Phía sau trang sách

Rừng Na Uy, một bản nhạc thăng trầm của sự sống, tình yêu, và cái chết…

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Published

on

Đêm bắt đầu xuống, gió cuộn mình réo rắt từng cơn và trận mưa âm ỉ trôi trong làn sương mờ ảo. Tôi trở về phòng sau một cuộc gặp gỡ với những hỉ nộ ái ố thường ngày. Qua ô cửa kính nhỏ đầy những giọt nước mưa bám víu, tôi trông ra đằng xa, nơi có những ngọn đèn đường hiu hắt, nơi có màn đêm tĩnh lặng và có tiếng thở rất khẽ của cao nguyên. Tôi thấy mình đang trống hoắc trong lòng, và tự dưng, bất chợt, trong một khoảnh khắc nào đó, tôi lại nghĩ về Rừng Na Uy, một bản nhạc đầy thăng trầm về sự sống, tình yêu, và cái chết – qua cách kể chuyện đầy trần trụi nhưng lại vô cùng thực tế của Haruki Murakami. Dường như đã có một sợi dây vô hình nào đó – liên kết tôi với cuốn sách này, hoặc chăng, là chính tôi đang tự cảm nhận được một sự liên kết đồng điệu trong tâm hồn mình, nhân một đêm mưa đầy khắc khoải…

Tiếng mưa tan vào gió. Tôi nghĩ về cuộc đời, nghĩ về những người đã xuất hiện trong cuộc đời này, một cách âm thầm và lặng lẽ. Về những tháng ngày rong ruổi nối đuôi nhau trên hành trình làm con người ngắn ngủi, chao ôi, có quá nhiều những vẩn vơ khiến chúng ta suy nghĩ trong đầu, phải vậy không? Mỗi sáng thức dậy là một chặng đường mới, mỗi tối nhắm mắt là một trạm dừng chân, cứ như thế, cuộc đời trải dài ngày này qua tháng nọ, tôi cứ nghĩ rằng mình sẽ không thể nào sống được với một cuộc sống vô vị và tẻ nhạt như vậy. Ấy vậy mà tôi vẫn phải sống. Ấy vậy mà những kẻ cô đơn tột cùng kia vẫn phải sống. Giống tôi vậy.

À, hóa ra, tất cả mọi người đều như nhau. Những kẻ cô đơn thích gặm nhắm nỗi buồn? Như Watanabe, như Naoko, như Midori, Reiko hay cả những con người đang trằn trọc sống như một kẻ ôm nỗi buồn bỏ trốn.

Nỗi buồn là gì? Là một thứ gì đó mà người ta vẫn cho rằng nó ghê gớm lắm. Mà có thật là ghê gớm vậy không. Cũng không biết nữa. Vì nỗi buồn của người này chưa chắc đã là nỗi buồn của người khác. Trên đời này có hàng trăm, hàng vạn nỗi buồn khác nhau, và mỗi người lại có một ý niệm riêng biệt. Vậy thì, thôi mình tạm kết luận rằng nỗi buồn là một điều dĩ nhiên của cuộc sống vậy. Một điều dĩ nhiên mà chưa chắc ai cũng muốn có.

Có lẽ như, dù muốn dù không thì tất cả những nhân vật trong Rừng Na Uy vẫn phải sống và đối diện với nỗi buồn của mình, một cách khảng khái hoặc khiêm nhường. Suốt cả chặng đường dài tồn tại và hiện hữu trên đời, họ đã có quá nhiều những điều để làm, những thứ để chờ đợi, những con đường phải đi. Họ suy nghĩ. Họ hành động. Họ bỏ mặc. Họ bế tắc. Họ khát khao hay họ tuyệt vọng. Tất cả đều là sự sống của riêng họ. Sự sống mà họ tự chọn lấy để gắn mác là mình đang-phải-sống, một cách lay lắt và gượng gạo. Chính những sự sống không lối thoát ấy đã làm cho cái vòng tròn của nỗi cô đơn, nỗi cự tuyệt, nỗi từ chối niềm vui cứ liên tục tuần hoàn và quẩn quanh dai dẳng như thế. Và dường như, với họ, chỉ cần như vậy thôi là đủ? Một sự sống trống rỗng, hay chăng, là do tâm hồn họ đang trống rỗng bởi những khổ đau âm ỉ lấp đầy. Có lẽ là thế rồi. Vì khi khổ đau, đâu phải ai cũng đủ mạnh mẽ để chọn lấy một cuộc sống tươi đẹp hơn. Để làm được như thế, có khi ta phải đánh đổi một đời. À, vậy là tôi đã hiểu rồi. Chẳng phải họ đang chọn một cách sống như vậy đâu, mà là do đau khổ, do nỗi buồn, nỗi cô đơn trong lòng họ. Thôi thì mình cứ tạm thời cho là như thế.

Chẳng hiểu làm sao mà khi những trang cuối cùng của cuốn sách khép lại, tôi đã mặc nhiên để nỗi buồn ghé thăm mình, như một cách để mình được sống với thế giới của những trang sách. Vì với tôi, cuốn sách này là một nỗi buồn mà. Một nỗi buồn thật đẹp. Nỗi buồn ấy đến từ những niềm phảng phất xa xăm, mơ hồ và không rõ hình thù, tất nhiên rằng cũng chẳng thể gọi tên. Nỗi buồn đọng lại thành giọt nước, thành đám mây, thành bầu trời, và thành sự sống. Nỗi buồn chạm sâu vào trái tim của tôi, gửi lại đó bao nhiêu là miên man suy nghĩ, và lắm lúc, ôi trời, bỗng thấy lòng hoang hoải làm sao. Tôi tự hỏi chính tôi, và tự hỏi những con người đã được sống trong trang sách này, rằng có phải họ đã buồn lắm không? Những câu chuyện của họ, những thăng trầm của họ, những biến cố của họ… chẳng hiểu sao mà lại cứ hiện lên thật rõ trong tôi sự đau khổ lạ kì – dẫu trong những niềm đau khổ ấy, họ vẫn sống kiên cường đến lạ thường.

Chắc vì họ có tình yêu…

Tình yêu là gì nhỉ? Tôi đã từng nghe nhiều người nói lắm, rằng tình yêu là một thứ diệu kì. Nó không phải là một ý niệm. Nó thật sự là một điều để mỗi người trong chúng ta cảm nhận, bằng-trái-tim. Tình yêu sẽ làm sống dậy những chân thành tử tế trong trái tim tưởng chừng như đã cằn cỗi héo mòn. Tình yêu sẽ để ngủ yên những khôn nguôi đau khổ của cuộc đời. Và tình yêu, cứ thế, sẽ mãnh liệt gieo đầy những khao khát niềm tin và chứa chan hy vọng.

Watanabe có yêu Naoko không? Có chứ. Vì phải yêu nên cậu ta mới chân thành như thế. Chân thành nhớ, chân thành thương, chân thành hi vọng và chân thành chờ đợi. Vậy còn Naoko thì sao? Có phải cô đến với Watanabe chỉ để khỏa lấp đi những trống trải trong lòng, sau cái chết của Kizuki. Và dẫu cho đã bắt đầu làm tình với Watanabe, Naoko vẫn nghĩ về người bạn trai quá cố, và nghĩ về những mất mát lớn lao trong lòng? Nhưng nếu như thật lòng yêu Naoko, cớ làm sao Watanabe lại có nhiều lần cùng với Nagasawa đi ra ngoài gặp gỡ và qua đêm với những cô gái khác? Lẽ nào tình yêu thì không cần trân trọng? Lẽ nào tình yêu thì không cần gìn giữ? Ơ, mà khoan đã. Ta đã hiểu được gì về mối quan hệ giữa Watanabe và Naoko đâu. Cả về hai phía, có lẽ, chúng ta sẽ chẳng thể nào dùng một từ ngữ nào để nói về mối quan hệ này. Vì nó cứ mơ hồ. Vì nó cứ mập mờ. Vì nó cứ mông lung và mờ ảo như một đám mây bị nhấn chìm giữa ngọn núi khi mặt trời đã thảng thốt hoàng hôn. Đó có thể không phải là tình yêu? Đó phải chăng chỉ là sự cảm thông và tương đồng về mặt cảm xúc, về mặt tâm hồn, về mặt suy nghĩ và ưu tư vẫn từng ngày vật lộn và dằn vặt trong trái tim của hai kẻ cực kì cô đơn này? Cũng không biết nữa. Rừng Na Uy vốn dĩ không phải là một tác phẩm để hiểu, mà là để hỏi. Hỏi cho những ngẫm nghĩ trong lòng.

Vì chúng ta chỉ là một chiếc lá bé nhỏ.

Mà cuộc đời thì là cả cánh rừng, ha!

Nói về sự cô đơn trong tình yêu, tôi lại muốn nói về Nagasawa. Chao ôi, cũng không biết phải làm sao để có thể hiểu hết được suy nghĩ của gã trai vô cùng phức tạp này. Gã phóng khoáng? Gã đa tình? Gã đào hoa hay rằng gã là một kẻ thật sự thất bại trong tình yêu? Gã đã từng ngủ với rất nhiều cô gái, và tất nhiên, đó chỉ là cái cách để mà gã bỡn cợt và vui chơi. Chẳng có bất kì cô gái nào có thể khiến gã rung động – theo đúng nghĩa là tình yêu thật sự. Những gì gã làm, những gì gã trải qua… tất cả chỉ là tình dục. Một sự tình dục vớ vẩn mà ngay chính bản thân gã cũng chẳng hiểu nổi là tại sao mình lại làm thế. Sau mỗi lần gã ngủ với một cô gái nào đó, gã có cảm thấy trống rỗng và vô vị không? Có chứ. Gã hiểu là đằng khắc. Nhưng gã vẫn cứ làm. Cứ làm vậy thôi, chẳng vì lí do gì. Và dẫu cho gã có nói yêu Hatsumi đến hàng trăm lần, thì chắc gì gã đã một lần trân trọng và quan tâm đến cảm xúc của cô. Khi nghĩ về Hatsumi, tôi lại thấy cảm thương cô rất nhiều. Cô yêu gã thật. Cô thấu hiểu bản chất của gã thật. Cô chấp nhận trao cho gã trinh tiết của mình, dẫu biết gã đã và đang ngủ với rất nhiều những cô gái khác. Có thể nhiều người sẽ nói là cô quá ngu ngốc, nhưng tôi lại tin cô, và tôi hiểu lí do vì sao cô lại chấp nhận hết những điều như thế, dẫu cho cô chẳng nhận lại được gì ngoài đau thương, ngoài khổ tâm, và những giọt nước mắt của chia ly. Vì như đã nói, đó là tình yêu. Tôi tin rằng đó là một tình yêu thật sự!

Lại về Midori, lại về Reiko. Ôi những người phụ nữ mạnh mẽ nhưng đôi lúc lại vô cùng kì quặc trong cái nhìn của tôi. Họ là những người đã sống trong tình yêu và đã trải qua những tháng ngày được yêu, dẫu không phải tình yêu nào cũng trọn vẹn. Midori, cô ấy yêu Watanabe, hoặc chăng là cô ấy đang khao khát một tình yêu đúng nghĩa vì cô quá bất mãn và không còn cảm thấy hứng thú với người bạn trai của mình nữa, kể từ khi được gặp và tiếp xúc với Watanabe – cậu bạn cùng lớp thân thiết của mình. Cô ấy dám sống đúng với những suy nghĩ của mình, dẫu nó trần trụi, dẫu nó táo bạo. À, mà những điều đó có nghĩa lí gì đâu, vì cô ấy cũng chẳng thèm quan tâm. Miễn là cô ấy muốn, miễn là cô ấy thích. Cái cách sống và cách yêu của Midori là thế. Còn về Reiko – một người phụ nữ đã ngoài bốn mươi. Một người phụ nữ đã từng có gia đình, vậy mà sau những biến cố và năm tháng tưởng chừng như đã không còn quan tâm đến tình dục, thì phút cuối cùng, cô ấy lại ngỏ lời làm tình với Watanabe – gã đàn ông nhỏ hơn cô đến gần hai mươi tuổi. Tôi không hiểu vì sao Reiko lại chọn như thế, chắc là do tôi chưa từng trải nhiều, và cũng chưa từng nằm ở trong vị trí của Reiko. Tôi chỉ hiểu, tình yêu là một thứ gì đó lạ kì và khó hiểu vô cùng. Nó có cả tình dục. Thứ tình dục mà con người cho đó là điều thiêng liêng và đẹp đẽ nhất. Họ rạo rực và xốn xang. Họ làm tất cả mọi thứ để lao vào nhau. Và rồi, vậy là xong, tình dục cũng chỉ là một sự trống rỗng trong thân xác của những kẻ không tình yêu.

Khi viết đến những dòng chữ này, tôi chợt nhận ra rằng, hầu như những nhân vật tiêu biểu xuất hiện trong Rừng Na Uy đều gắn liền với tình yêu và tình dục. Những phân đoạn tả thực của Haruki Murakami đã làm cho sự trần trụi và nguyên thủy của con người được phơi bày một cách lõa thể, đơn sơ và chân thật nhất. Tôi không biết đó có phải là ý đồ của chính bản thân tác giả không. Nhưng dường như đây là một tác phẩm đã cho tôi thấy được hai thứ của con người: bản năng và lí trí – hai thứ những tưởng là của mình nhưng chẳng bao giờ mình hiểu rõ được nó, vì mình đã bị đánh lừa rất nhiều lần bởi cái tâm ô nhiễm ở bên trong.

Rồi cả sự sống, rồi cả tình yêu, và đã đến lúc chúng ta nên can đảm để nói về cái chết – những cái chết trong đời. Cũng như tình dục, cái chết ở Rừng Na Uy cứ hiện lên đầy ám ảnh và dai dẳng. Nó không hề rùng rợn và ghê sợ. Nó chỉ lạ kì. Nó chỉ bất lực. Nó chỉ bế tắc. Và nó cũng chỉ luẩn quẩn như vậy, và người ta gọi là đã xong một kiếp người. Cái chết của Kizuki, cái chết của chị gái Naoko, cái chết của bố Midori, cái chết của Hatsumi, và sau cùng là cái chết của chính Naoko. Những cái chết mà người ta đã không còn sự lựa chọn nào khác, người ta đã chọn nó, một cái chết đầy tuyệt vọng và mỏi mệt. Có phải rằng họ đã quá khổ đau, có phải rằng họ đã nhiều áp lực, có phải rằng họ đã không còn niềm tin và hi vọng gì nữa để bám víu trong cuộc đời này. Họ chọn cái chết, mà lạ làm sao, những cái chết của họ như lại được chắp vá bởi những đường chỉ bạc bẽo và vô tình. Những cái chết ấy đều giống nhau, nhưng nỗi đau của mỗi người là khác. Liệu rằng ở một thế giới nào đó, họ sẽ không còn đau khổ với nỗi đau của mình?

“Cái chết là có thực, nó không phải là đối nghịch của cuộc sống. Nó là một phần của cuộc sống.” Cái chết vẫn hiện hữu và tồn tại bên cạnh ta, xung quanh ta, trước mắt ta, và cả ở trong ta, từng phút, từng giây, từng khoảnh khắc và từng sát na. Ta vẫn sống, và cứ tưởng là sự sống lâu dài lắm, mà ta đâu biết, thứ song hành cùng với sự sống chính là cái chết. Ta được sinh ra cũng có nghĩa là ta đang chết đi. Một hơi thở đi vào cũng có nghĩa là sẽ có một hơi thở đi ra. Một thứ được hiện hữu cũng sẽ có một thứ phải biến mất. Mà những điều ấy, chẳng đâu xa, vẫn là cứ ở trong ta, mà ta thì không biết, vậy thôi.

Cái chết, tôi vẫn luôn xem nó là một đề mục quan trọng để hướng tới trong cuộc sống của mình. Nói tới đây, có lẽ nhiều người sẽ nghĩ rằng tôi đang bị tiêu cực hoặc đang tự tích lũy năng lượng xấu cho mình, và cho người. Nhưng không, với tôi, hướng tới cái chết chính là hướng tới một hành trình mà tôi đang được sống – một hành trình có những nguồn năng lượng tích cực, những điều tốt đẹp, những thứ hay ho, mà ở nơi đó, tôi sống tốt hơn, tôi biết trân trọng và biết ơn chính sự sống của mình. Vì tôi hiểu rằng mình sẽ chẳng thể nào tránh khỏi được cái chết, nên tôi phải trân quý những ngày mình được sống. Cái chết chỉ thật sự là một điều tiêu cực nếu như ta nhìn nhận nó bằng một thái độ tiêu cực, phải vậy không? Vậy nên, thật sự, tôi cũng mong rằng tất cả chúng ta đều sẽ chẳng ai phải đau khổ đến mức chọn lấy những cái chết đầy thương tiếc như những nhân vật trong Rừng Na Uy. Tôi mong cho những khôn nguôi đau khổ sẽ nằm lại thật sâu trong quá khứ, vì chẳng phải điều duy nhất mà chúng ta nên làm – và phải làm, đó là sống trong hiện tại đó sao!

Hình như có một bản nhạc vang lên, lặng thầm và ngây ngất giữa một khu rừng đầy những nỗi cô đơn. Là sự sống. Là tình yêu. Là cái chết..

Rồi bản nhạc kết thúc, tựa hồ tiếng guitar của Reiko nín bặt giữa màn đêm. Tôi lại trở về thôi.

Hãy cứ ngủ yên đi nhé những khổ đau này. Vì ta phải thức để sống với niềm vui…

Như thế, Rừng Na Uy kết thúc, lắng lại trong tôi chỉ một vài nghĩ ngợi vẩn vơ ấy. Gió vẫn ù bên tai lạnh buốt. Mưa vẫn rơi. Đêm vẫn thở. Và chúng ta sẽ phải tiếp tục sống với cuộc đời của mình – một cách thật ý nghĩa…

Hết.

Lâm Lâm

Xem tất cả những bài viết của Lâm Lâm tại đây.


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng