Chuyện người cầm bút

Những giai thoại lý thú về nhà văn lắm tài nhiều tật Ernest Hemingway

Về chuyện nhậu nhẹt, ẩu đả, hôn nhân và những chuyện riêng tư khác của một trong những văn hào vĩ đại nhất nước Mỹ.

Published

on

Những nhà văn nổi tiếng thường được bao vây bằng hào quang của sự thành công. Người ta ngưỡng mộ tài năng của nhà văn nên quên rằng họ cũng chỉ là người, đầy tật xấu. Một trong những nhà văn nhiều tài lắm tật là Ernest Hemingway (1899-1961). Sau đây là những giai thoại về Hemingway mà tôi đã trích đoạn, tóm tắt và phỏng dịch từ tác phẩm Writers Gone Wild (tạm dịch Nhà văn đại náo) do Bill Peschel biên soạn.

1. Hemingway làm John Steinbeck nổi lôi đình (1944)

John Steinbeck thích truyện ngắn The Butterfly and the Tank của Hemingway nên viết thư khen ngợi và ngỏ ý muốn gặp Hemingway. Hẹn gặp nhau ở quán rượu, Steinbeck và Hemingway tình cờ gặp nhà văn John O’Hara. O’Hara đưa cho Hemingway xem cây gậy bằng gỗ mận gai mà Steinbeck đã tặng cho ông trước đó. Mận gai (blackthorn) là một loại gỗ nổi tiếng cứng rắn. Hemingway trề môi khịt mũi, “cái này không phải gỗ mận gai.” Hemingway đánh cuộc năm mươi Mỹ kim với O’Hara là ông có thể bẻ gãy cây gậy bằng cái đầu của mình. O’Hara nhận lời đánh cuộc. Hemingway để gậy lên đầu, dùng hai tay kéo hai đầu gậy và bẻ gãy nó. Ông ném mảnh vỡ của cây gậy vào góc quán và chế nhạo, “cái này mà ông dám bảo là mận gai.”

Steinbeck giận sôi gan, không những vì cử chỉ phô trương thô lỗ của Hemingway mà còn vì cây gậy này là của ông của Steinbeck để lại. Bạn bè của ông thường giật mình khi thấy một Steinbeck vốn rất dịu dàng lại nổi giận khi nghe nhắc đến tên Hemingway. Sự căm ghét này kéo dài hằng chục năm. Steinbeck lấy cuốn sách Mặt trời vẫn mọc trên kệ sách và đọc một đoạn đối thoại của Hemingway bằng giọng đều đều làm nó dở đi và khó nghe, rồi bảo, “tôi không sao người ta nghĩ là Hemingway có khả năng viết đối thoại.”

Dần dần Steinbeck cũng bỏ qua. Khi ông nghe Hemingway phê bình đoạn kết của The Grapes of Wrath (Chùm nho uất hận) – đoạn người đàn ông vì quá đói nên đã bú sữa từ ngực của một người đàn bà đang hấp hối – rằng đây “không thể là giải pháp cho những khó khăn về kinh tế của chúng ta,” Steinbeck viết, “lời phân tích của ông Hemingway không hẳn có giá trị nhưng quả nhiên rất buồn cười.”

2. Hemingway đánh nhau với Wallace Stevens (1936)

Người Mỹ có câu“Sticks and stones may break my bones but words never hurt me” (“Gậy gộc và đá tảng có thể làm gãy xương tôi nhưng lời nói thì chẳng nhằm nhò gì”) thường được dùng để biện bãi khi bị người khác dùng lời nói làm tổn thương. Thật ra lời nói còn gây tổn thương hơn gậy gộc. Giữa Hemingway và Stevens thì còn có thể đưa đến chỗ bị đấm vào mồm.

Ursula, em gái của Hemingway, được giới thiệu với Wallace Stevens trong một buổi tiệc ở Key West, Florida. Stevens là nhà thơ nổi tiếng, gốc gác ở Hatford thuộc tiểu bang Connecticut. Stevens bảo với Ursula, Hemingway chỉ là một kẻ giả dối, không phải là đàn ông. Sau buổi tiệc, cô nàng Ursula về nhà thuật lại với anh. Hemingway lập tức đi tìm ông nhà thơ hiện đại để cho một bài học. Đây là một cuộc đọ sức khó đoán phần thắng sẽ về ai. Stevens tuy đã năm mươi sáu so với Hemingway chỉ mới ba mươi sáu, nhưng ông cao hơn và đô con hơn. Ông cũng là một tay đấm quyền Anh cừ khôi. Stevens lúc ấy đang say và Hemingway cũng đã ngà ngà.

Hemingway bắt kịp Stevens ở bến tàu và đòi choảng nhau. Stevens chế nhạo, “chú mày tưởng chú mày là Ernest Hemingway là ngon lành lắm sao” rồi thụi cho Hemingway một cú, Hemingway lập tức đấm trả lại. Sau khi tàn cuộc, chẳng những bàn tay của Stevens bị bộ xương hàm của Hemingway làm gãy, ông còn bị đánh gục vài ba lần, mặt mũi và mắt bị bầm tím.

Lo ngại cho danh tiếng của mình (Stevens là giám đốc của một hãng bảo hiểm nổi tiếng), Stevens yêu cầu Hemingway đừng tiết lộ với ai việc này. Dù đồng ý, lời yêu cầu của Stevens cắn rứt Hemingway đến độ ông cho chi tiết này vào một truyện ông đang viết dang dở. Trong The Short Happy Life of Francis Macomber, sau khi Macomber sợ hãi con sư tử nên bỏ chạy, ông ta yêu cầu Wilson, một người thợ săn người da trắng rất tài giỏi, đừng kể lại với ai điều này.

“Ông ta không đoán trước được hậu quả này,” Wilson hồi tưởng. “Ông ta là một thằng tồi, một kẻ hèn nhát… Yêu cầu chúng tôi ‘đừng kể lại chuyện này’ là một hành động đáng chê.”

