Phía sau trang sách

Rừng Na-uy: Những dạng thức cô đơn…

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp.

Published

on

Gửi người bạn thân nhất của tôi,

I once had a girl, or should I say, she once had me.
She showed me her room, isn’t it good, norwegian wood?

Khi tôi viết những dòng suy nghĩ này, trí nhớ của tôi về Rừng Na-uy không còn được rõ như lúc trước nữa. Không hẳn là nó phai nhạt dần, chỉ là với riêng tôi, hình như việc quá yêu nó khiến tôi không thể nào viết được cảm nhận về nó khi trí nhớ còn quá rõ ràng. Bởi vì như vậy, nó sẽ làm tôi đau, đau lắm…

Giờ đây, khi những câu chữ kia trói buộc tôi đang dần nơi lỏng, chính thứ giai điệu bàng bạc nỗi cô đơn của bài hát ấy mới là cái gợi tôi nhớ đến Rừng Na-uy. Nó đã cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng nhưng vẫn cô đơn. Nỗi cô đơn có nhiều dạng thức. Có những nỗi cô đơn có thể giao hòa với nhau. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ được cảm thông và chia sẻ. Nhưng có những nỗi cô đơn như hai mặt phẳng trơ trọi trong không gian. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ càng cô đơn hơn.

Những con người trong Rừng Na-uy đã gặp nhau, yêu nhau để rồi bất lực không đến được với nhau vì nỗi cô đơn trong mỗi người khác nhau. Có thể nói, Rừng Na-uy như cuốn từ điển sống về nỗi cô đơn mà ở đó Murakami Haruki đã giải nghĩa thật tinh tế, ngắn gọn mà đầy đủ…

…đó là cái chết của người bạn thân nhất và duy nhất

Câu chuyện bắt đầu được kể lại bằng dòng hồi tưởng về những sự kiện diễn ra cách đó khá lâu. Nó là những mảnh kí ức của Toru qua năm tháng. Vì vậy, nó không chỉ bàng bạc nỗi cô đơn tự thân vốn dĩ của những con người trong thế giới đó, mà còn chất chứa niềm nhớ thương không nguôi cho những gì đã qua đi, không thể trở lại.

…đó là tình yêu dành cho người yêu của người bạn thân ấy.

…đó là sự ra đi của người con gái ấy.

Trong mối quan hệ giữa ba người Toru – Kizuki – Naoko, Kizuki chính là người đóng vai trò trung tâm. Anh luôn biết cách điều khiển câu chuyện nhịp nhàng giữa ba người, không bỏ mặc ai, không để ai cảm thấy cô đơn. Anh luôn tìm được sự thú vị trong những câu chuyện tưởng chừng như nhàm chán nhất, khiến cho người kể câu chuyện ấy cũng cảm giác mình thật đặc biệt. Đó là một dạng tài năng mà không phải ai cũng có thể phát hiện. Nhưng Toru đã nhận ra được và cảm thấy thật uổng phí vì Kizuki không giao thiệp rộng. Anh băn khoăn tự hỏi một người bình thưởng chỉ thích đọc sách, nghe nhạc như mình tại sao lại được Kizuki để mắt.

Tôi nghĩ, có lẽ đó là lực hút của sự cô đơn. Trong câu chuyện ngày ấy giữa ba người theo cách kể của Toru, có vẻ như Kizuki là người bình ổn nhất, biết cách hòa nhịp với cuộc sống nhất. Điều đó diễn ra tự nhiên đến nỗi không ai lại nghĩ một người như thế có thể tự tử. Cái chết của Kizuki đã khiến Toru suy nghĩ rất nhiều về ngày hôm ấy…

Có lẽ trong ba người chính Kizuki mới là người cô đơn nhất. Anh cô đơn nhất vì phải che giấu nỗi cô đơn của mình để làm chỗ dựa tinh thần cho người khác. Nhưng điều đó không khiến cho Kizuki mạnh mẽ hơn mà chỉ khiến cho anh yếu đuối hơn. Những người quá cô đơn nhìn vào ai cũng biết được họ đang cô đơn như Toru thật ra vẫn còn một hạnh phúc: đó là họ sống thật với bản thân mình. Vì họ sống thật, và vì cái tôi của họ không được xã hội chấp nhận nên họ mới cô đơn. Nhưng ngay cả khi đã như thế, họ vẫn không thay đổi hay giả vờ thay đổi để được xã hội chấp nhận. Họ vẫn là chính họ. Vậy chẳng phải là mạnh mẽ hay sao?

Còn những người cô đơn mà giấu nỗi cô đơn của mình là vì họ sợ bị tổn thương khi cái tôi của mình không được chấp nhận. Khi làm như thế, không hẳn là vì họ muốn hòa nhập với xã hội hơn, chỉ là vì khi phơi bày nỗi cô đơn của mình ra, dù muốn dù không, ai cũng có chút cảm giác hi vọng sẽ tìm được người hiểu mình. Họ sợ cảm giác thất vọng vì cho đến cuối cùng vẫn chẳng ai hiểu mình. Nhưng có cần nhất thiết phải tìm được người hiểu mình không, khi mình vẫn có thể tìm được niềm vui bên cạnh những người rất yêu thương mình, dù họ không nắm bắt được cái cơ bản nhất trong tâm hồn của mình?

Có lẽ đó là cách suy nghĩ của những người mang nỗi cô đơn như thế, là cách suy nghĩ của Kizuki. Nếu quả thật như thế thì đáng buồn thật. Dù cho bên ngoài, anh là một con người như thế nào đi nữa, một khi anh đã không sống thật với chính bản thân mình, sẽ đến lúc nào đó anh cảm thấy như có thứ gì đó đang chết đi trong con người anh mà anh không hay biết. Cứ sống và cho đến một ngày nhận ra mình đã mất đi điều gì đó cốt lõi trong tâm hồn, mình không biết điều gì có ý nghĩa nữa, mình cảm nhận đã đến lúc cuộc đời mình mãn hạn… Kizuki đã sống, tồn tại và biến mất như thế.

Cách thức này, khiến tôi có cảm giác tương đồng với chị của Naoko. Chị tài giỏi, được nhiều người yêu mến, là một dạng người mà ai cũng nghĩ không có bất cứ nỗi buồn nào sâu sắc với xã hội, không có nỗi cô đơn. Vậy mà một ngày, tâm hồn vốn đã nhỏ bé của Naoko bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh chị mình treo cổ tự tử chết chính trong căn phòng của chị ấy. Nó đã để lại nhiều ám ảnh trong Naoko sau này.

Nỗi cô đơn của Naoko lại khác với nỗi cô đơn của Kizuki. Naoko không cố che giấu nỗi cô đơn của mình nhưng lại không biết cách để bộc lộ nó. Tôi hiểu được cảm giác này, cảm giác suy nghĩ nhiều đến nỗi mình không nắm bắt kịp mình đang nghĩ gì. Khi một câu chuyện chưa được hình thành rõ ràng trong tâm trí thì nó đã là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác, những câu chuyện khác lại là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác nữa… Phải chơi trò chơi rượt bắt với chính ý thức của mình thật là mệt mỏi, để rồi đa phần khi “ta” không bắt được “ta”, ta đau khổ. Những lúc đó, đối với tôi và có lẽ là với cả Naoko nữa, chỉ mong sao có được một hạnh phúc nhỏ nhoi: hiểu được chính bản thể của mình.

Hạnh phúc theo quan niệm của nhiều người, nếu được chia ra ở dạng cơ bản nhất thì có lẽ nó có hai dạng:

Khi người ta mơ ước, người ta thực hiện được ước mơ của mình, nói một cách khái quát là khi có được những điều bấy lâu nay mình không có và luôn mong muốn có thì người ta sẽ hạnh phúc.

Khi người ta mơ ước, người ta không thực hiện được ước mơ của mình. Đối với họ, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc không có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc không nằm trong những thứ ngoài kia, những thứ họ không nắm bắt được, mà nằm ở đây, ở chính những gì họ có. “Hạnh phúc xuất phát từ những điều đơn giản nhất và bình dị nhất”… có ai đã nói với tôi như thế.

Dù vậy, hạnh phúc mà tôi và Naoko mong muốn có, tôi chẳng biết xếp nó vào dạng nào. Bản thể của mình đương nhiên là thứ thuộc về mình nhưng như vậy cũng không đồng nghĩa với việc mình luôn có nó. Khi không nắm bắt được chính nó, mình chỉ còn nhận biết được nó có tồn tại đâu đó trong mình. Nó chỉ thuộc về mình thôi, không chắc là mình hoàn toàn có được nó. Cảm giác không hiểu được chính mình nghĩ gì, cần gì, muốn gì khiến người ta cảm thấy cô đơn, lạc lõng.

Sự lạc lõng của Naoko lại xuất phát từ việc thực sự không có con đường nào để chọn. Có thể trong một nơi nào đó của tiềm thức, Naoko có một con đường để đi nhưng cô lại không biết được. Mất Kizuki, Naoko không chỉ mất đi người mình vô cùng yêu mến mà còn mất đi khả năng để nhận thức chính bản thân mình. Tựa hồ giống như một người con gái đang bước đi trong bóng tối. Vì không có một chút ánh sáng nào, chung quanh là màu của hư vô, tịch mịch, cô cứ nghĩ mình đang bước đi trên một con đường vô định. Dù mình không muốn đi con đường này nhưng nó chỉ có một, hoàn toàn không có bất kì một ngã rẽ nào khác. Cho đến khi ánh sáng chợt bừng lên, cho dù chỉ là một nguồn sáng nho nhỏ, những con đường từ mọi nơi đang dần hiện ra… Điều đó khiến cô vui, cô đã nhìn thấy những con đường khác. Cô đã có thể chọn lựa. Thế nhưng vì đi một con đường quá lâu, khi chợt có nhiều ngã rẽ như thế, cô không biết phải chọn ngã nào. Bước đầu, có lại được chút ánh sáng trong cuộc sống của mình, cô quyết định chọn con đường của người đã mang lại ánh sáng đó cho cô.

Vậy mà Kizuki lại rời bỏ Naoko quá sớm, quá sớm để Naoko có thể tập nhận thức một cách rõ ràng hơn về bản thể của mình, tự chọn cho mình một lối đi, tự tạo ra ánh sáng của chính mình. Con đường ấy giờ lại như năm xưa, chìm trong bóng tối. Dù vậy, trong cái bóng tối triền miên không dứt của đời người, Naoko vẫn nhận ra được có những thứ đã mãi mãi mất đi. Nỗi cô đơn một khi đã cố gắng giao hòa với một nỗi cô đơn khác mà không thể được, cuối cùng khi trở về một mình, nó đã lớn hơn trước gấp nhiều lần. Từ người chị gái thân yêu của mình, cho đến người bạn trai mà mình yêu mến… kết quả chỉ có một, không thể nào thay đổi được sự thật đó. Khi không tìm được bản thể của mình, họ đã không thể tiếp tục tồn tại. Giờ đây, Naoko cũng đã bất lực và lựa chọn sự ra đi giống họ…

Trong xã hội Nhật Bản thời kì chuyển đổi quá mạnh mẽ ấy, thanh niên Nhật cô đơn, lạc lõng. Họ không biết phải làm gì với chính cuộc đời mình. Điều đó dễ khiến người ta tìm đến tự sát vì cuộc đời quá nhàm chán. Vậy phải làm gì để tồn tại được?

Trong thế giới của Rừng Na-uy, người tôi khâm phục nhất là Toru. Không phải vì anh là một người đặc biệt. Anh chỉ là một người bình thường như chính anh thú nhận. Nhưng anh đặc biệt nhất vì anh dám sống với chính bản thể của mình. Anh không hề che giấu việc mình là một người cô đơn, ít bạn, suốt ngày chỉ mải mê đọc sách. Anh cũng không cố giao tiếp với những người mình không hợp, cái mà xã hội gọi đó là xã giao. Anh cô đơn và anh dám sống với chính sự cô đơn của mình, không hề cố gắng để thay đổi vì đó chính là bản thể của anh. Đó có lẽ là điểm mà anh đã thu hút được Kizuki, Nagasawa và cả Naoko nữa. Họ thích anh vì họ không làm được như anh. Khi ở bên anh, họ cảm thấy bình yên vì anh là chính anh. Ở xã hội ngoài kia, có mấy người sống thật sự là chính mình? Không tính đến chuyện lừa dối nhau, vì nhiều lí do, có lẽ chúng ta chỉ đang “hơi” sống thật với chính bản thân mình. Sự thật một nửa, hay gần sự thật cũng đều không phải là sự thật. Sự thật chỉ là sự thật khi nó trọn vẹn là chính nó.

Toru đã sống thật. Midori đã sống thật. Hai người đã sống thật sự là chính mình nên khi họ yêu nhau, họ yêu chính con người của đối phương và được đối phương yêu lại chính con người của mình. Dù hai người đến với nhau đều riêng mang những nỗi cô đơn trong tâm hồn nhưng với một tình yêu như thế, dù hiện tại có mang một chút sắc u buồn, khi biết cùng nhìn về tương lai chắc chắn nó sẽ ánh lên màu của tươi sáng, màu của hi vọng.

Sau khi trải nghiệm thế giới của Rừng Na-uy, nhìn lại mình, tôi ngạc nhiên khi thấy trong từng giai đoạn biến đổi của cuộc đời mình, tôi nhận ra nỗi cô đơn mà mình đã từng và đang mang có một chút giống Kizuki, một chút giống Naoko, một chút giống Toru…

Tôi là một đứa bé khi mới sinh ra đã không hòa nhập được với xã hội vì nhiều lí do. Suốt những năm mẫu giáo, cấp một, cấp hai, tôi luôn cô đơn, không có một người bạn thật sự nào cả. Nhưng khi còn ở mẫu giáo hay cấp một, tôi chưa bao giờ một lần bất mãn với chính nỗi cô đơn của mình, chính bản thân mình. Vì khi đó, tôi được sống yên bình ngày qua ngày. Tôi biết là mọi người chỉ không quan tâm tôi, tôi không hề có cảm giác là mình đang bị xã hội chối bỏ.

Cho đến năm cấp hai, khi tôi không còn được sống yên bình trong thế giới nhỏ bé của mình, tôi bị mọi người cười nhạo, quấy rối, giẫm đạp lên chính bản thể của mình. Khi phải sống một cuộc sống địa ngục trần gian về mặt tinh thần như thế, tôi bắt đầu quay lại tự vấn và bất mãn với chính bản thân mình. Tại sao tôi lại phải mang cái tôi này để đổi lại cuộc sống như thế? Chính vì vậy, khi lên cấp ba, đến với một môi trường mới, có cơ hội để thay đổi mình, tôi đã chọn sự thay đổi. Lúc ấy, tôi đã gặp một người bạn nhìn tôi bằng ánh mắt khác với mọi người: bạn ấy chấp nhận tôi. Đó là người tôi vô cùng yêu mến. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự muốn bước vào thế giới của một người nào đó. “…I feel my soul. Take me you way…”  

Cảm giác đó có lẽ như Naoko lúc mới gặp Kizuki. Nhưng nếu như thế giới của Naoko và Kizuki mang nhiều điểm tương đồng, khi ở bên cạnh Kizuki, Naoko cảm nhận được tâm hồn của mình nhiều hơn thì ở đây, thế giới của tôi và người bạn đó khác nhau quá xa. Phần nhiều là tôi học cách để đi vào con đường của bạn ấy nhiều hơn là cảm nhận chính tâm hồn của mình. Để làm được điều đó, tôi phải thay đổi.

Lúc trước, tôi cứ nghĩ đơn giản rằng mọi thứ đều có thể thay đổi được chỉ cần có cố gắng. Nhưng giờ đây, tôi mới nhận ra, đúng như Marc Levy đã từng viết: Có những thứ có thể thay đổi được nhưng cũng có những thứ không thể thay đổi được, con người đau khổ vì không phân biệt được cái nào có thể thay đổi, cái nào không thể thay đổi. Lúc đó, tôi cứ hăm hở thay đổi tất cả mọi thứ thuộc về bản thân tôi để được sống trong thế giới của người ấy. Tôi thay đổi một cách hoàn hảo đến mức chính bản thân tôi cũng bị lừa gạt bởi cái hình ảnh tôi tự tạo ra lúc đó. Bây giờ, khi nhìn lại, những thay đổi đó không phải là hoàn toàn vô ích với tôi hiện tại; nó vẫn còn để lại những ảnh hưởng tích cực. Nhưng đồng thời, tôi đã không nhận ra được rằng tôi cũng thay đổi luôn những thứ vốn không thể thay đổi, những thứ thuộc về chính bản thân tôi.

Lúc này, tôi lại đồng cảm với nỗi cô đơn của Kizuki. Nỗi cô đơn khi phải che giấu chính con người thật của mình, sống không được thật sự là chính mình. Dù trong tiềm thức tôi không nhận ra, nhưng đâu đó trong con người tôi, cơ chế hoạt động của não tôi phản kháng lại sự thay đổi cái quan yếu của bản thân tôi. Nó diễn ra chầm chậm, từ từ, tôi không thể nào nhận ra  được. Bắt đầu cuối năm cấp ba, tôi mỗi ngày một trầm tính hơn, mỗi ngày trở lại với bản thể ngày xưa của mình một chút.

Bây giờ, khi đã là một sinh viên năm hai, tôi hoàn toàn trở nên trầm lặng, trầm lặng hơn cả trước khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi cô đơn, tôi có rất ít bạn, tôi mãi đắm chìm trong thế giới nghệ thuật. Bây giờ, nhiều lúc tôi không hiểu nổi chính bản thân mình đang nghĩ gì giống như Naoko vậy. Có lẽ đó là cái giá tôi phải trả cho tội lỗi của mình lúc trước: đã sống không thật với chính mình.

Bây giờ, nhiều lúc tôi sống thật với bản thân mình đến mức cực đoan: chỉ làm những điều mình muốn, chỉ nói những điều mình nghĩ, khiến cho không ít những người bạn lúc trước của tôi bất bình bảo rằng tôi chẳng khác gì trẻ con. Vì chỉ có trẻ con mới làm mọi thứ theo bản tính tự nhiên của nó mà không suy nghĩ đến xung quanh.

…và sống như trẻ con thì rất dễ bị đau, bị tổn thương. Dù vậy, tôi sẽ làm tất cả để được sống là chính mình, để nâng niu, yêu thương bản thể của mình – cái mà tôi đã một lần đánh mất, giờ vẫn đang tìm lại dẫu rằng có thể mãi mãi tôi không tìm lại được nó trọn vẹn.

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp. Bây giờ, tôi đau… tôi vẫn đang đau nhưng tôi tin, tôi vẫn đang tin, tôi yêu, tôi vẫn đang yêu cuộc đời này. Vì vậy, tôi hoan nghênh nỗi đau này. Để được sống là chính mình, được thực hiện ước mơ của mình, được yêu nghệ thuật thì nỗi đau này có là gì đâu. Sẽ ổn cả thôi khi tôi vẫn được là chính mình dù có đau như thế nào…

Vì đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục tồn tại trong xã hội này, để được sống trong cuộc đời này. Đó cũng là cách mà Toru đã chọn để tồn tại trong thế giới đó. Nếu không làm như thế, có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ không thể tiếp tục tồn tại và rồi sớm biến mất khỏi cuộc đời như Kizuki, Naoko…

Người yếu đuối nhất không phải là người cho người khác thấy sự yếu đuối của mình mà là những người đang cố che giấu đi sự yếu đuối đó. Làm sao có thể gọi những người ta thấy yếu đuối là yếu đuối khi họ đã dám sống thật với chính bản thân mình?

Ít nhất, đó là bài học mà tôi đã học được một cách rõ ràng trong một thế giới có quá nhiều điều mơ hồ, khó có thể dùng lời diễn tả rõ ràng như Rừng Na-uy.

Tôi đã đọc ở đâu đó một bình luận về Rừng Na-uy đại ý như thế này: làm sao có thể gọi Rừng Na-uy là cuốn sách thanh xuân bất diệt được khi có quá nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn đến nỗi con người không thể chịu được và đã có rất nhiều người tự tử trong đó.

Tôi nghĩ ý kiến đó là do người ấy đã nhìn những cái chết trong thế giới đó. Nhưng nếu nghĩ về Rừng Na-uy mà nhìn vào những con người có thể tiếp tục sống được, tồn tại được trong thế giới đó như Toru, như Midori… ta sẽ thấy lời nhận xét của báo Đọc sách Trung Hoa hoàn toàn đúng:

Rừng Na-uy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này qua thế hệ khác”

Hết.

Kodaki

Chiều Sài Gòn, 3.10

*

Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cuộc gặp của những dòng chảy

Published

on

By

Trong tập truyện Trôi, nhà văn Nguyễn Ngọc Tư đã kéo những số phận riêng lại gần với nhau, từ đó cho thấy con người dẫu có ở đâu, sống đời thế nào… cũng là một phần của dòng trôi nổi.

Vừa quen vừa lạ

Là tác giả nổi tiếng với các truyện ngắn, tiểu thuyết có bối cảnh miền Tây Nam Bộ, Nguyễn Ngọc Tư đến với người đọc bằng sự giản dị, chân phương hệt như tính cách người dân nơi đây. Tác phẩm của chị thường mang tâm trạng trầm buồn, khi mà số phận buộc những nhân vật - thường là phụ nữ phải trải qua nhiều biến cố có phần ngang trái.

Gồm 13 truyện ngắn, Trôi đánh dấu cho hành trình mới của Nguyễn Ngọc Tư khỏi vùng châu thổ mà chị quen thuộc. Cuốn sách lướt qua câu chuyện của rất nhiều người ở nhiều cảnh ngộ khác nhau, từ nông thôn đến thành thị, từ mặt đất đến trên không, từ hiện thực đến siêu thực... thoạt nhìn có vẻ phi lý, thế nhưng càng đào sâu thêm vào từng dòng chữ, ta đều sẽ thấy mọi thứ trong cuộc đời này đều được liên kết, tương tác với nhau.

Nhân vật của nữ nhà văn trong tập sách này không còn ở trong vùng đất Thổ Sầu đậm tính sông nước, mà đã chuyển sang những khu phố thị hoặc là vô danh. Việc bỏ lai lịch của các nhân vật cho ta thấy rằng Nguyễn Ngọc Tư đã dám mạnh mẽ bước ra “cái kén” từ trước đến nay, để nói về những câu chuyện và những số phận mang tính phổ quát, có thể xảy ra với bất cứ ai và không ngừng lại.

Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư

Sở hữu cách viết điềm tĩnh, thận trọng, Nguyễn Ngọc Tư cho thấy tài năng quan sát và khắc họa nó lên trên trang viết. Các truyện trong tuyển tập này không hề cường điệu hay có chủ đích tạo sự kịch tính, mà lại êm đềm như một dòng chảy. Các tình huống được tác giả hóa giải một cách hợp lý, có khi theo đúng logic cơ học, nhưng cũng đôi lúc ẩn sâu là những liên kết buộc các độc giả tự mình tìm cách giải đáp…

Hiểu theo một nghĩa nào đó, Trôi đưa người đọc đến sự thấu hiểu chính bản thân mình. Như cách các nhà triết học của chủ nghĩa khắc kỷ đã từng bảo rằng, bởi ta không thể kiểm soát những gì xảy đến với bản thân mình, nên hãy thay đổi góc nhìn để thấu hiểu nó. Tập truyện ngắn này hướng đến những thứ tích cực, để ta thấy đời vẫn còn những màu đẹp đẽ trong mỗi ngày qua.

Đó cũng đồng thời chính là chữ “duyên” vốn thường xuất hiện trong văn hóa phương Đông, để ta biết rằng cái gì cũng có lý do, và khi thay đổi được suy nghĩ đó, những điều trôi qua đều có giá trị. Chính bởi điều này mà cuốn tiểu thuyết cũng đến rất gần Hành lý hư vô, Hong tay khói lạnh… vốn dĩ là những tản văn cũng có thông điệp tương tự như thế mà nữ nhà văn đã cho ra mắt trong các năm qua.

“Trôi là tin mừng”

Trở lại sau tập truyện ngắn Cố định một đám mây và cuốn tiểu thuyết Biên sử nước, có thể thấy rằng những đặc trưng cũ vẫn còn hiện diện trong tác phẩm này. Đó là những cuộc gặp gỡ cũng như cơ duyên như từ trên trời rớt xuống. Trong dòng chảy của số phận ấy, tất cả nhân vật gắn bó với nhau theo một cung cách hết sức lạ kỳ, thế nhưng ẩn chứa đâu đó họ vẫn có một sợi dây liên hệ và không thoát được khỏi tầm ảnh hưởng của nhau.

Sự trôi của Nguyễn Ngọc Tư cũng đã hiện diện ở nhiều chi tiết. Nó có thể mang nghĩa vật lý – như lục bình trôi, như dòng đời trôi; nhưng cũng có khi vô cùng tượng hình – như sự dịch chuyển của vũ trụ này, trong tình cảm con người và mối nối gắn họ với chính cuộc sống. Tác giả như đã trả lời câu hỏi: tồn tại hay không tồn tại để ta hiểu rằng: “Những cái vé xe đò, tàu hỏa hoặc máy bay đều có mùi của nơi chốn mà chúng đưa con người ta tới”.


Trong đây có chàng trai trẻ thích nghìn người khác nằm ngủ, có người đàn ông mà cả đời mình không bước khỏi cửa, có người mà võng là thứ “vật bất ly thân”… Ngoài ra cũng có một cặp vợ chồng “thắp lửa giữa trời”, có cả những cuộc gặp gỡ gần như không tưởng, xoay quanh chỉ một món nợ mà người trong cuộc cũng không thể biết mình nợ thứ gì…

Những tưởng họ vốn bất động trong cuộc đời mình, những tưởng những hành động ấy gần như phi lý, xác suất xảy ra gần như bằng không… Thế nhưng ở một giao điểm nào đó của số phận, họ đã gặp nhau và cùng vẽ nên bức tranh đời người. Xét cho đến cùng, tất cả chúng ta đều đang trôi nổi trên một dòng chảy – dòng chảy cuộc đời – theo chiều không ngừng mở rộng của cả không gian cũng như thời gian.


Nhà văn Ba Lan đoạt giải Nobel Văn chương 2019 - Olga Tokarczuk mà Nguyễn Ngọc Tư cũng đã nhắc đến trong một truyện ngắn, đã từng viết rằng: “Năng lượng của tôi sinh ra từ chuyển động – từ rung chuyển của ô tô buýt, từ tiếng gầm của động cơ máy bay, từ sự chòng chành của phà và tàu hỏa”. Dù muốn dù không thì sự xê dịch luôn luôn ở đó, đòi hỏi con người cứ thế tiến lên, cũng như nhìn nhận một cách tích cực về những điều mà bản thân gặp phải.

Như một câu văn trong truyện cùng tên: “Chẳng có cuộc trôi nào là vô tình hết, bản thân sự nổi trôi là thông điệp, tín hiệu, thư mời của chân trời”. Qua tác phẩm này, người đọc bỗng chốc nhận ra mình thuộc về “xứ không đâu”, nơi người với người cùng nhau tương tác, mỗi một cá thể sẽ lại tác động lên ai đó khác. Từ đó kêu gọi một sự sẻ chia cũng như đồng cảm trong cuộc đời này.

Đọc bài viết

Cafe sáng