyện khác lại là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác nữa… Phải chơi trò chơi rượt bắt với chính ý thức của mình thật là mệt mỏi, để rồi đa phần khi “ta” không bắt được “ta”, ta đau khổ. Những lúc đó, đối với tôi và có lẽ là với cả Naoko nữa, chỉ mong sao có được một hạnh phúc nhỏ nhoi: hiểu được chính bản thể của mình.

Hạnh phúc theo quan niệm của nhiều người, nếu được chia ra ở dạng cơ bản nhất thì có lẽ nó có hai dạng:

Khi người ta mơ ước, người ta thực hiện được ước mơ của mình, nói một cách khái quát là khi có được những điều bấy lâu nay mình không có và luôn mong muốn có thì người ta sẽ hạnh phúc.

Khi người ta mơ ước, người ta không thực hiện được ước mơ của mình. Đối với họ, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc không có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc không nằm trong những thứ ngoài kia, những thứ họ không nắm bắt được, mà nằm ở đây, ở chính những gì họ có. “Hạnh phúc xuất phát từ những điều đơn giản nhất và bình dị nhất”… có ai đã nói với tôi như thế.

Dù vậy, hạnh phúc mà tôi và Naoko mong muốn có, tôi chẳng biết xếp nó vào dạng nào. Bản thể của mình đương nhiên là thứ thuộc về mình nhưng như vậy cũng không đồng nghĩa với việc mình luôn có nó. Khi không nắm bắt được chính nó, mình chỉ còn nhận biết được nó có tồn tại đâu đó trong mình. Nó chỉ thuộc về mình thôi, không chắc là mình hoàn toàn có được nó. Cảm giác không hiểu được chính mình nghĩ gì, cần gì, muốn gì khiến người ta cảm thấy cô đơn, lạc lõng.

Sự lạc lõng của Naoko lại xuất phát từ việc thực sự không có con đường nào để chọn. Có thể trong một nơi nào đó của tiềm thức, Naoko có một con đường để đi nhưng cô lại không biết được. Mất Kizuki, Naoko không chỉ mất đi người mình vô cùng yêu mến mà còn mất đi khả năng để nhận thức chính bản thân mình. Tựa hồ giống như một người con gái đang bước đi trong bóng tối. Vì không có một chút ánh sáng nào, chung quanh là màu của hư vô, tịch mịch, cô cứ nghĩ mình đang bước đi trên một con đường vô định. Dù mình không muốn đi con đường này nhưng nó chỉ có một, hoàn toàn không có bất kì một ngã rẽ nào khác. Cho đến khi ánh sáng chợt bừng lên, cho dù chỉ là một nguồn sáng nho nhỏ, những con đường từ mọi nơi đang dần hiện ra… Điều đó khiến cô vui, cô đã nhìn thấy những con đường khác. Cô đã có thể chọn lựa. Thế nhưng vì đi một con đường quá lâu, khi chợt có nhiều ngã rẽ như thế, cô không biết phải chọn ngã nào. Bước đầu, có lại được chút ánh sáng trong cuộc sống của mình, cô quyết định chọn con đường của người đã mang lại ánh sáng đó cho cô.

Vậy mà Kizuki lại rời bỏ Naoko quá sớm, quá sớm để Naoko có thể tập nhận thức một cách rõ ràng hơn về bản thể của mình, tự chọn cho mình một lối đi, tự tạo ra ánh sáng của chính mình. Con đường ấy giờ lại như năm xưa, chìm trong bóng tối. Dù vậy, trong cái bóng tối triền miên không dứt của đời người, Naoko vẫn nhận ra được có những thứ đã mãi mãi mất đi. Nỗi cô đơn một khi đã cố gắng giao hòa với một nỗi cô đơn khác mà không thể được, cuối cùng khi trở về một mình, nó đã lớn hơn trước gấp nhiều lần. Từ người chị gái thân yêu của mình, cho đến người bạn trai mà mình yêu mến… kết quả chỉ có một, không thể nào thay đổi được sự thật đó. Khi không tìm được bản thể của mình, họ đã không thể tiếp tục tồn tại. Giờ đây, Naoko cũng đã bất lực và lựa chọn sự ra đi giống họ…

Trong xã hội Nhật Bản thời kì chuyển đổi quá mạnh mẽ ấy, thanh niên Nhật cô đơn, lạc lõng. Họ không biết phải làm gì với chính cuộc đời mình. Điều đó dễ khiến người ta tìm đến tự sát vì cuộc đời quá nhàm chán. Vậy phải làm gì để tồn tại được?

Trong thế giới của Rừng Na-uy, người tôi khâm phục nhất là Toru. Không phải vì anh là một người đặc biệt. Anh chỉ là một người bình thường như chính anh thú nhận. Nhưng anh đặc biệt nhất vì anh dám sống với chính bản thể của mình. Anh không hề che giấu việc mình là một người cô đơn, ít bạn, suốt ngày chỉ mải mê đọc sách. Anh cũng không cố giao tiếp với những người mình không hợp, cái mà xã hội gọi đó là xã giao. Anh cô đơn và anh dám sống với chính sự cô đơn của mình, không hề cố gắng để thay đổi vì đó chính là bản thể của anh. Đó có lẽ là điểm mà anh đã thu hút được Kizuki, Nagasawa và cả Naoko nữa. Họ thích anh vì họ không làm được như anh. Khi ở bên anh, họ cảm thấy bình yên vì anh là chính anh. Ở xã hội ngoài kia, có mấy người sống thật sự là chính mình? Không tính đến chuyện lừa dối nhau, vì nhiều lí do, có lẽ chúng ta chỉ đang “hơi” sống thật với chính bản thân mình. Sự thật một nửa, hay gần sự thật cũng đều không phải là sự thật. Sự thật chỉ là sự thật khi nó trọn vẹn là chính nó.

Toru đã sống thật. Midori đã sống thật. Hai người đã sống thật sự là chính mình nên khi họ yêu nhau, họ yêu chính con người của đối phương và được đối phương yêu lại chính con người của mình. Dù hai người đến với nhau đều riêng mang những nỗi cô đơn trong tâm hồn nhưng với một tình yêu như thế, dù hiện tại có mang một chút sắc u buồn, khi biết cùng nhìn về tương lai chắc chắn nó sẽ ánh lên màu của tươi sáng, màu của hi vọng.

Sau khi trải nghiệm thế giới của Rừng Na-uy, nhìn lại mình, tôi ngạc nhiên khi thấy trong từng giai đoạn biến đổi của cuộc đời mình, tôi nhận ra nỗi cô đơn mà mình đã từng và đang mang có một chút giống Kizuki, một chút giống Naoko, một chút giống Toru…

Tôi là một đứa bé khi mới sinh ra đã không hòa nhập được với xã hội vì nhiều lí do. Suốt những năm mẫu giáo, cấp một, cấp hai, tôi luôn cô đơn, không có một người bạn thật sự nào cả. Nhưng khi còn ở mẫu giáo hay cấp một, tôi chưa bao giờ một lần bất mãn với chính nỗi cô đơn của mình, chính bản thân mình. Vì khi đó, tôi được sống yên bình ngày qua ngày. Tôi biết là mọi người chỉ không quan tâm tôi, tôi không hề có cảm giác là mình đang bị xã hội chối bỏ.

Cho đến năm cấp hai, khi tôi không còn được sống yên bình trong thế giới nhỏ bé của mình, tôi bị mọi người cười nhạo, quấy rối, giẫm đạp lên chính bản thể của mình. Khi phải sống một cuộc sống địa ngục trần gian về mặt tinh thần như thế, tôi bắt đầu quay lại tự vấn và bất mãn với chính bản thân mình. Tại sao tôi lại phải mang cái tôi này để đổi lại cuộc sống như thế? Chính vì vậy, khi lên cấp ba, đến với một môi trường mới, có cơ hội để thay đổi mình, tôi đã chọn sự thay đổi. Lúc ấy, tôi đã gặp một người bạn nhìn tôi bằng ánh mắt khác với mọi người: bạn ấy chấp nhận tôi. Đó là người tôi vô cùng yêu mến. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự muốn bước vào thế giới của một người nào đó. “…I feel my soul. Take me you way…”  

Cảm giác đó có lẽ như Naoko lúc mới gặp Kizuki. Nhưng nếu như thế giới của Naoko và Kizuki mang nhiều điểm tương đồng, khi ở bên cạnh Kizuki, Naoko cảm nhận được tâm hồn của mình nhiều hơn thì ở đây, thế giới của tôi và người bạn đó khác nhau quá xa. Phần nhiều là tôi học cách để đi vào con đường của bạn ấy nhiều hơn là cảm nhận chính tâm hồn của mình. Để làm được điều đó, tôi phải thay đổi.

Lúc trước, tôi cứ nghĩ đơn giản rằng mọi thứ đều có thể thay đổi được chỉ cần có cố gắng. Nhưng giờ đây, tôi mới nhận ra, đúng như Marc Levy đã từng viết: Có những thứ có thể thay đổi được nhưng cũng có những thứ không thể thay đổi được, con người đau khổ vì không phân biệt được cái nào có thể thay đổi, cái nào không thể thay đổi. Lúc đó, tôi cứ hăm hở thay đổi tất cả mọi thứ thuộc về bản thân tôi để được sống trong thế giới của người ấy. Tôi thay đổi một cách hoàn hảo đến mức chính bản thân tôi cũng bị lừa gạt bởi cái hình ảnh tôi tự tạo ra lúc đó. Bây giờ, khi nhìn lại, những thay đổi đó không phải là hoàn toàn vô ích với tôi hiện tại; nó vẫn còn để lại những ảnh hưởng tích cực. Nhưng đồng thời, tôi đã không nhận ra được rằng tôi cũng thay đổi luôn những thứ vốn không thể thay đổi, những thứ thuộc về chính bản thân tôi.

Lúc này, tôi lại đồng cảm với nỗi cô đơn của Kizuki. Nỗi cô đơn khi phải che giấu chính con người thật của mình, sống không được thật sự là chính mình. Dù trong tiềm thức tôi không nhận ra, nhưng đâu đó trong con người tôi, cơ chế hoạt động của não tôi phản kháng lại sự thay đổi cái quan yếu của bản thân tôi. Nó diễn ra chầm chậm, từ từ, tôi không thể nào nhận ra  được. Bắt đầu cuối năm cấp ba, tôi mỗi ngày một trầm tính hơn, mỗi ngày trở lại với bản thể ngày xưa của mình một chút.

Bây giờ, khi đã là một sinh viên năm hai, tôi hoàn toàn trở nên trầm lặng, trầm lặng hơn cả trước khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi cô đơn, tôi có rất ít bạn, tôi mãi đắm chìm trong thế giới nghệ thuật. Bây giờ, nhiều lúc tôi không hiểu nổi chính bản thân mình đang nghĩ gì giống như Naoko vậy. Có lẽ đó là cái giá tôi phải trả cho tội lỗi của mình lúc trước: đã sống không thật với chính mình.

Bây giờ, nhiều lúc tôi sống thật với bản thân mình đến mức cực đoan: chỉ làm những điều mình muốn, chỉ nói những điều mình nghĩ, khiến cho không ít những người bạn lúc trước của tôi bất bình bảo rằng tôi chẳng khác gì trẻ con. Vì chỉ có trẻ con mới làm mọi thứ theo bản tính tự nhiên của nó mà không suy nghĩ đến xung quanh.

…và sống như trẻ con thì rất dễ bị đau, bị tổn thương. Dù vậy, tôi sẽ làm tất cả để được sống là chính mình, để nâng niu, yêu thương bản thể của mình – cái mà tôi đã một lần đánh mất, giờ vẫn đang tìm lại dẫu rằng có thể mãi mãi tôi không tìm lại được nó trọn vẹn.

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp. Bây giờ, tôi đau… tôi vẫn đang đau nhưng tôi tin, tôi vẫn đang tin, tôi yêu, tôi vẫn đang yêu cuộc đời này. Vì vậy, tôi hoan nghênh nỗi đau này. Để được sống là chính mình, được thực hiện ước mơ của mình, được yêu nghệ thuật thì nỗi đau này có là gì đâu. Sẽ ổn cả thôi khi tôi vẫn được là chính mình dù có đau như thế nào…

Vì đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục tồn tại trong xã hội này, để được sống trong cuộc đời này. Đó cũng là cách mà Toru đã chọn để tồn tại trong thế giới đó. Nếu không làm như thế, có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ không thể tiếp tục tồn tại và rồi sớm biến mất khỏi cuộc đời như Kizuki, Naoko…

Người yếu đuối nhất không phải là người cho người khác thấy sự yếu đuối của mình mà là những người đang cố che giấu đi sự yếu đuối đó. Làm sao có thể gọi những người ta thấy yếu đuối là yếu đuối khi họ đã dám sống thật với chính bản thân mình?

Ít nhất, đó là bài học mà tôi đã học được một cách rõ ràng trong một thế giới có quá nhiều điều mơ hồ, khó có thể dùng lời diễn tả rõ ràng như Rừng Na-uy.

Tôi đã đọc ở đâu đó một bình luận về Rừng Na-uy đại ý như thế này: làm sao có thể gọi Rừng Na-uy là cuốn sách thanh xuân bất diệt được khi có quá nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn đến nỗi con người không thể chịu được và đã có rất nhiều người tự tử trong đó.

Tôi nghĩ ý kiến đó là do người ấy đã nhìn những cái chết trong thế giới đó. Nhưng nếu nghĩ về Rừng Na-uy mà nhìn vào những con người có thể tiếp tục sống được, tồn tại được trong thế giới đó như Toru, như Midori… ta sẽ thấy lời nhận xét của báo Đọc sách Trung Hoa hoàn toàn đúng:

Rừng Na-uy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này qua thế hệ khác”

Hết.

Kodaki

Chiều Sài Gòn, 3.10

*

Muôn màu của Haruki Murakami





2 Comments

2 Bình luận

  1. Pingback: 1Q84 – Thế giới đa chiều, sự tối giản và tình yêu – Bookish

Viết bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Phía sau trang sách

Danh ca Elvis Phương ra mắt hồi ký mới, trải lòng nhiều chuyện hậu trường thú vị

Published

on

Ai đó đã từng nói rằng mỗi một nghệ sĩ đối với bản “hit” của mình luôn có những mối lương duyên đặc biệt. Với Elvis Phương điều đó rất đúng, khi suốt đời mình ông đã sống như một "chú ngựa hoang" với những vết thù mà mình mang theo. Hồi ký Dòng đời vừa mới ra mắt không chỉ mang đến những câu chuyện riêng phía sau hậu trường, mà còn cho thấy cả một thời đoạn âm nhạc liên tục thay đổi.

Trải qua gần 60 năm cuộc đời, Elvis Phương là một tượng đài giúp đưa dòng Rock’n’Roll và nhiều cách tân độc đáo vào âm nhạc Việt. Lấy tựa Dòng đời theo tên bài jazz nổi tiếng My Way, nam danh ca đã có những giãi bày riêng qua lời kể chân thành, từ đó tiết lộ rất nhiều câu chuyện, hình ảnh, tư liệu sống động mà trên ánh đèn sân khấu ít người biết đến.

Thời thơ ấu và tiếng gọi của âm nhạc

Được viết theo dòng thời gian từ khi sinh ra đến khi lớn lên, ở những chương đầu, Elvis Phương cho thấy được niềm đam mê âm nhạc ngay từ rất sớm. Như mối lương duyên đã được số phận sắp đặt, đó là việc ông thích phim ảnh và đã xem nhiều thể loại, thế nhưng tác phẩm để lại ấn tượng sâu nhất vẫn là bộ phim cao bồi O’Cangaceiro, nơi tiếng harmonica ở phần cuối phim vẫn luôn đọng lại. Từ chiếc harmonica ấy, ông dần sở hữu những “gia tài” khác, như chiếc radio, máy phát đĩa than, cây guitar bị hỏng dây… và cũng từ đó mà niềm khát khao đối với âm nhạc ngày càng đậm thêm.

Tại đây ông cũng tiết lộ một chuyện ít nhiều buồn thương, khi gia đình đã không ủng hộ ông theo con đường âm nhạc. Trong đó cha ông là người phản đối có phần quyết liệt, bởi tư tưởng cũ “xướng ca vô loài” cũng như mong muốn con mình nối nghiệp thầu khoán. Thế nhưng như một câu nói càng cấm càng làm, đam mê âm nhạc cứ thế lớn lên, cũng kèm theo đó là sự kình chống khó thể giảng hòa giữa ông và thân phụ mình.

Danh ca Elvis Phương hát cùng ban nhạc Vampires. Ảnh: NVCC.

Ông viết: “Tôi chắc chắn được một điều là mình rất mê âm nhạc, nghe tiếng nhạc tôi thấy yêu đời, thấy tâm hồn nhẹ nhõm lâng lâng. Lúc nào, giờ nào tôi cũng có thể nghe được, nhiều lúc còn mang cả radio vào trong toilet để nghe. Tiếng gọi của âm nhạc đến với tôi từ thời thơ ấu, nhìn lại những người thân trong họ hàng chung quanh, tôi nhận thấy mình chẳng hề chịu ảnh hưởng văn nghệ của bất kỳ ai, phải nói tôi nghĩ mình sinh ra đời để được ra phải được hát mà thôi”.

Dẫu vậy ông không hờn giận cha mình, mà khi ngày càng trưởng thành, ông nhận ra đó sẽ trở thành một “kim chỉ nam” để mặc cho sống giữa nhiều cám dỗ trong các vũ trường, những sân khấu ca nhạc… thì ông vẫn giữ được mình sao cho thuần chất. Có thể nói rằng những chia sẻ này là lời riêng tư và cảm xúc nhất mà Elvis Phương viết ra trong cuốn hồi ký, như lời tạ ơn cho vị thân sinh đã đưa "chú ngựa hoang dại" vào trong cánh đồng ca nhạc, dù bằng cách này hay cách khác.

Elvis Phương với Trung Lang Rockin' Star vào năm 1960. Ảnh: NVCC

"Ma lực" của Elvis Presley

Sau đó sẽ là quãng đời chạm ngõ bước vào trình diễn, khi ông gia nhập vào các ban nhạc nổi lên ở thời bấy giờ, từ Rockin’ Star, Les Vampire cho đến Phượng Hoàng cùng hai nhạc sĩ Nguyễn Trung Cang và Lê Hựu Hà. Ở mỗi thời kỳ ông luôn biết cách tạo ra được sự đặc biệt để thu hút khán giả, và cũng phần nào khẳng định “Âm nhạc là mùa Xuân trong tôi, đang nở hoa rực rỡ, không thể nào để cho mùa Đông của sách vở, của văn bằng tận diệt dưới lớp đá băng lạnh lẽo”.

Điểm hay của thể loại hồi ký đó là tuy phản ánh góc nhìn cá nhân, thế nhưng bối cảnh mà nó làm nên thường mang được tính phổ quát khi là ký ức của rất nhiều người. Ở Dòng đời, qua những mô tả của Elvis Phương, lịch sử về sự du nhập âm nhạc cũng được trở lại theo từng thời kỳ phát triển của bản thân ông. Đó là những năm 1959 – 1969 với phong trào nhạc ngoại bắt đầu manh nha và các ban nhạc “kích động” chuyên trình bày nhạc ngoại quốc bắt đầu ra mắt. Cũng vào lúc này mà ông tìm thấy Elvis Presley – một cá tính có “sức lôi cuốn kỳ lạ, như có ma lực ghê gớm lôi kéo tôi vào thế giới của âm thanh đầy huyền hoặc”.

Elvis Phương tại nhà của Elvis Presley. Ảnh: NVCC

Ông cũng kể lại một thời thanh xuân thích sưu tầm những bài ca nước ngoài, chép lại trong một quyển tập được trang trí cẩn thận, với những hình ảnh được cắt từ báo ngoại quốc lúc đó vẫn còn hiếm hoi tại Việt Nam. Elvis Phương tiết lộ để có những hình ảnh ấy thì người ta phải nhờ người nhà ở nước ngoài gửi về, vì phải đến năm 1963 thì mới có các tạp chí ca nhạc Mỹ xuất hiện, khi quân đội Mỹ vào Việt Nam. Thời điểm này cũng đã đánh dấu nhạc Pháp thoái trào và sự thay đổi thành phần khán giả.

Theo đó nếu những năm trước người tham dự đa số là học sinh trường Pháp, thì thời kỳ này là sự góp mặt của nhiều “dân chơi” Sài Gòn và sự bành trướng của nhạc Anh, nhạc Mỹ với sự có mặt của những quân nhân Hoa Kỳ. Đó là làn sóng British Invasion, và cũng đánh dấu bước chuyển của thời kỳ ca hát tài tử để bắt đầu có sự kỳ kèo về giá cả của những hợp đồng ký kết.

Elvis Phương kể mình từng khiến tài tử Lưu Đức Hoa bất ngờ với việc thay trang phục sau mỗi tiết mục trình diễn. Ảnh: NVCC

Ban Phượng Hoàng và những cá tính

Bên cạnh bối cảnh được tái hiện lại, Dòng đời cũng là những cuộc gặp gỡ của Elvis Phương với những bạn nhạc đóng vai trò quan trọng trong cuộc đời ông. Đó là huyền thoại cải lương Thanh Nga – người từng ngồi kề bên ông ở trường tiểu học Jean-Jacques Rousseau, là Khánh Ly – người đã thu âm cùng ông băng nhạc đầu tiên ở Mỹ, là cố nghệ sĩ Chí Tài – người đã sẵn lòng đầu tư cho ông dù chưa hề biết kết quả sẽ đi đến đâu… Ngoài ra còn là những gương mặt khác đã từng xuất hiện trong các ban nhạc kề cận quanh ông thuở mới vào nghề, cũng như trong nhiều tấm ảnh được đính kèm theo.

Trong đó hai người nổi bật không thể không nhắc là hai thành viên của ban Phượng Hoàng. Elvis Phương không chỉ kể lại những chuyện thân tình mà còn đánh giá ảnh hưởng của họ lên sự nghiệp và cuộc đời mình. Ông viết: “Hai tâm hồn, hai tư tưởng, hai nghệ sĩ, hai khuynh hướng sáng tác khác nhau, nhưng khi kết hợp lại đã mang đến sự quân bình tuyệt diệu của nhân sinh quan cũng như nghệ thuật. Tôi không coi họ là những thiên tài, mà tôi coi họ như những nạn nhân của tuổi trẻ, người nói lên được những cảm nghĩ sâu xa của một tuổi trẻ bị xâu xé vì chiến tranh, bị giằng co giữa cái đẹp và cái xấu trong bối cảnh xã hội lúc đó”.

Ban Phượng Hoàng (từ trái qua): Elvis Phương, Trung Vinh, Nguyễn Trung Cang, Châu và Lê Hựu Hà. Ảnh NVCC.

Ở đó có một Lê Hựu Hà lạc quan với lòng yêu thiên nhiên, yêu người, yêu đời, còn Nguyễn Trung Cang thì sống trong sự bi quan, dằn vặt, nhìn cuộc đời này bằng một màu đen tang tóc, ảm đạm. Và chính sự quân bình ấy đã tạo nên ban Phượng Hoàng như tên tuổi lớn của một giai đoạn nhạc trẻ Việt Nam bắt đầu thành hình. Và không chỉ có cơ may được hợp tác cùng và làm việc với những yếu nhân, mà bản thân ông cũng là một người hướng mình đến sự hoàn hảo, để đáp lại lòng thương yêu của khán giả dành cho mình.

Ông kể về những lần mua sắm rất nhiều trang phục ở các kinh đô thời trang khác nhau với những nhà thiết kế nổi tiếng, không chỉ vì thích mặc đẹp mà còn vì để tôn trọng khán giả. Ông cũng nói về nỗ lực của mình trong việc tìm ra một lối đi mới, trong việc tiên phong hát các liên khúc, phối trộn chất liệu dân gian cũng như cách hát bày tỏ cảm xúc khác biệt… Chính những điều đó làm nên một Elvis Phương của ngày hiện tại, rằng dẫu chìm nổi theo dòng thời gian ở nhiều bối cảnh khác nhau, thì ông vẫn luôn thích nghi và tìm thấy được lối riêng cho bản thân mình.

Bìa cuốn hồi ký Dòng đời. Ảnh: Phương Nam Books

Xuyên suốt tác phẩm ông đã ví mình như chú ngựa hoang “phóng vào đồng cỏ mênh mông, bát ngát để khám phá biết bao điều mới lạ, được nhìn thấy đủ muôn mặt của cuộc đời này, từ những khuôn mặt khả ố đến những khuôn mặt đẹp đẽ dễ thương, từ những khuôn mặt tính toán thâm hiểm cho đến những khuôn mặt đầy bao dung và nhân hậu…”

Và sau 60 năm vùng vẫy vẫn chưa thấm mệt, cho đến giờ đây, ông vẫn là một tượng đài trong âm nhạc Việt Nam không chỉ trong quá trình làm nghề, mà còn là thái độ sống và lòng bao dung với cuộc đời này. Dòng đời chính là những trải lòng ấy, để "ngựa hoang" giờ đã tìm thấy tình yêu cũng như chính mình.

Nguồn: Người Đô Thị | Minh Anh

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Từ câu chuyện quạ và bình nước đến giải mã bí mật bộ não thiên tài của loài chim

Quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Published

on

Bạn có biết, loài chim đã tồn tại hơn 100 triệu năm? Chúng thường sử dụng tập quán xây tổ, sử dụng điệu múa… để thu hút bạn tình. Hay chim sáo, vẹt có khả năng bắt chước nói tiếng người, bồ câu đưa thư hoặc những loài chim di cư định vị được chúng đang ở đâu.

Trí thông minh của loài chim trở thành nguồn cảm hứng bất tận để các nhà khoa học thực hiện hàng loạt thí nghiệm. Và trong quyển sách Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman giúp độc giả hiểu biết thêm vô vàn năng lực kỳ diệu, đời sống hoang dã đầy thú vị của loài chim. 

Vì sao loài chim có trí thông minh vượt bậc?

Trong Chim chóc chưa bao giờ ngốc (Phương Nam Book & NXB Thế giới), nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đã không ngần ngại gọi các đối tượng chim bằng cụm từ “thiên tài”. Vì sao ư? Khi đi sâu nghiên cứu, ghi chép, Jennifer Ackerman nhận định, chim chóc xứng đáng với cái tên đó.

Cũng theo Charles Darwin - nhà bác học, nhà tự nhiên học vĩ đại người Anh, “cha đẻ” của thuyết tiến hóa, từng nói: “Động vật và con người có sức mạnh trí tuệ chỉ khác nhau ở mức độ chứ không phải ở giống loài”. Trong thực tế, bạn từng nhìn thấy chú chim sẻ đang nhặt hạt thóc mang về tổ hay một con chim sáo lục túi rác tìm thực phẩm sót lại. Điều này giúp bạn nhận ra, loài chim học được cách tìm kiếm thức ăn mới. Dấu hiệu cho thấy sự thông minh vượt bậc của loài chim. 

Gần gũi hơn với tuổi thơ chúng ta, câu chuyện ngụ ngôn quạ và bình nước là tiền đề để các nhà khoa học thực hiện các thí nghiệm trên loài quạ. Năm 2014, nghiên cứu về quạ và bình nước tái hiện lại dưới góc nhìn các nhà khoa học ở ĐH Cambridge (Anh) và ĐH Auckland (New Zealand).

Ảnh minh họa

Với nhiều phương án, giống quạ New Caledonian được thí nghiệm ưu tiên chọn đá để thả vào bình thay vì cát, chọn vật rắn chìm dưới nước thay vì vật rỗng nổi trên mặt. Quạ thả vào bình có mực nước cao hơn thay vì bình có mực nước thấp hơn. Từ những hành vi đó, các nhà khoa học kết luận rằng, loài quạ cực kỳ thông minh, nó biết cách sử dụng công cụ lao động theo ý muốn. 

Cũng trong nghiên cứu trên Tạp chí Thần kinh học So sánh (Mỹ), tháng 1/2022, các nhà khoa học so sánh não bộ chim họ quạ với não của gà, chim bồ câu và đà điểu. Họ phát hiện rằng não họ quạ có các tế bào thần kinh dày đặc với hơn 200 đến 300 triệu tế bào thần kinh trên mỗi bán cầu. Điều này cho phép việc giao tiếp hiệu quả giữa các tế bào não của quạ. 

Trong khi đó, loài chim luôn bị nỗi oan ngu ngốc, con người mắng là lũ não ngắn, đồ... não chim. Theo một nghiên cứu năm 2020, tạp chí Science, công bố, não chim không hề ngắn một chút nào. Cụ thể, quạ và các loài chim khác “biết chúng muốn gì và có thể suy ngẫm các ý tưởng trong tâm trí”. Theo tạp chí Current Opinion in Behavioral Sciences, xuất bản năm 2017, nhận định, trí thông minh của quạ có thể ngang bằng với một số loài khỉ và gần với loài vượn lớn (khỉ đột).

Cũng theo nghiên cứu của Viện Khoa học Hàn lâm Quốc gia (Mỹ), các nhà khoa học phát hiện ra rằng, bộ não bé nhỏ của loài chim chứa nhiều tế bào não hơn đa số các loài thú hiện nay. Cụ thể, các chuyên gia đã xét nghiệm tế bào não của 32 loài chim khác nhau, gồm cả quạ, vẹt, đà điểu và cú. Họ sử dụng hệ thống đếm neuron thần kinh. Kết quả thu được, não chim có số lượng tế bào não lớn hơn hẳn các loài thú khác. Ví dụ, loài chim sẻ - trọng lượng bằng 1/9 loài chuột, nhưng tỷ lệ tế bào não nhiều gấp 2,3 lần.

Tuyệt chiêu ‘tỏ tình” sáng tạo của loài chim 

Từ việc quan sát hành vi sống của loài quạ có thể chế tạo công cụ để lấy thức ăn - những thứ chỉ từng nhìn thấy ở các loài vượn lớn. Hay nguyên nhân tuyệt diệt của chim dodo, tác giả sách, nhà nghiên cứu Jennifer Ackerman đi tìm lời giải đáp về thang đo chung trí tuệ của các loài chim. 

Với Chim chóc chưa bao giờ ngốc, Jennifer Ackerman cung cấp kiến thức đời sống hoang dã lý thú đến người đọc. Tác giả trình bày chi tiết những phát hiện, minh chứng, nghiên cứu cũng như kết quả về trí thông minh của loài chim. Việc bộ não loài chim có kích thước nhỏ không tương đồng một cách hoàn toàn với trí thông minh của chúng.

Hơn hết, Jennifer Ackerman dùng các học thuyết riêng biệt để giúp chúng ta hiểu thêm về trí thông minh của loài chim. 8 chương sách là 8 mảnh ghép làm nên những điều mới mẻ về các loài chim. Trong đó, hai chương sách bàn luận về học thuyết tâm trí giao phối. Tác giả đưa ra những lý giải thú vị về các hành vi một vài loài chim mái tìm bạn tình dựa trên cách xây dựng tổ cũng như điệu múa đẹp từ chim trống. 

Vào mùa giao phối, chim trống lượm nhặt, thậm chí giành giật nhiều đồ vật bỏ rơi đủ màu sắc để trang trí nơi ở của mình để thu hút chim mái. Khi đối tượng đến, chim trống nhảy nhót, hót mừng mời vào tổ tham quan. Tổ càng đẹp con mái sẽ càng dễ xiêu lòng hơn. Hoặc có những loài chim khác lại chọn sự đồng điệu thông qua tiếng hót… Hành vi kết đôi thú vị này diễn ra trong thế giới tự nhiên giúp chúng ta thấu hiểu, loài chim cũng rất sáng tạo trong việc tán tỉnh nhau.

Điều đặc biệt của Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn nằm ở sự pha trộn tài tình giữa những kiến thức thú vị về cuộc sống của loài chim. Óc quan sát tinh tế, sự ghi chép tỉ mẩn, dày công nghiên cứu về loài chim của tác giả Jennifer Ackerman gói gọn trong hơn 400 trang viết.

Thông điệp từ tình yêu thiên nhiên

Chim chóc chưa bao giờ ngốc còn góp phần giúp độc giả nhí lẫn người lớn hiểu thêm thực tế môi trường sống đang dần biến đổi. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống con người và sự tiến hóa của loài chim. 

Jennifer Ackerman diễn giải cho chúng ta thấy, các chú chim di cư giờ đây phải đối mặt với việc thức ăn trên biển của mình không đúng mùa. Nhiệt độ môi trường tăng lên, thời gian sinh trưởng của các trật tự sinh học khác đảo loạn. Dẫn đến nhiều loài chim phải chết giữa đường do không tìm được thức ăn. Trong rừng rậm sâu, những con chim mẹ cũng phải đẻ trứng ngược với chu trình ngàn đời tự nhiên, nhằm đảm bảo nguồn sâu phong phú để nuôi nấng thế hệ sau của mình… 

Thông qua Chim chóc chưa bao giờ ngốc, tác giả Jennifer Ackerman mong muốn gửi gắm thông điệp về tình yêu thiên nhiên, góp phần nâng cao nhận thức của cộng đồng về vấn đề bảo tồn sự đa dạng sinh học của loài chim nói riêng, cũng như đời sống loài động vật hoang dã khác trước thềm tuyệt chủng.

“Não chim có lẽ nhỏ, nhưng rõ ràng là có võ… Chim chóc đã tồn tại trong hơn 100 triệu năm. Chúng là một trong những câu chuyện thành công vĩ đại nhất của tự nhiên…”, Jennifer Ackerman viết.

Bà Trần Nhật Hoàng Phương - Giám đốc Marketing Phương Nam Books - cho biết, nếu như thời gian trước, các dòng sách đa dạng, phong phú theo chiều rộng, thì trong năm 2023, nhiều chủ đề sách sẽ mang tính chiều sâu hơn. Theo đó, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - giải mã bộ não thiên tài của loài chim, được trình bày với giọng văn mạch lạc. Từ đó, độc giả sẽ bước vào cuộc phiêu lưu trên từng trang sách.

Tóm lại, Chim chóc chưa bao giờ ngốc - một cuốn sách tuyệt vời dành cho bạn đọc yêu động vật, tò mò khám phá về đời sống tự nhiên. Bởi có quá nhiều điều thú vị sẽ giữ chân bạn lại lâu hơn, để tìm hiểu, để khám phá và yêu hơn những loài chim - một trong những sinh vật có trí thông minh vượt bậc nhất thế giới. 

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sự hoàn hảo và hạnh phúc: Điều gì quan trọng hơn?

Bạn và tôi cũng chỉ là những cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình.

Published

on

phu-nu-dung-kiet-suc-vi-su-hoan-hao

Gửi cậu - cô gái luôn nghĩ mình chưa đủ tốt. 

Dạo gần đây, mình lướt mạng xã hội thấy được rất nhiều những cô gái xinh đẹp, giỏi giang và tràn đầy năng lượng tích cực, mình ngưỡng mộ lắm! Nhưng mình bỗng lặng đi một chút, hàng vạn câu hỏi xuất hiện trong đầu mình: Tại sao bản thân lại không được xinh đẹp, sao bản thân mình toàn chất chứa những tiêu cực, sao mình lại không đủ tốt cơ chứ! Bạn đã từng bị những suy nghĩ ấy bủa vây chưa? Nếu câu trả lời là có, hãy để mình dành cho bạn một cái ôm thật dịu dàng nhé! 

Chỉ cần quan tâm cảm xúc bản thân một chút, bạn sẽ thấy tinh thần tốt hơn. Nguồn ảnh: @Unsplash

Phải là một cô gái đoan trang, một người vợ tào khang, một người mẹ giỏi giang - những tiêu chuẩn hoàn hảo, những áp lực vô hình ấy đã gắn lên người phụ nữ qua bao thế hệ. Ở đây, mình không phủ nhận những tiêu chuẩn ấy là sai trái, mình chỉ nói đến việc phụ nữ chúng mình luôn trong tình trạng thấy quá tải và kiệt sức với mọi việc mình phải làm, nhưng vẫn cứ lo là mình làm chưa “đủ” và luôn trong trạng thái "sức cùng lực kiệt". 

Mình cũng chỉ là cô gái nhỏ trên hành trình tự chữa lành tâm hồn, yêu thương chính mình để thoát khỏi "peer pressure" (Áp lực đồng trang lứa) hay "burn out" (luôn cảm thấy bản thân mình mệt mỏi và vô cùng áp lực). Người bạn đồng hành cùng mình ở hành trình này chính là quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo (Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA)

Quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo - tác giả Emily Nagoski, PhD và Amelia Nagoski Peterson, DMA

Quyển sách cung cấp độc giả những thông tin khoa học về sức khỏe tâm lý, vừa là người bạn cùng san sẻ những vấn đề xung quanh "cuộc sống phải hoàn hảo" của người phụ nữ. Và chắc chắn bạn sẽ như mình khi bắt gặp chính mình trong quyển sách qua những câu chuyện về cuộc đời, những nỗi đau tâm lý và những lần ngã gục của những người phụ nữ. 

Ba phần của quyển sách Phụ nữ đừng kiệt sức vì sự hoàn hảo tương ứng với ba giai đoạn của sự chữa lành: 

  • Phần 1 - Những điều bạn mang theo: Với mình, đây là chương sách mình phải chạnh lòng và nghiền ngẫm lâu nhất, khi mình phải tự đối mặt với những đám mây tiêu cực - những vấn đề vẫn hằng đeo bám tâm trí người phụ nữ: sự căng thẳng, cạn kiệt cảm xúc, nhìn nhận sai về "ý nghĩa cuộc sống"... qua góc nhìn tâm lý học và khoa học xã hội. Nhưng mình chắc chắn rằng chúng sẽ không hề khô khan mà lại dễ hiểu và gần gũi qua cách dẫn chuyện lôi cuốn của tác giả. 
  • Phần 2 - Kẻ thù thật sự: Phần hai của quyển sách đào sâu vào "chế độ phụ quyền", “hội-chứng-người-biết-cho-đi” và "vẻ đẹp lý tưởng" - vạch trần những kẻ thù đã gây ra những thương tổn trong tâm lý người phụ nữ. Mình cũng rất thích cách tác giả lồng ghép bộ phim Gaslight một cách đầy tinh tế để dẫn chuyện. Cùng với đó, tư tưởng của tác giả không lý thuyết suông rằng kêu gọi phụ nữ hãy yêu thương và chấp nhận bản thân, mà là "kiên nhẫn với cơ thể cũng như cảm giác của bạn về cơ thể mình."
  • Phần 3 - Những điều cần làm: Phần này sẽ trang bị cho bạn những kiến thức để đánh bại "những kẻ thù thật sự", để bạn ngày một trở nên mạnh mẽ hơn và chiến thắng được chúng. Bạn sẽ bất ngờ nhận ra đó là những việc bạn có thể thực hiện hằng ngày, để bạn kết nối, tin tưởng, nghỉ ngơi và bao dung với bản thân mình hơn. 

Cuối mỗi chương, nhóm tác giả đều có tóm tắt ngắn gọn nội dung, giúp mình thống kê lại kiến thức và các "bài tập" thực hành. Khép lại quyển sách chưa đầy 400 trang, mình đã xóa đi được những góc nhìn đầy phiến diện về cuộc sống và cả về chính mình nữa.

Khi ta từ bỏ sự áp lực hoàn hảo là ta đang hạnh phúc. Nguồn ảnh: @Unsplash

Mình không dám nói rằng mình trưởng thành hơn hay hoàn thành chữa lành sau khi đọc xong quyển sách. Nhưng mình đã tự mở ra cho mình một lăng kính mới, một cánh cửa mới cho chiếc tủ eo hẹp nơi tâm trí. Lăng kính của sự tự do và cánh cửa của sự bao dung cho bản thân. Bất cứ sự trưởng thành nào cũng phải đánh đổi bằng tổn thương. Điều quan trọng, cách ta chiến đấu và chữa lành cho đứa trẻ bên trong sau cuộc chiến hay để những đớn đau ấy mãi tuần hoàn.

"Hãy tin tưởng cơ thể của bạn. 
Hãy tử tế với chính mình. 
Bạn như hiện tại là đủ. 
Niềm vui của bạn là quan trọng. 
Hãy nói cho mọi người mà bạn biết."
Mỗi cô gái đều là phiên bản độc nhất và xứng đáng được yêu thương!"

Đọc bài viết

Cafe sáng