Stevens dường như không bao giờ biết vụ này. “Về Hemingway,” ông viết thư cho một người bạn, “tôi không thể nói gì nhiều bởi vì tôi không đọc sách của ông ấy.”

3. Hemingway chơi khăm vợ

Hemingway là một kẻ ích kỷ; ông cư xử tệ hại với nhiều người, kể cả vợ của ông. Người vợ thứ ba của Hemingway, Martha Gellhorn, kết hôn với ông từ năm 1940 đến năm 1945, là một nhà báo có tài. Bà có nhiệm vụ tường thuật ngày tổng tấn công (D-day). Tuy không phải cận chiến với Phát xít Đức, bà phải đương đầu với chính ông chồng của bà.

Lấy nhau ba năm, hai người càng lúc càng lạnh nhạt với nhau. Hemingway nhậu nhẹt nhiều hơn, viết lách ít hơn, và – trái ngược với bà – không hề muốn dính líu đến chuyện chiến tranh. Ông đã chán ngán Thế chiến thứ nhất và cuộc nội chiến Tây Ban Nha. Giờ đây ông chỉ muốn được nhậu cho đã đời với những anh Cuba đồng chí rượu của ông.

Tuy nhiên, khi Hemingway nghe tin Gellhorn nhận lời tạp chí Collier’s rằng bà sẽ tường trình cuộc đổ quân lên châu Âu, bản tính ích kỷ muốn trên cơ vợ nổi dậy nên ông lập mưu chơi xấu. Trước tiên, ông thuyết phục tạp chí Collier’s thuê ông: ông đã cướp cơ hội độc quyền tường thuật chiến tranh từ chính vợ mình. Sau đó ông không cho bà được cùng băng qua Đại Tây Dương với ông bằng phi cơ Không quân Hoàng gia mà bà đã sắp xếp cho ông.

Trước tình huống này, Gellhorn đã thuyết phục một đoàn quân khác cho bà quá giang. Suốt hai mươi ngày bà theo đoàn tàu quanh co trên biển, vừa đi vừa tránh tàu ngầm của Đức. Họ càng phải cẩn thận gắt gao hơn vì đoàn tàu này chở đầy chất nổ.

Ở Luân Đôn, sau khi ăn nhậu thỏa thuê với bạn bè và chờ hồi phục sau một tai nạn xe hơi trên đường phố đã tắt đèn điện để tránh bom, Hemingway được đưa lên một chiếc tàu khu trục để được tận mắt xem cuộc đổ bộ. Ông thành công trong nhiệm vụ mang tàu chuyên chở bộ quân đổ lên bãi biển Omaha. Ngày hôm sau ông quay trở lại Luân Đôn để sắp xếp hồ sơ truyền tin.

Trong lúc ấy Gellhorn đến bãi biển Omaha bằng con đường khác. Được đi chung với tàu bệnh viện, bà đến bờ và nhìn thấy phi cơ Đồng minh gầm thét trên đầu và đạn đại bác nổ tung tóe ở chân trời. Khi chiếc tàu bệnh viện tiếp nhận bệnh nhân, bà hỗ trợ bác sĩ và y tá thông dịch tiếng Pháp và tiếng Đức, mang nước và đút thức ăn cho bệnh nhân.

Đêm ấy, bà lội nước ngập thắt lưng, đi theo đội cứu thương vào đất liền. Bà nhìn thấy chiến trận xảy ra như cơn ác mộng với đèn tín hiệu đỏ cháy lóe soi sáng những chiếc xe tăng bị thủng tả tơi, những cái bệ bê tông đặt súng đại bác bị vỡ toang, và việc vận chuyển quân nhân và nhu yếu phẩm liên tục băng qua bãi biển. Bà ghi nhận kỹ lưỡng hàng ngũ của thiết giáp và xe vận tải tiến sâu vào nội địa rượt đuổi địch quân.

Ở Luân Đôn, bà viết hai bài tường thuật cho tạp chí Collier’s trước khi bà bị bắt và bị quân đội Hoa Kỳ đe dọa trục xuất nếu bà còn vượt ra khỏi phạm vi của phóng viên. Tuy nhiên bà không tuân lệnh và lại lẻn trốn. Suốt cuộc chiến tranh bà luôn đi trước cảnh sát quân đội một bước, được các quân nhân giúp đỡ vì họ thán phục sự can đảm và nhan sắc của bà. Khi Berlin thất thủ, bà đã tham dự cuộc oanh kích và tường thuật cuộc giải phóng trại tập trung Dachau. Bà cũng ly dị Hemingway, người không bao giờ tha thứ cho bà vì đã đổ bộ trước ông.

4. Hemingway thiết lập đường dây do thám

Hemingway đã từng giúp FBI thiết lập một đường do thám tại Cuba trong chiến tranh để thu thập tin tức về hoạt động của Đức quốc xã. Ông chất đầy đạn dược và chất nổ lên chiếc thuyền đánh cá Pilar của mình, rồi lênh đênh trên biển đi tìm tàu ngầm của địch quân. Kế hoạch của Hemingway là dụ cho tàu ngầm nổi lên mặt nước. Khi quân đội Đức quốc xã mở cửa tàu, Hemingway và bạn bè của ông sẽ dùng súng máy và lựu đạn tấn công kẻ địch. Tuy nhiên, không có chiếc tàu ngầm nào bị mắc bẫy của Hemingway.

5. Tuần trăng mật của Hemingway (1921)

Ông hai mươi mốt tuổi và là “Hasovitch” của bà; bà hai mươi chín tuổi và là “Nesto” của ông. Trong suốt chín tháng theo đuổi nhau, họ trao đổi hằng trăm lá thư nhưng chỉ gặp nhau có bảy lần, vì thế có lẽ Hadley Hemingway rất ngỡ ngàng khi nhìn thấy bản chất thật của ông chồng Ernest.

Hai người cưới nhau ở vịnh Horton, miền bắc Michigan và sau lễ cưới, họ được đưa về hồ Walloon, gần hòn đảo nơi gia đình của Hemingway có nhà nghỉ mát mùa hè. Tuần trăng mật bắt đầu không mấy suôn sẻ vì đôi vợ chồng bị ốm và trời trở lạnh. Khi Ernest không viết văn, họ ở trong nhà và dưỡng bệnh bằng rượu vang.

Một buổi sáng, Ernest qua bên kia bờ hồ và quá giang xe để mua thức ăn. Ông mua hai kí thịt bò, gặp một người bạn trao lại cho ông bộ quân phục cũ, và ông nhậu rượu lậu với người bạn này đến khi say không còn biết trời đất gì cả.

Loạng choạng đến bờ hồ, ông “mượn” chiếc xuồng gắn máy của người bạn và hướng về nhà. Nghe tiếng hò la của Hemingway, Hadley vội vàng xuống bờ hồ vừa kịp lúc nhìn thấy ông chồng say của bà phóng xuồng trên những đợt sóng cao. Ông ném cho bà miếng thịt bò và phóng thuyền lên mạn trên của hồ. Hadley đi bộ xuyên rừng cho đến khi bà có thể nghe tiếng của Ernest. Bà nhìn thấy ông mặc bộ quân phục, vẫn còn nửa tỉnh nửa say, và đang hát một bài quân ca Ý.

Ông cũng chẳng đáng yêu mấy khi cứ nhất quyết mang vợ đi giới thiệu với mấy cô bồ cũ đang sống ở Petosky gần đấy. Ông giải thích là ông muốn nâng cao địa vị ông trong mắt bà, nhưng bà cho hành động ấy là một cử chỉ đề cao tính khoe khoang hợm hĩnh của ông.

Tuần trăng mật – bà thú nhận – “phần lớn là thảm bại.”

6. Hemingway buổi tối trời

Tiểu thuyết của Hemingway có thể được xem là điển hình của trường phái văn chương hiện đại nhưng thái độ của ông đối với tình dục lại chẳng khác tư tưởng thời Victoria mấy. Ông tin rằng mỗi người đàn ông chỉ có một số lần nhất định đạt đến tột đỉnh của khoái cảm, vì thế nên phân chia đều những tột đỉnh khoái cảm này trong suốt chiều dài cuộc đời. Ông cũng tin vào hôn nhân, nên đã đến bệ thờ làm đám cưới bốn lần, và luôn luôn có một người chờ sẵn khi ông đang làm thủ tục ly dị bà vợ trước.

William Faulkner, người luôn giữ người vợ chính thức nhưng có hàng tá những cuộc tình vụn vặt, có cách tóm tắt xuất sắc triết lý hôn nhân của Hemingway: “Cái sai của Hemingway là ông ta cứ nghĩ mình phải cưới tất cả các bà tình nhân.”

Hemingway có thể là người hùng trong những cuộc đi săn, đi câu, đánh quyền và đấu bò, nhưng dường như ông không phải là dũng sĩ trong chuyện chăn gối. Một phần vấn đề là do tật nghiện rượu của ông đưa đến chỗ bị bất lực và càng già càng trở nên tệ hại. Tuy nhiên, Hadley, bà vợ đầu tiên, cho rằng sự bất lực này thật ra chỉ vì Hemingway quá lơ đãng khi đang yêu đương. Đang cơn chăn gối, ông bỗng vói lấy quyển sách trên bàn ngủ và đọc sách bên trên bờ vai của bà. Điều này đủ để làm nguội lửa lòng của bất cứ bậc nữ nhi nào.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà dịch.

Trích đoạn và phỏng dịch Writers Gone Wild – the Feuds, Frolics, and Follies of Literature’s Great Adventurers, Drunkards, Lovers, Iconoclasts, and Misanthropes  (Nhà văn đại náo – Những chuyện tranh chấp, nô đùa, và điên rồ trong văn chương của các nhà phiêu lưu, chàng say, người tình, kẻ đả phá thần tượng, và kẻ ghét người), do Bill Peschel biên soạn.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Chuyện người cầm bút

Kazuo Ishiguro: “Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”

Nhân kỉ niệm 20 năm ra mắt tiểu thuyết Mãi đừng xa tôi, tác giả đoạt giải Nobel Văn chương người Anh gốc Nhật Kazuo Ishiguro đã nói về vai trò của nhà văn trong thế giới hậu sự thật, và lý do tại sao ông “không phải là một nhà viết văn xuôi vĩ đại”.

Published

on

Bán chạy vì giống tiểu thuyết Young Adult

40 năm qua, Ishiguro là một trong những cây viết được đánh giá cao qua hàng chục tiểu thuyết, nhưng có lẽ không cuốn sách nào được yêu thích và nổi tiếng hơn cuốn sách thứ 6 Mãi đừng xa tôi. Nó bán chạy hơn bất kì tác phẩm nào khác trong văn nghiệp ông, đồng thời cũng được chuyển thể thành phim điện ảnh lẫn kịch sân khấu.  

Vẫn tìm được độc giả mới sau 20 năm xuất bản, cuốn tiểu thuyết này được Ishiguro ghi nhận là đã khởi đầu cho một chuỗi ngẫm nghĩ và định hình nên những tác phẩm tiếp theo như Người khổng lồ ngủ quên hay Klara và mặt trời sau này. Ông cho biết bộ 3 tác phẩm đều xoay quanh một sự thật cơ bản và không thể tránh khỏi là tất cả chúng ta đều sẽ chết, nhưng ta hiện sống như thể không bao giờ chết.

Xuất phát từ góc nhìn này, Mãi đừng xa tôi lấy bối cảnh một xã hội giả tưởng nơi trẻ em được nhân bản vô tính để cung cấp các cơ quan khỏe mạnh nhằm kéo dài cuộc sống cho người khác. Sau 2 hay 3 lần hiến không tự nguyện, những đứa trẻ sẽ hoàn thanh xong sứ mệnh và chết đi. Nhưng cũng có tin đồn rằng trong một số trường hợp nếu chứng minh được bản thân đang yêu, thì chúng sẽ được phép sống.

Chính niềm tin vô căn cứ này rằng đã tạo nên mạch vận động chính cho cuốn tiểu thuyết. Ishiguro giải thích: “Chúng ta dường như không bao giờ chấp nhận số phận và luôn khao khát tìm ra lối thoát đặc biệt. Tôi nghĩ điều đó không phải vì ta cứ muốn sống mãi, mà bởi chúng ta không muốn đối mặt với nỗi đau, nỗi buồn và sự cô đơn đi kèm cái chết. Chúng ta sợ mất đi những người thân yêu. Chúng ta sợ sự chia ly.”

Tựa đề cuốn tiểu thuyết là một bài hát mà người kể chuyện, Kathy H, phát đi phát lại trong thời gian cô ở trường nội trú Hailsham của những người nhân bản. Nó vừa là một hiện hữu vật lí dưới dạng cuộn băng cassette bị mất, vừa là lá bùa hộ mệnh - một biểu tượng của thời điểm trước khi cô biết cuộc sống của mình và của những người bạn như Tommy và Ruth sẽ phát triển như thế nào. Ishiguro đã sáng tác ra bài hát, sau đó được người bạn và cộng sự của ông - ca nhạc sĩ dòng jazz Stacey Kent thu âm. 

Mãi đừng xa tôi đã trải qua một thời kỳ thai nghén dài và chỉ tồn tại như những suy nghĩ và ghi chép về một nhóm sinh viên có tuổi thọ khác biệt rõ rệt so với những người cùng trang lứa – có lẽ cũng tương tự như tác hại của một thảm họa hạt nhân gây ra. Bước đột phá đến thông qua sự kết hợp của các yếu tố bên ngoài và thời điểm: sự quan tâm của xã hội đối với những lợi ích và nguy cơ tiềm ẩn của nhân bản trong giai đoạn mà hình ảnh chú cừu Dolly liên tục xuất hiện. 

Nói về điều này, Ishiguro cho biết: “Tôi cho phép bản thân sử dụng những gì mà theo truyền thống có thể được coi là phép ẩn dụ. Đó không phải vì tôi quá dũng cảm để tạo ra lối đi mới hay gì cả. Tôi nghĩ bầu không khí xung quanh thay đổi là nguyên nhân chính cho điều này, bởi thế hệ nhà văn tiếp sau - những người trẻ hơn tôi khoảng 15 tuổi như David Mitchell hoặc Alex Garland chẳng hạn – lại thấy nó không có gì kì lạ. Họ lấy cảm hứng từ đủ mọi nơi và tôi thực sự thích tác phẩm của họ.”

Thế hệ đề cao sáng tạo

Bên cạnh sự đột phá về thể loại là tiểu thuyết khoa học viễn tưởng phản địa đàng, Ishiguro từ đó cũng phát hiện ra một thể loại mới. Theo đó, lượng độc giả của Mãi đừng xa tôi đã vượt xa các tiểu thuyết khác của ông, bao gồm cả Tàn ngày để lại, và từ đó thu hút nhiều độc giả hơn đến các buổi đọc sách. Ông cho biết: "Tôi nghĩ một trong những lý do khiến tác phẩm này nổi bật vì nó giống như một cuốn sách YA trước khi thể loại này trở thành loại sách rất được yêu thích. Nó không nhất thiết dành cho những người trẻ tuổi, nhưng nó có rất nhiều thứ mà bây giờ đã trở thành đặc trưng của dòng chảy này: những đứa trẻ ở trường, các cảm xúc phức tạp, sự đố kỵ, tranh giành, nông nổi... Tôi nghĩ đó là một phần lý do khiến Mãi đừng xa tôi tiếp tục tìm được lượng độc giả mới."

Ông nói điều này khiến cho bản thân cảm thấy thú vị, khi nó dường như tách khỏi dòng chung là các tiểu thuyết văn chương xuất hiện trước những năm 1990 để thuộc về thế hệ mới là những tên tuổi ông được đặt cùng trong danh sách Granta's Best of Young British Novelists năm 1983, gồm Martin Amis, Salman Rushdie, Julian Barnes và Pat Barker. Ở giai đoạn đó, ông chia sẻ, “Chúng tôi tuy lạ lẫm với giới xuất bản khi đó nhưng khá tự hào vì mình là những người sáng tác văn chương thực thụ và hiểu giá trị của văn chương”. Khi được hỏi vì sao Doris Lessing cũng viết một cách linh hoạt rất nhiều thể loại nhưng không bị coi nhẹ, Ishirguro nói: “Chà, tôi cho rằng bà ấy chẳng quan tâm cải tiến, đổi mới gì đâu! Bà ấy chỉ đuổi theo trí tưởng tượng của mình mà thôi. Margaret Atwood cũng vậy nhưng thuộc thời này. Ý tôi là, những người này, họ không quan tâm đến kiểu sứ mệnh xây dựng một trào lưu mới”.

Nhưng khi bối cảnh văn học bắt đầu thay đổi, Ishiguro đã ở vị trí thuận lợi, xét về mặt ảnh hưởng và tính khí, để tận dụng lợi thế từ sự “nới lỏng của các dây buộc”. Ông đã đọc và sáng tác truyện tranh dẫu trước đó còn tương đối mơ hồ về thuật ngữ "tiểu thuyết đồ họa", nhưng niềm đam mê âm nhạc và phim ảnh suốt đời đã mang đến cho ông một góc nhìn khác về ý tưởng kết hợp các phong cách viết và thể loại. Người ông hâm mộ gồm Bob Dylan, Miles Davis, Picasso cũng như Stanley Kubrick trong điện ảnh.

"Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại"

Mặc dù nhiệt tình đón nhận dòng chảy của các thể loại và phong cách mới, nhưng Ishiguro vẫn kiên quyết một cách đáng kinh ngạc về những hạn chế của mình. Khi nói về sở thích của ông đối với câu chuyện kể ngôi thứ nhất và cam kết tạo ra những giọng nói đặc biệt sẽ thiết lập nên tông điệu và nội dung cho các tiểu thuyết của mình, ông đã đưa ra một tuyên bố thẳng thừng: "Tôi chưa bao giờ là một nhà viết văn xuôi vĩ đại cả". Ông giải thích thêm “Đôi khi tôi đọc nhiều cuốn sách mà bản thân thấy kinh ngạc trước vẻ đẹp của thứ văn xuôi được in ở đó. Tôi chẳng thể nào viết ra được chúng”.

Nói về trách nhiệm của mình với tư cách một nhà văn, Ishiguro cho biết: “Tôi khá hoài nghi sức mạnh khơi gợi cảm xúc ở người đọc mà người ta hay ngợi ca tôi, hay Uỷ ban Nobel đã từng trích dẫn khi gọi tên tôi. Sách của tôi không cho độc giả biết thêm điều gì. Nếu họ muốn biết về các sự kiện, thì chẳng phải đã có các sử gia ở đó rồi sao?” Nhưng trong vài năm trở lại đây, ông ngày càng lo ngại rằng việc khơi dậy những phản ứng cảm xúc mạnh mẽ có một chiều hướng đen tối hơn nhiều, khi chúng bị lợi dụng cho những múc đích khác nhau.

Ông nói thêm: “AI sẽ trở nên rất giỏi trong việc điều khiển cảm xúc. Tôi nghĩ chúng ta đang ở bờ vực của điều đó. Hiện tại, chúng ta chỉ nghĩ đến việc AI xử lý dữ liệu hoặc làm gì đó khô khan. Nhưng rất sớm thôi, AI sẽ có thể tìm ra cách tạo ra một số loại cảm xúc nhất định ở con người - tức giận, buồn bã, cười đùa.” Cũng vì AI có khả năng cũng sẽ có tác động đáng kể đến nghệ thuật sáng tạo nên Ishiguro gần đây đã kêu gọi chính phủ Anh bảo vệ tác phẩm của các nhà văn và nghệ sĩ khỏi sự săn mồi của các tập đoàn công nghệ, mô tả kỷ nguyên hiện tại là “khoảnh khắc ngã ba đường”.

Đối mặt với câu hỏi rằng trong một xã hội hậu sự thật được hỗ trợ bởi AI và thuật toán, liệu tiểu thuyết có đủ sức gây ấn tượng về mặt cảm xúc không? Ông trả lời: “Nếu tôi triển khai công nghệ đó để phục vụ một chính trị gia hoặc một tập đoàn lớn muốn bán dược phẩm, bạn sẽ không nghĩ đó là điều gì đáng chú ý cả. Nhưng nếu dùng nó để mà kể chuyện, thì nó sẽ được đánh giá rất cao. Chính nó khiến tôi ngày càng cảm thấy không thoải mái, bởi tôi chưa được khen ngợi về phong cách đáng kinh ngạc hoặc vì tiểu thuyết của mình giúp vạch trần những bất công lớn trên thế giới. Thay vào đó tôi được khen ngợi vì làm cho mọi người khóc”. Ông cười lớn và sau đó nói: “Họ đã trao cho tôi Nobel Văn chương chỉ vì điều đó”.

Ngô Minh dịch từ The Guardian

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Băng: Hành trình lạc lối trong thế giới hậu tận thế

Published

on

By

Tiểu thuyết Băng của tác giả Anna Kavan là một câu chuyện giả tưởng độc đáo, kể về mối tình tay ba tuyệt vọng đan xen với bối cảnh hậu tận thế ảm đạm do thảm họa sinh thái và chính trị gây ra.

Băng không tuân theo lối kể chuyện truyền thống. Thay vào đó, Kavan sử dụng nhiều hình ảnh ẩn dụ và biểu tượng để dẫn dắt người đọc vào thế giới nội tâm của các nhân vật. Cuốn sách mang đến cho người đọc trải nghiệm đầy ám ảnh, khơi gợi những suy tư về bản chất con người và tương lai của thế giới. Để giúp độc giả hiểu rõ hơn về Băng, Bookish đã có cuộc phỏng vấn với Tâm Anh – dịch giả của quyển sách. 

Băng là một tác phẩm không viết theo lối tuyến tính thông thường. Điều này có khiến bạn gặp phải khó khăn nào trong quá trình dịch tác phẩm sang tiếng Việt không? Nếu có thì bạn đã vượt qua được bằng cách nào?

Khó khăn lớn nhất là ban đầu chính mình cũng thấy tương đối hoang mang, không nắm bắt được câu chuyện. Đến khoảng một phần ba sách rồi nhưng mình không thực sự hiểu tác giả muốn nói về điều gì. Thật tình cờ, khoảng thời gian ấy mình tham dự một buổi giao lưu trực tuyến với dịch giả Trần Nguyên của tác phẩm Bà Dalloway. Trong phần thảo luận, dịch giả An Lý đặt một câu hỏi liên quan đến bút pháp unreliable narrator, tạm dịch là người kể chuyện không đáng tin cậy. Lần đầu tiên mình nghe thấy khái niệm này, nhưng không cần viện đến định nghĩa hay tra cứu thêm, ngay khoảnh khắc đó trong đầu mình như reo vang “Eureka!” Đây chính là cách mình tiếp cận phần còn lại của tác phẩm. Mình không còn quá áp lực chú tâm vào việc lần theo một cốt truyện mạch lạc, mà tự đặt mình vào vị trí người lắng nghe một câu chuyện mơ hồ, đứt quãng, không nhân quả, không đầu cuối của nhân vật tường thuật dường như đã đạt đến đỉnh cao của thuật thao túng tâm lý ở chỗ anh ta đánh lừa được cả chính bản thân. Từ đây, mình đọc hiểu tác phẩm dễ dàng hơn và cảm giác thoải mái hơn với việc chuyển ngữ sang tiếng Việt. Dĩ nhiên đây chỉ là cách tiếp cận tác phẩm của riêng mình, và mình chắc chắn rằng còn rất nhiều cách phân tích Băng khác không chỉ của các nhà phê bình, nghiên cứu mà của từng độc giả. Nhưng điều mình đúc kết được là người dịch cần hiểu và có cảm giác thân thuộc với tác phẩm. 

Trong bức tranh hậu tận thế mà tác giả đã khắc họa, điều gì khiến bạn cảm thấy ấn tượng nhất? Đồng thời, có điều gì khiến bạn cảm thấy gần gũi với bối cảnh hiện đại ngày nay và lo sợ rằng viễn cảnh trong Băng cũng sẽ sớm xảy đến với nhân loại không?

Mình rất thích những đoạn mô tả “băng” trong tác phẩm, đây dường như là một nhân vật còn sinh động hơn “cô gái”. Tuy nhiên hiện tượng băng tràn đi khắp nơi có lẽ trái ngược với biến đổi khí hậu ngày nay – ấm lên toàn cầu dẫn đến băng tan. Dẫu vậy, mình nghĩ chi tiết này trong sách và tình trạng biến đổi khí hậu thực tế chia sẻ nhiều điểm chung: tác động quy mô toàn cầu và sức ảnh hưởng đến mọi người, không ai tránh được, song chịu thiệt thòi nhất sẽ là những nhóm người yếu thế. Mình nghĩ tác giả cố tình chọn chi tiết ngược với thực tế để câu chuyện không bị trói buộc trong lớp nghĩa duy nhất về biến đổi khí hậu mà đa tầng nghĩa, giàu tính khái quát hơn.

Có lẽ viễn cảnh trong Băng sẽ không xảy ra, ít nhất là trong tương lai gần. Nhưng mình lo lắng rằng chúng ta sẽ không hành động kịp thời để ngăn chặn các thảm họa khí hậu mà khoa học đã cảnh báo nhiều thập kỷ qua.

Bạn tâm đắc nhất điều gì về văn phong của Anna Kavan, cũng như cách tác giả xây dựng câu chuyện?

Mình có cảm giác gắn bó và kết nối kỳ lạ với “cô gái” – nhân vật nữ được kể từ góc nhìn của người nam. Mình nghĩ ngôi kể và góc nhìn này đã khắc họa rất tốt cái theo mình cảm nhận là tính nam độc hại. Không khí vô định mất phương hướng ban đầu khiến mình chật vật về sau khi nghĩ lại, chính là điểm khiến cho tác phẩm hấp dẫn đối với mình – chỉ trong những lần đọc đi đọc lại và suy ngẫm về sau, mình mới càng hiểu hơn những điều mà trước đó chưa mảy may thoáng qua tâm trí mình.

Dịch giả Tâm Anh

Việc câu chuyện này không có một nhân vật nào được đặt tên mang lại cho bạn cảm giác gì khi dịch?

Cũng như lối kể không tuyến tính, đó là cảm giác mơ hồ mất định hướng. Và mình nghĩ đây là chủ đích của tác giả. Một người bạn của mình gần đây đọc sách cũng nói đến điểm này, và rằng bạn ấy cảm nhận như thể có hai nhân vật hóa ra chính là một (các bạn đọc sẽ rõ mình sợ tiết lộ mất).

Bạn có gặp phải những từ hoặc cụm từ nào trong bản gốc khiến bạn cân nhắc rất kỹ lưỡng khi dịch không? Ví dụ, có cụm từ hay câu văn nào có thể hiểu theo nhiều nghĩa hay không?

Có một điểm là xuyên suốt cuốn sách tác giả dùng rất nhiều tính từ “white” – trắng, tuy nhiên nếu chỉ dịch đơn thuần là “trắng” trong tiếng Việt thì đôi khi vừa không nhịp nhàng, thuận tai, lại vừa như thiếu đi nét nghĩa nào đó. Do đó trong một số trường hợp mình có cân nhắc và mượn đến một số sắc thái trắng trong tiếng Việt mà mình nghĩ là phù hợp để dịch tính từ “white”. Còn về cụm từ làm khó mình thì cũng có kha khá, đa số mình đều tham khảo nhiều từ điển Anh-Anh lẫn Anh-Việt để tìm nét nghĩa tương đương nhất. Rất nhiều chỗ tra theo từng từ đơn lẻ sẽ bị sai nghĩa, vì phải tra cứu đúng cả cụm từ (ngữ) mới ra nghĩa chính xác.

Một chia sẻ thực lòng là dịch cuốn này mình còn rất non tay nên bản dịch sau cuối trên tay độc giả hiện nay cũng có sự trợ giúp biên tập, hiệu đính của một dịch giả uy tín. Bản thân mình trong quá trình dịch đã tự học được rất nhiều và khi đối chiếu với bản thảo dịch đã biên tập lại càng học thêm được nhiều điều hơn. Mình hy vọng nhờ được biên tập kỹ lưỡng như vậy nên cuốn sách xuất bản là một bản dịch trọn vẹn, hoàn thiện, cho độc giả một trải nghiệm đọc xứng đáng.

Bạn có lời nhắn nhủ nào cho những ai muốn đọc/ sắp sửa đọc tác phẩm này không? Chẳng hạn như, trước khi đọc cần phải chuẩn bị một tâm thế ra sao để việc thưởng thức tác phẩm được diễn ra trọn vẹn nhất?

Mình nghĩ với hầu hết các tác phẩm chứ không riêng gì Băng, ta có thể cứ thế bắt đầu đọc và thả mình theo câu chuyện, nếu cần tra cứu thông tin bổ trợ thì tìm kiếm thêm sau. Tuy nhiên nếu cảm giác đọc mà hoang mang không hiểu, không nắm bắt được, mình thường sẽ tìm đến các bài viết, thường là các bình luận trên The New Yorker, The New York Times hoặc một trang gần gũi hơn, tổng hợp nhiều ý kiến như Goodreads, đọc qua một số ý chính về cách tiếp cận tác phẩm, sau đó thử áp dụng vào cuốn sách mình đang đọc. Với riêng Băng, mình nghĩ các bạn đừng quá chú trọng đến cốt truyện hay một thông điệp nào. Mình cảm giác chỉ đến khi đọc xong và ngẫm lại, đọc đi đọc lại nhiều lần nữa, trong mình mới ngờ ngợ được những gì tác giả muốn nói (với một độc giả là mình, còn với người khác có lẽ bà lại nói điều khác).

Cảm ơn Tâm Anh vì đã mang đến cho Bookish một buổi trò chuyện ý nghĩa. Chúc bạn luôn thành công và gặt hái nhiều thành tựu trong tương lai.

Đọc bài viết

Chuyện người cầm bút

Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi: Biến mất cũng có thể là một điều rất đẹp

Published

on

By

Nhà văn Nguyễn Hoàng Mai vừa ra mắt bạn đọc tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi về chủ đề tình yêu và những nỗi trăn trở của người trẻ. Tác phẩm tạo nên sức hút riêng với lối văn trầm tĩnh, sâu lắng. Bookish đã có cuộc trò chuyện cùng nhà văn để giúp bạn đọc hiểu hơn về tác phẩm này.

Nguyễn Hoàng Mai là tác giả của hai tác phẩm đầy cảm xúc về tuổi trẻ: Đung đưa trên những đám mây (tiểu thuyết, 2018), Bây giờ mình đi đâu (tập truyện ngắn, 2019). Bên cạnh đó, cô còn là đồng dịch giả của tác phẩm nghiên cứu Sứ đoàn Iwakura viết về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị, vừa được Phương Nam Book phát hành trong năm 2023.

Năm 2023 vừa qua có vẻ là một năm bội thu trong lĩnh vực văn chương với Mai. Bạn vừa ra mắt tác phẩm đồng dịch thuật là Sứ đoàn Iwakura vào tháng 7 thì đến cuối năm lại ra mắt tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vào ngày có số đôi đặc biệt là 12.12. Được biết, công việc của Mai ở Nhật cũng rất bận rộn; vậy bạn thu xếp thời gian ra sao để vẫn có thể vừa làm việc vừa sáng tác với năng lượng dồi dào như thế?

Thật ra hai tác phẩm được ra mắt vào năm nay Sứ đoàn Iwakura và tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi đều là quả muộn của quá trình viết lách từ rất nhiều năm về trước. Việc tác phẩm ra mắt vào ngày có số đôi 12.12 tuy ngẫu nhiên nhưng trở thành điểm trùng hợp khá thú vị. Trong thời gian tôi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi có những cột mốc đều gắn với con gắn liền với con số 12. Sau này tìm hiểu thì tôi mới biết khái niệm về “con số thiên thần” (Angel Number) 1212 nhằm mục đích dẫn lối đến sự mạnh mẽ dấn thân, tiến tới sự trưởng thành trong tâm thức, để sau này khi đối mặt với những sóng gió kinh khủng nhất cũng không thể làm bản thân gục ngã.

Công việc và cuộc sống ở Nhật cũng khá nhanh và bận rộn nhưng tôi luôn tìm kiếm một khoảng trời riêng, để tự do viết nên thế giới qua những trải nghiệm của chính mình. Thực ra quá trình viết cũng là quá trình tôi tự đối mặt với cảm xúc của mình, tìm ra con đường hướng tới sự an lành, bình yên trong tâm trí.

Nhân vật Mimi đã biến mất trong tiểu thuyết Đung đưa trên những đám mây, và trong tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi vừa ra mắt của bạn cũng có rất nhiều nhân vật biến mất. Tại sao Mai không cho họ hiện hữu lâu hơn?

Thời gian viết tập truyện, tôi đã gặp một cô gái – có thể gọi là nàng thơ cũng được – người lúc nào cũng nói về sự biến mất của chính mình. Điều đó làm tôi suy nghĩ, ngẫu nhiên cũng đã chạm vào những điều trong tâm tư của chính tôi. Một người lúc nào cũng suy nghĩ sự biến mất có lẽ luôn luôn chiêm nghiệm về sự tồn tại của mình. Có lẽ họ là những người mà đã nếm trải quá nhiều về sự vô thường trong kiếp người, và cảm giác mất mát lần lượt những thứ quan trọng trong đời.

Nhân vật người mẫu Mộc Anh mang nhiều mâu thuẫn, vừa dự cảm được vừa rất sợ sự biến mất. Nhân vật tôi đã cho cô ấy thấy biến mất cũng có thể rất đẹp, không cần phải quá sợ hãi, vì cô ấy luôn có người một người hiểu mình ở bên cạnh. Biến mất cũng có thể hiểu về cách hình dung đến cái chết. Hành trình sống của mỗi người là hành trình đi về cái chết. Nghe có vẻ bi quan nhưng có lẽ, ai cũng phải đối mặt với cái chết – sự thật này – dù sớm hay muộn. Suy nghĩ về thời gian sống còn lại, giúp người ta có thể sống một cách đam mê, dũng cảm, chân thành hơn.

Vì biết chắc một ngày nào đó, mình sẽ biến mất nên có thể sống một cách rực rỡ. Mộc Anh là một nhân vật luôn phải đấu tranh giữa những cám dỗ cuộc sống phồn hoa, nhưng một ngày cô ấy đã thức tỉnh tìm đến Tokyo – vùng đất mà cô tin mình có thể được chữa lành. Thời khắc những cánh hoa anh đào rơi trở thành điều kỳ diệu, một khoảnh khắc cũng có thể trở nên vĩnh hằng trong tâm trí những người trẻ mơ mộng ấy.

Những truyện ngắn trong Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi lấy bối cảnh trải dài khắp các tỉnh thành ở nước Nhật. Bạn đã thực sự đi qua hết những địa điểm đề cập trong sách hay có nơi nào bạn chưa kịp đến và chỉ viết dựa trên sự hứng thú, nghiên cứu về nơi đó không? Trong các địa danh được đề cập trong sách, đâu là những nơi để lại cho Mai nhiều ấn tượng và kỉ niệm sâu sắc nhất?

Nhật Bản là quốc đảo có hình thể trải dài từ Bắc xuống Nam, gần giống như dáng hình của đất nước Việt Nam mình. Mỗi tỉnh thành của xứ sở này lại có những đặc sản riêng, màu sắc thiên nhiên, văn hóa lễ hội riêng biệt. Mỗi tỉnh thành như một nét vẽ, mảng màu kỳ diệu, hài hòa trong bức tranh tổng thể. Khi viết Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, tôi đã có một chút tham vọng, muốn độc giả chỉ qua những trang sách, những con chữ, vẫn có thể cảm nhận bằng giác quan, hình dung nên những câu chuyện, cảnh sắc, trải nghiệm về những nơi chốn tôi từng đặt chân đến.

Trong những tỉnh thành đó, để lại ấn tượng sâu đậm nhất có lẽ là Tokyo và Kyoto, hai thành phố có vẻ đối lập như những tấm gương phản chiếu cho nhau về lịch sử, văn hóa, phong cảnh, tính cách con người. Nơi chứa đựng nhiều kỷ niệm mang màu sắc cá nhân nhất là Tokyo sôi động, nhiệt huyết, nơi tôi đã trải qua hơn 7 năm tuổi trẻ của chính mình. Nơi lưu giữ một phần trái tim, tâm hồn tôi lại là Kyoto trầm mặc, có khả năng thấm sâu vào lòng người như hơi rượu sake ngày mưa, như những trang sách tuyệt đẹp trong tiểu thuyết Cố Đô của Kawabata Yasunari.

Ở tập truyện ngắn lần này, Mai thể hiện sự trưởng thành khá rõ trong lối viết ở cách chọn bối cảnh và những nghiên cứu kĩ lưỡng về nghề nghiệp của nhân vật được thể hiện qua các chi tiết trong truyện. Bên cạnh đó, Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi còn có sự đa dạng về sắc thái tình yêu và những xu hướng tính dục khác nhau, không chỉ đơn thuần là tình yêu giữa hai người khác giới như nhiều tác phẩm khác trên thị trường hiện nay. Tại sao bạn lại có sự lựa chọn này?

Thông qua chủ đề khá nhạy cảm của giới trẻ là tình dục và giới tính, tôi đã muốn khắc họa sâu hơn gương mặt muôn vẻ của Tình yêu và Thanh Xuân Tuổi trẻ những ngọt ngào, mới mẻ, mơ mộng, đầy khát khao khám phá thế giới.

Về tình yêu, tôi đã luôn hiểu đó là khái niệm diệu kỳ bắt nguồn từ bên trong vẫn luôn ở đấy, nguồn sống bao trùm, tràn ngập thế giới này. Tình yêu luôn thuần khiết, mang năng lượng chữa lành vượt qua những ranh giới như: giới tính, vật chất, tuổi tác, khoảng cách địa lý v.v... Tôi đã nghĩ như vậy, muốn đem thông điệp đó vào tác phẩm của mình. Chúng ta luôn có vô vàn tình yêu trong trái tim mình. Chúng ta có bản năng yêu thương, có thể cho đi tình yêu vô điều kiện miễn là trước tiên chúng ta biết chấp nhận và yêu thương bản thân vô điều kiện. Sau khi trải qua những tháng năm tuổi trẻ ở cả Việt Nam và xứ sở Mặt Trời Mọc, tôi đã suy nghĩ, chiêm nghiệm như vậy.

Sau tập truyện ngắn Tokyo và em – Khi cánh hoa anh đào rơi, trong năm 2024, Mai có ấp ủ những dự định sáng tác mới nào không?

Giai đoạn này, tôi vẫn đang dành thời gian lắng đọng, trau chuốt lại bản thảo tiểu thuyết viết từ năm 21 tuổi. Cùng với đó là dự án kết hợp cùng một ca sĩ nhạc sĩ Gen Z viết cuốn sách về âm nhạc đường phố với bối cảnh là những khu ổ chuột Sài Gòn, một câu chuyện rất thật, khắc họa những nhân vật trẻ, cá tính, nhiều vấp ngã nhưng luôn biết cách đứng lên đầy mạnh mẽ. Với tập truyện này tôi muốn thể nghiệm một chút thay đổi trong phong cách viết, gai góc, hài hước, gần gũi hơn nhưng nếu có thể chạm sâu vào trái tim những người trẻ, gieo trong họ một câu chuyện truyền cảm hứng về sự nỗ lực không ngừng nghỉ, rằng đừng bao giờ ngừng tin tưởng vào bản thân, đừng bao giờ dập tắt ngọn lửa đam mê khi còn trẻ.

Tận sâu trong tôi vẫn còn nhiều nguồn cảm hứng sáng tác, muốn viết thêm về Tokyo, kể những câu chuyện theo những cách khác nhau, nhưng có lẽ theo một tâm thế tỉnh thức hơn.

Cảm ơn Mai đã dành thời gian trò chuyện với Bookish, chúc bạn có một hành trình thật rực rỡ trong năm mới.

Đọc bài viết

Cafe sáng