Phía sau trang sách

Về Huế: Mải mê với Huế bằng một tấm lòng trân trọng

Published

on

Có ai đó đã từng nói rằng: “Cuộc đời con người là những hành trình”, có những người sẽ muốn đi đến những nơi thật xa để tìm kiếm và khám phá những vùng đất mới, cũng có những người lại muốn đi thật sâu, tìm và hiểu rõ nơi mình sinh ra và lớn lên.

Chúng ta tìm kiếm những vẻ đẹp tiềm ẩn mà không phải ai sống ở đó cũng dễ dàng nhìn ra; tôi sợ đến cuối đời, khi bản thân đã có tuổi hay không còn đủ sức đi trên đôi chân của mình rồi giật mình nhận ra mình chẳng hiểu gì, biết gì về vùng đất được sinh ra và lớn lên – đất Huế cả. Giữa đợt Covid thứ tư, mọi người hạn chế ra khỏi nhà, có lẽ đọc sách là cách hiệu quả nhất để chúng ta bước lên những chuyến xe du lịch, có thể trở về quá khứ, tìm kiếm những thứ thú vị ở hiện tại, thả hồn mơ mộng cho tương lai…

Tại sao lại là “về Huế?”

Người dân Việt Nam lớn lên cùng những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa bà và mẹ thường hay kể, nên dường như con người, món ăn, tình cảm, tình yêu cũng có phần đượm màu cổ tích. Trong khu rừng thần thoại của những câu chuyện kể, Huế nhỏ bé, xinh xinh và tinh tế như chiếc hài của cô Tấm.

Tôi sinh ra và lớn lên ở Huế, cũng ở mảnh đất Hương Trà – quê hương tác giả Trần Kiêm Đoàn. Đọc Về Huế, tôi thấy Huế thân thuộc như tác giả nói hộ nỗi lòng, giãi bày cảm nhận của mình vậy. Một giọng kể tâm tình của người con xa quê ngày trở về, mười năm trở lại một lần, gặp lại mẹ già, gặp lại Huế thân thương. Rồi tự hỏi, mỗi lần nghĩ đến Huế, chẳng biết con người đang về với Huế hay chính Huế đang từ từ tiến đến ôm người vào lòng. Ai nghĩ đến Huế, ai nhớ nhung ai đâu còn quan trọng nữa, bởi Huế và người đã được gặp lại nhau.

Về Huế là chiếc bánh nhỏ gói cả tâm can, nỗi lòng, sự mộc mạc và quý tộc cùng sự linh thiêng của vùng đất Thần Kinh. Ai đã ở Huế rồi, xa Huế mới thấu, cái sự nhớ nhung ngàn năm khắc khoải, như bóng cây phượng buồn dựa bên sông mà hát mãi câu Nam bằng. Những con người gắn bó vài năm với Huế đã đành, khách du lịch một lần ghé Huế cũng vậy, còn đến như kẻ ly hương ngày trở về thì mừng mừng, tủi tủi, mà nước mắt cứ ứa ra chẳng biết vì răng. Vì răng rứa?

Huế vừa là quê mẹ để nhớ, để về, vừa là chiếc nôi tình cảm trong suốt một đời người. Khi nhiều lần cố quên Huế thì mảnh đất ấy lại hiện hữu dịu dàng một tình mẫu tử đơn phương, rồi có lúc lại bâng khuâng như người tình cũ cười nhẹ nhớ thời dĩ vãng. Nhưng cũng lạ rằng, khi nhớ Huế, Huế lại mơ hồ cái bóng dáng mờ nhân ảnh rất thơ, để rồi mất hút xa xăm lúc nào chẳng hay. Tưởng gần mà xa, tưởng xa mà vẫn ở đâu đó trong tim. Tưởng yêu thương hững hờ mà lại chất nặng tình trên vai.

Tôi tự hỏi, tại sao lại là “Về Huế?” “Dù tôi có vô tận Sài Gòn thì cũng là Ra Huế. Có ra Hà Nội thì rồi cũng Huế. Có về làng với mẹ thì cũng là Qua Huế. Và, có xuống tận Thuận An thì cũng sẽ là Lên Huế mà thôi. Còn với người khách phương xa viễn xứ thì cũng Tới Huế là cùng”. Chúng ta bắt gặp về quê, về nhà, có lẽ vì vậy mà có Về Huế. Về Huế, về với quê hương, về với những bến bờ xưa cũ, với nơi “chôn nhau cắt rốn” dẫu phong ba có lớn, bão tố có mạnh, thì vẫn còn có Huế, có nhà, có mẹ. Chẳng phải đứa con nào cũng thế ư?

Về Huế – một thoáng kí ức ngày xưa

“Huế mà không thơ là thờ ơ với Huế”. Mỗi người sẽ có những cách cảm khác nhau về nét thơ và hồn thơ của Huế, có thể qua thành quách rêu phong, đền đài cổ kính, hay qua cách trang trí, trình bày những món ăn, có khi lại là con người nơi đây, và có khi là cả những điệu hò, câu hát say mê lòng người.

“Trở lại Huế yêu lần theo ân tình câu hát…
Tìm người con gái áo tím mộng mơ.
Sông Hương tấp nập tìm răng được chừ,
Không nguôi kỷ niệm vòng tay học trò”

Huế dịu dàng, Huế trầm tư, Huế cũng thướt tha với tà áo trắng thoáng nhịp Trường Tiền, chiếc nón bài thơ và dòng Hương Giang lững lờ.

Áo trắng ngày xưa thuở tìm em mà không thấy
Mênh mang mấy nhịp Tràng Tiền nắng lên
Nắng lên từ phía nón em nghiêng qua cầu”.

Sự e ấp, nét duyên của người con gái xứ Huế là một góc khuất người đời ưa khám phá. Trong tiếng “dạ”, tiếng “thưa” và nét duyên như điệu nước dòng Hương, “nước trong, sóng lặng mới soi được bóng con đò”. Rồi cả mối tình với nàng thơ “Thuở tiên Đồng Khánh”, tình yêu chín hườm thuở học trò mùa xuân tuổi mười sáu, “Cô bé nhà dối diện, với mái tóc đen dài, dáng thanh…”. Tình yêu đẹp và buồn như thơ, để sự dang dở ngày gặp lại vươn nét buồn nơi cõi tạm trần ai.

Tôi đã sững sờ và im lặng hồi lâu trong khoảnh khắc tác giả gặp lại “nàng Tiên Đồng Khánh”, nhưng cũng buồn thay, trong một thoáng bất chợt gặp lại quá khứ, chẳng còn là tâm hồn Quốc Học, Đồng Khánh ngày nào, giờ đây những mái đầu muối tiêu nhuộm phai màu phôi pha, con người và thân phận đã có một sự ly phân. Một người sinh ra để làm “một thuở Tiên Đồng Khánh”, một người là mụ Bé bán bánh lá, cái chết, sự tái sinh không biết phải đặt ở đâu trong kiếp luân hồi. Tuổi già nhắc chuyện ngày xưa như muốn mình trẻ lại, lấy hồn nhiên đối mặt với vô thường. Rồi cũng một kiếp người, kỉ niệm cũng chỉ là kỉ niệm.

Ẩm thực Huế – chẳng chốn nào bằng

Nhắc đến Huế mà thiếu đi ẩm thực Huế quả là một thiếu sót lớn không gì bù đắp được. Cái ăn ở Huế thường nổi danh từ những vô danh. Những gánh hàng nhỏ, tạm bợ với tên người bán như bún bò Mụ Rớt, cơm hến Mụ Bòng, bánh chưng Mệ Tóc Bạc… Ngày nay những “Mụ”, “Mệ” được kế thừa bằng thế hệ trẻ hơn nhưng những cái tên ấy đã tạo nên thương hiệu rất Huế.

“Thiên nhiên đã tác dụng một cách kì bí” để tạo nên đủ các loại mắm, không chỉ từ thủy sản mà còn cả nông sản và thổ sản, những thứ mắm “ngon quá trời độ”. Mùa nào mắm đó, từ mắm bình dân đến mắm quý tộc. Vào những ngày mưa, ăn cơm với mắm thì ngon không gì ta nổi, với đủ các cung bậc cảm xúc tả vị ngon, “ngon ngậm mà nghe”, “ngon nhức răng”, “ngon đáo để”, “ngọn dễ sợ” … Đâu chỉ mỗi mắm, Huế còn có Chè Huế với đủ loại, chè từ các loại hạt, chè từ tinh bột các loại củ và cả những thứ chè lạ, độc đáo “chè bột lọc heo quay”, quý tộc nhất là chè sen hồ Tịnh bọc nhãn lồng Thành Nội. Rồi bún bò Huế, cả một biểu hiện văn hóa Huế trong truyền thống nấu ăn “khi cho bò nổi heo chìm, lẫn lộn trong hai tính mâu thuẫn “bò nấu thì teo, heo nấu thì nở’”. “Dân Huế và những người Huế xa quê, có tô cơm hến nằm ở một góc nào đó trong mớ hành trang kí ức”. Cả cơm Hến và cơm Âm Phủ những món ăn bình dị nhưng gói gọn tinh hoa của đất trời.

Có một đặc trưng của những món ăn ở Huế rằng, các món ăn, từ chè, cơm hến, bún hến hay bún bò, đến các loại bánh: bèo, nậm, lọc… tất cả đều be bé, xinh xinh. Ăn để thưởng thức cái hương, cái hoa là chính chứ chẳng phải ăn no, ăn ngán. Cách trang trí cung đình, lối sống cung đình vẫn còn tàn dư trong ẩm thực. Vậy đấy, đôi khi, trong ẩm thực gói ghém nhiều thứ, ẩm thực cũng là một nét văn hóa.

Huế riêng

Có nhiều cái riêng ở Huế không lẫn vào đâu được. Huế với những người lần đầu ghé đến sẽ phải ngạc nhiên vì thành phố này sao mà buổi tối buồn đến vậy. Chẳng dễ dàng tìm chốn chơi vào buổi tối, đêm ở Huế chưa khuya mà đường đã vắng hoe, chỉ còn đèn vàng, cây lá và vài chiếc xe chạy đường dài. Ở bờ Bắc1 cây cối um tùm nhìn còn buồn hơn bờ Nam nữa.

Có những vạt nắng riêng trong đời, có những cơn mưa riêng trên trời. Mưa Huế vừa là sự đối xử khắc nghiệt, lại như một đặc sản riêng chẳng nơi nào có được. Vào mùa mưa thực sự, những cơn mưa ở Huế kéo dài nhiều ngày, nhiều tuần, có khi non tháng, đi cùng với cái lạnh tê buốt của mưa dầm gió bấc. Trong những cơn mưa chứa cả kho tàng kỉ niệm cũng ngả màu rêu phong vì những cơn mưa Huế. “Nghe mưa lâm thâm chảy dầm trên má lẫn với giòng nước ấm làm mặn môi mình”. Rồi mưa dầm dề, tụi nhỏ lại có thú vui không hẹn trước… ngày lũ.

Trong bút kí Ai đã đặt tên cho dòng sông của Hoàng Phủ Ngọc Tường, người ta thấy dáng dấp và điệu chảy của sông Hương, điệu chảy của dòng sông phần nào ảnh hưởng đến tính cách và lối sống con người Huế. Dòng sông Hương cũng như đời người, chia thành nhiều khúc. Thượng nguồn là tuổi trẻ, khúc Thiên Mụ, Kim Long là trung niên, khúc Đông Ba, Gia Hội là giai đoạn trưởng thành. “Từ đó sông Hương rẽ về hai ngả: ngả Đò Cồn, Vỹ Dạ mang dáng dấp trầm tư của con quan về vườn quy ẩn. Ngả Bao Vinh, Ba Sình giống như tuổi sắp già bon chen, nhưng vẫn còn duyên nợ với cuộc đời…”. Và cuối đời, cũng như những con sông, mọi con sông đều đổ ra biển cả. Luôn có một chút gì đó trang đài, khoan thai, nhẹ nhàng trong cách sống đó.

Kết.

Giữa cuộc đời trần ai tân khổ này, mỗi người, mỗi sự vật trong cuộc sống quanh ta có thể sẽ rất quý giá nếu được ta cảm nhận giá trị quý giá ấy. Một tác phẩm nghệ thuật có thể không có giá trị với người không thưởng thức hay với người hững hờ với nó. Những ai quan tâm, dành cho Huế một chút tình, muốn “gặp” Huế một lần chắc hẳn không thể bỏ qua “VỀ HUẾ” của Trần Kiêm Đoàn, câu chuyện và góc nhìn của một người con xứ Huế ở viễn phương, một màu sắc rất Huế, một giọng văn mộc mạc, một tấm lòng trân trọng với Huế thương yêu.

Hết.

Chú thích:

  1. Bờ Bắc, Bờ Nam là cách phân chia của người Huế tính từ vị trí dòng Hương.

Hoàng Anh

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng