Phía sau trang sách

Rừng Na-uy: Những dạng thức cô đơn…

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp.

Published

on

Gửi người bạn thân nhất của tôi,

I once had a girl, or should I say, she once had me.
She showed me her room, isn’t it good, norwegian wood?

Khi tôi viết những dòng suy nghĩ này, trí nhớ của tôi về Rừng Na-uy không còn được rõ như lúc trước nữa. Không hẳn là nó phai nhạt dần, chỉ là với riêng tôi, hình như việc quá yêu nó khiến tôi không thể nào viết được cảm nhận về nó khi trí nhớ còn quá rõ ràng. Bởi vì như vậy, nó sẽ làm tôi đau, đau lắm…

Giờ đây, khi những câu chữ kia trói buộc tôi đang dần nơi lỏng, chính thứ giai điệu bàng bạc nỗi cô đơn của bài hát ấy mới là cái gợi tôi nhớ đến Rừng Na-uy. Nó đã cho tôi một cảm giác nhẹ nhàng nhưng vẫn cô đơn. Nỗi cô đơn có nhiều dạng thức. Có những nỗi cô đơn có thể giao hòa với nhau. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ được cảm thông và chia sẻ. Nhưng có những nỗi cô đơn như hai mặt phẳng trơ trọi trong không gian. Khi ấy, những con người cô đơn gặp nhau sẽ càng cô đơn hơn.

Những con người trong Rừng Na-uy đã gặp nhau, yêu nhau để rồi bất lực không đến được với nhau vì nỗi cô đơn trong mỗi người khác nhau. Có thể nói, Rừng Na-uy như cuốn từ điển sống về nỗi cô đơn mà ở đó Murakami Haruki đã giải nghĩa thật tinh tế, ngắn gọn mà đầy đủ…

…đó là cái chết của người bạn thân nhất và duy nhất

Câu chuyện bắt đầu được kể lại bằng dòng hồi tưởng về những sự kiện diễn ra cách đó khá lâu. Nó là những mảnh kí ức của Toru qua năm tháng. Vì vậy, nó không chỉ bàng bạc nỗi cô đơn tự thân vốn dĩ của những con người trong thế giới đó, mà còn chất chứa niềm nhớ thương không nguôi cho những gì đã qua đi, không thể trở lại.

…đó là tình yêu dành cho người yêu của người bạn thân ấy.

…đó là sự ra đi của người con gái ấy.

Trong mối quan hệ giữa ba người Toru – Kizuki – Naoko, Kizuki chính là người đóng vai trò trung tâm. Anh luôn biết cách điều khiển câu chuyện nhịp nhàng giữa ba người, không bỏ mặc ai, không để ai cảm thấy cô đơn. Anh luôn tìm được sự thú vị trong những câu chuyện tưởng chừng như nhàm chán nhất, khiến cho người kể câu chuyện ấy cũng cảm giác mình thật đặc biệt. Đó là một dạng tài năng mà không phải ai cũng có thể phát hiện. Nhưng Toru đã nhận ra được và cảm thấy thật uổng phí vì Kizuki không giao thiệp rộng. Anh băn khoăn tự hỏi một người bình thưởng chỉ thích đọc sách, nghe nhạc như mình tại sao lại được Kizuki để mắt.

Tôi nghĩ, có lẽ đó là lực hút của sự cô đơn. Trong câu chuyện ngày ấy giữa ba người theo cách kể của Toru, có vẻ như Kizuki là người bình ổn nhất, biết cách hòa nhịp với cuộc sống nhất. Điều đó diễn ra tự nhiên đến nỗi không ai lại nghĩ một người như thế có thể tự tử. Cái chết của Kizuki đã khiến Toru suy nghĩ rất nhiều về ngày hôm ấy…

Có lẽ trong ba người chính Kizuki mới là người cô đơn nhất. Anh cô đơn nhất vì phải che giấu nỗi cô đơn của mình để làm chỗ dựa tinh thần cho người khác. Nhưng điều đó không khiến cho Kizuki mạnh mẽ hơn mà chỉ khiến cho anh yếu đuối hơn. Những người quá cô đơn nhìn vào ai cũng biết được họ đang cô đơn như Toru thật ra vẫn còn một hạnh phúc: đó là họ sống thật với bản thân mình. Vì họ sống thật, và vì cái tôi của họ không được xã hội chấp nhận nên họ mới cô đơn. Nhưng ngay cả khi đã như thế, họ vẫn không thay đổi hay giả vờ thay đổi để được xã hội chấp nhận. Họ vẫn là chính họ. Vậy chẳng phải là mạnh mẽ hay sao?

Còn những người cô đơn mà giấu nỗi cô đơn của mình là vì họ sợ bị tổn thương khi cái tôi của mình không được chấp nhận. Khi làm như thế, không hẳn là vì họ muốn hòa nhập với xã hội hơn, chỉ là vì khi phơi bày nỗi cô đơn của mình ra, dù muốn dù không, ai cũng có chút cảm giác hi vọng sẽ tìm được người hiểu mình. Họ sợ cảm giác thất vọng vì cho đến cuối cùng vẫn chẳng ai hiểu mình. Nhưng có cần nhất thiết phải tìm được người hiểu mình không, khi mình vẫn có thể tìm được niềm vui bên cạnh những người rất yêu thương mình, dù họ không nắm bắt được cái cơ bản nhất trong tâm hồn của mình?

Có lẽ đó là cách suy nghĩ của những người mang nỗi cô đơn như thế, là cách suy nghĩ của Kizuki. Nếu quả thật như thế thì đáng buồn thật. Dù cho bên ngoài, anh là một con người như thế nào đi nữa, một khi anh đã không sống thật với chính bản thân mình, sẽ đến lúc nào đó anh cảm thấy như có thứ gì đó đang chết đi trong con người anh mà anh không hay biết. Cứ sống và cho đến một ngày nhận ra mình đã mất đi điều gì đó cốt lõi trong tâm hồn, mình không biết điều gì có ý nghĩa nữa, mình cảm nhận đã đến lúc cuộc đời mình mãn hạn… Kizuki đã sống, tồn tại và biến mất như thế.

Cách thức này, khiến tôi có cảm giác tương đồng với chị của Naoko. Chị tài giỏi, được nhiều người yêu mến, là một dạng người mà ai cũng nghĩ không có bất cứ nỗi buồn nào sâu sắc với xã hội, không có nỗi cô đơn. Vậy mà một ngày, tâm hồn vốn đã nhỏ bé của Naoko bị tổn thương khi phải chứng kiến cảnh chị mình treo cổ tự tử chết chính trong căn phòng của chị ấy. Nó đã để lại nhiều ám ảnh trong Naoko sau này.

Nỗi cô đơn của Naoko lại khác với nỗi cô đơn của Kizuki. Naoko không cố che giấu nỗi cô đơn của mình nhưng lại không biết cách để bộc lộ nó. Tôi hiểu được cảm giác này, cảm giác suy nghĩ nhiều đến nỗi mình không nắm bắt kịp mình đang nghĩ gì. Khi một câu chuyện chưa được hình thành rõ ràng trong tâm trí thì nó đã là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác, những câu chuyện khác lại là nhịp cầu nối để bắt đến những câu chuyện khác nữa… Phải chơi trò chơi rượt bắt với chính ý thức của mình thật là mệt mỏi, để rồi đa phần khi “ta” không bắt được “ta”, ta đau khổ. Những lúc đó, đối với tôi và có lẽ là với cả Naoko nữa, chỉ mong sao có được một hạnh phúc nhỏ nhoi: hiểu được chính bản thể của mình.

Hạnh phúc theo quan niệm của nhiều người, nếu được chia ra ở dạng cơ bản nhất thì có lẽ nó có hai dạng:

Khi người ta mơ ước, người ta thực hiện được ước mơ của mình, nói một cách khái quát là khi có được những điều bấy lâu nay mình không có và luôn mong muốn có thì người ta sẽ hạnh phúc.

Khi người ta mơ ước, người ta không thực hiện được ước mơ của mình. Đối với họ, điều đó cũng không đồng nghĩa với việc không có được hạnh phúc. Vì hạnh phúc không nằm trong những thứ ngoài kia, những thứ họ không nắm bắt được, mà nằm ở đây, ở chính những gì họ có. “Hạnh phúc xuất phát từ những điều đơn giản nhất và bình dị nhất”… có ai đã nói với tôi như thế.

Dù vậy, hạnh phúc mà tôi và Naoko mong muốn có, tôi chẳng biết xếp nó vào dạng nào. Bản thể của mình đương nhiên là thứ thuộc về mình nhưng như vậy cũng không đồng nghĩa với việc mình luôn có nó. Khi không nắm bắt được chính nó, mình chỉ còn nhận biết được nó có tồn tại đâu đó trong mình. Nó chỉ thuộc về mình thôi, không chắc là mình hoàn toàn có được nó. Cảm giác không hiểu được chính mình nghĩ gì, cần gì, muốn gì khiến người ta cảm thấy cô đơn, lạc lõng.

Sự lạc lõng của Naoko lại xuất phát từ việc thực sự không có con đường nào để chọn. Có thể trong một nơi nào đó của tiềm thức, Naoko có một con đường để đi nhưng cô lại không biết được. Mất Kizuki, Naoko không chỉ mất đi người mình vô cùng yêu mến mà còn mất đi khả năng để nhận thức chính bản thân mình. Tựa hồ giống như một người con gái đang bước đi trong bóng tối. Vì không có một chút ánh sáng nào, chung quanh là màu của hư vô, tịch mịch, cô cứ nghĩ mình đang bước đi trên một con đường vô định. Dù mình không muốn đi con đường này nhưng nó chỉ có một, hoàn toàn không có bất kì một ngã rẽ nào khác. Cho đến khi ánh sáng chợt bừng lên, cho dù chỉ là một nguồn sáng nho nhỏ, những con đường từ mọi nơi đang dần hiện ra… Điều đó khiến cô vui, cô đã nhìn thấy những con đường khác. Cô đã có thể chọn lựa. Thế nhưng vì đi một con đường quá lâu, khi chợt có nhiều ngã rẽ như thế, cô không biết phải chọn ngã nào. Bước đầu, có lại được chút ánh sáng trong cuộc sống của mình, cô quyết định chọn con đường của người đã mang lại ánh sáng đó cho cô.

Vậy mà Kizuki lại rời bỏ Naoko quá sớm, quá sớm để Naoko có thể tập nhận thức một cách rõ ràng hơn về bản thể của mình, tự chọn cho mình một lối đi, tự tạo ra ánh sáng của chính mình. Con đường ấy giờ lại như năm xưa, chìm trong bóng tối. Dù vậy, trong cái bóng tối triền miên không dứt của đời người, Naoko vẫn nhận ra được có những thứ đã mãi mãi mất đi. Nỗi cô đơn một khi đã cố gắng giao hòa với một nỗi cô đơn khác mà không thể được, cuối cùng khi trở về một mình, nó đã lớn hơn trước gấp nhiều lần. Từ người chị gái thân yêu của mình, cho đến người bạn trai mà mình yêu mến… kết quả chỉ có một, không thể nào thay đổi được sự thật đó. Khi không tìm được bản thể của mình, họ đã không thể tiếp tục tồn tại. Giờ đây, Naoko cũng đã bất lực và lựa chọn sự ra đi giống họ…

Trong xã hội Nhật Bản thời kì chuyển đổi quá mạnh mẽ ấy, thanh niên Nhật cô đơn, lạc lõng. Họ không biết phải làm gì với chính cuộc đời mình. Điều đó dễ khiến người ta tìm đến tự sát vì cuộc đời quá nhàm chán. Vậy phải làm gì để tồn tại được?

Trong thế giới của Rừng Na-uy, người tôi khâm phục nhất là Toru. Không phải vì anh là một người đặc biệt. Anh chỉ là một người bình thường như chính anh thú nhận. Nhưng anh đặc biệt nhất vì anh dám sống với chính bản thể của mình. Anh không hề che giấu việc mình là một người cô đơn, ít bạn, suốt ngày chỉ mải mê đọc sách. Anh cũng không cố giao tiếp với những người mình không hợp, cái mà xã hội gọi đó là xã giao. Anh cô đơn và anh dám sống với chính sự cô đơn của mình, không hề cố gắng để thay đổi vì đó chính là bản thể của anh. Đó có lẽ là điểm mà anh đã thu hút được Kizuki, Nagasawa và cả Naoko nữa. Họ thích anh vì họ không làm được như anh. Khi ở bên anh, họ cảm thấy bình yên vì anh là chính anh. Ở xã hội ngoài kia, có mấy người sống thật sự là chính mình? Không tính đến chuyện lừa dối nhau, vì nhiều lí do, có lẽ chúng ta chỉ đang “hơi” sống thật với chính bản thân mình. Sự thật một nửa, hay gần sự thật cũng đều không phải là sự thật. Sự thật chỉ là sự thật khi nó trọn vẹn là chính nó.

Toru đã sống thật. Midori đã sống thật. Hai người đã sống thật sự là chính mình nên khi họ yêu nhau, họ yêu chính con người của đối phương và được đối phương yêu lại chính con người của mình. Dù hai người đến với nhau đều riêng mang những nỗi cô đơn trong tâm hồn nhưng với một tình yêu như thế, dù hiện tại có mang một chút sắc u buồn, khi biết cùng nhìn về tương lai chắc chắn nó sẽ ánh lên màu của tươi sáng, màu của hi vọng.

Sau khi trải nghiệm thế giới của Rừng Na-uy, nhìn lại mình, tôi ngạc nhiên khi thấy trong từng giai đoạn biến đổi của cuộc đời mình, tôi nhận ra nỗi cô đơn mà mình đã từng và đang mang có một chút giống Kizuki, một chút giống Naoko, một chút giống Toru…

Tôi là một đứa bé khi mới sinh ra đã không hòa nhập được với xã hội vì nhiều lí do. Suốt những năm mẫu giáo, cấp một, cấp hai, tôi luôn cô đơn, không có một người bạn thật sự nào cả. Nhưng khi còn ở mẫu giáo hay cấp một, tôi chưa bao giờ một lần bất mãn với chính nỗi cô đơn của mình, chính bản thân mình. Vì khi đó, tôi được sống yên bình ngày qua ngày. Tôi biết là mọi người chỉ không quan tâm tôi, tôi không hề có cảm giác là mình đang bị xã hội chối bỏ.

Cho đến năm cấp hai, khi tôi không còn được sống yên bình trong thế giới nhỏ bé của mình, tôi bị mọi người cười nhạo, quấy rối, giẫm đạp lên chính bản thể của mình. Khi phải sống một cuộc sống địa ngục trần gian về mặt tinh thần như thế, tôi bắt đầu quay lại tự vấn và bất mãn với chính bản thân mình. Tại sao tôi lại phải mang cái tôi này để đổi lại cuộc sống như thế? Chính vì vậy, khi lên cấp ba, đến với một môi trường mới, có cơ hội để thay đổi mình, tôi đã chọn sự thay đổi. Lúc ấy, tôi đã gặp một người bạn nhìn tôi bằng ánh mắt khác với mọi người: bạn ấy chấp nhận tôi. Đó là người tôi vô cùng yêu mến. Lần đầu tiên, tôi cảm thấy thực sự muốn bước vào thế giới của một người nào đó. “…I feel my soul. Take me you way…”  

Cảm giác đó có lẽ như Naoko lúc mới gặp Kizuki. Nhưng nếu như thế giới của Naoko và Kizuki mang nhiều điểm tương đồng, khi ở bên cạnh Kizuki, Naoko cảm nhận được tâm hồn của mình nhiều hơn thì ở đây, thế giới của tôi và người bạn đó khác nhau quá xa. Phần nhiều là tôi học cách để đi vào con đường của bạn ấy nhiều hơn là cảm nhận chính tâm hồn của mình. Để làm được điều đó, tôi phải thay đổi.

Lúc trước, tôi cứ nghĩ đơn giản rằng mọi thứ đều có thể thay đổi được chỉ cần có cố gắng. Nhưng giờ đây, tôi mới nhận ra, đúng như Marc Levy đã từng viết: Có những thứ có thể thay đổi được nhưng cũng có những thứ không thể thay đổi được, con người đau khổ vì không phân biệt được cái nào có thể thay đổi, cái nào không thể thay đổi. Lúc đó, tôi cứ hăm hở thay đổi tất cả mọi thứ thuộc về bản thân tôi để được sống trong thế giới của người ấy. Tôi thay đổi một cách hoàn hảo đến mức chính bản thân tôi cũng bị lừa gạt bởi cái hình ảnh tôi tự tạo ra lúc đó. Bây giờ, khi nhìn lại, những thay đổi đó không phải là hoàn toàn vô ích với tôi hiện tại; nó vẫn còn để lại những ảnh hưởng tích cực. Nhưng đồng thời, tôi đã không nhận ra được rằng tôi cũng thay đổi luôn những thứ vốn không thể thay đổi, những thứ thuộc về chính bản thân tôi.

Lúc này, tôi lại đồng cảm với nỗi cô đơn của Kizuki. Nỗi cô đơn khi phải che giấu chính con người thật của mình, sống không được thật sự là chính mình. Dù trong tiềm thức tôi không nhận ra, nhưng đâu đó trong con người tôi, cơ chế hoạt động của não tôi phản kháng lại sự thay đổi cái quan yếu của bản thân tôi. Nó diễn ra chầm chậm, từ từ, tôi không thể nào nhận ra  được. Bắt đầu cuối năm cấp ba, tôi mỗi ngày một trầm tính hơn, mỗi ngày trở lại với bản thể ngày xưa của mình một chút.

Bây giờ, khi đã là một sinh viên năm hai, tôi hoàn toàn trở nên trầm lặng, trầm lặng hơn cả trước khi tôi cố gắng thay đổi. Tôi cô đơn, tôi có rất ít bạn, tôi mãi đắm chìm trong thế giới nghệ thuật. Bây giờ, nhiều lúc tôi không hiểu nổi chính bản thân mình đang nghĩ gì giống như Naoko vậy. Có lẽ đó là cái giá tôi phải trả cho tội lỗi của mình lúc trước: đã sống không thật với chính mình.

Bây giờ, nhiều lúc tôi sống thật với bản thân mình đến mức cực đoan: chỉ làm những điều mình muốn, chỉ nói những điều mình nghĩ, khiến cho không ít những người bạn lúc trước của tôi bất bình bảo rằng tôi chẳng khác gì trẻ con. Vì chỉ có trẻ con mới làm mọi thứ theo bản tính tự nhiên của nó mà không suy nghĩ đến xung quanh.

…và sống như trẻ con thì rất dễ bị đau, bị tổn thương. Dù vậy, tôi sẽ làm tất cả để được sống là chính mình, để nâng niu, yêu thương bản thể của mình – cái mà tôi đã một lần đánh mất, giờ vẫn đang tìm lại dẫu rằng có thể mãi mãi tôi không tìm lại được nó trọn vẹn.

Vì đối với tôi, con người sống không phải là để được hạnh phúc, để tuyệt đối khất trừ mọi khổ đau. Con người sống là để lựa chọn cái thích hợp cho mình. Một hạnh phúc thích hợp, một nỗi đau thích hợp, một bản thể thích hợp. Bây giờ, tôi đau… tôi vẫn đang đau nhưng tôi tin, tôi vẫn đang tin, tôi yêu, tôi vẫn đang yêu cuộc đời này. Vì vậy, tôi hoan nghênh nỗi đau này. Để được sống là chính mình, được thực hiện ước mơ của mình, được yêu nghệ thuật thì nỗi đau này có là gì đâu. Sẽ ổn cả thôi khi tôi vẫn được là chính mình dù có đau như thế nào…

Vì đó là cách duy nhất để tôi có thể tiếp tục tồn tại trong xã hội này, để được sống trong cuộc đời này. Đó cũng là cách mà Toru đã chọn để tồn tại trong thế giới đó. Nếu không làm như thế, có lẽ một ngày nào đó tôi sẽ không thể tiếp tục tồn tại và rồi sớm biến mất khỏi cuộc đời như Kizuki, Naoko…

Người yếu đuối nhất không phải là người cho người khác thấy sự yếu đuối của mình mà là những người đang cố che giấu đi sự yếu đuối đó. Làm sao có thể gọi những người ta thấy yếu đuối là yếu đuối khi họ đã dám sống thật với chính bản thân mình?

Ít nhất, đó là bài học mà tôi đã học được một cách rõ ràng trong một thế giới có quá nhiều điều mơ hồ, khó có thể dùng lời diễn tả rõ ràng như Rừng Na-uy.

Tôi đã đọc ở đâu đó một bình luận về Rừng Na-uy đại ý như thế này: làm sao có thể gọi Rừng Na-uy là cuốn sách thanh xuân bất diệt được khi có quá nhiều nỗi buồn, nỗi cô đơn đến nỗi con người không thể chịu được và đã có rất nhiều người tự tử trong đó.

Tôi nghĩ ý kiến đó là do người ấy đã nhìn những cái chết trong thế giới đó. Nhưng nếu nghĩ về Rừng Na-uy mà nhìn vào những con người có thể tiếp tục sống được, tồn tại được trong thế giới đó như Toru, như Midori… ta sẽ thấy lời nhận xét của báo Đọc sách Trung Hoa hoàn toàn đúng:

Rừng Na-uy sẽ là cuốn sách thanh xuân bất diệt, bầu bạn với hết thế hệ này qua thế hệ khác”

Hết.

Kodaki

Chiều Sài Gòn, 3.10

*

Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng