Phía sau trang sách

Những cảnh đời tỉnh lẻ: Tự vạch trần nội tâm của người đàn ông yếm thế

Published

on

J. M. Coetzee không phải là một nhà văn đại chúng. Sách của ông chưa từng đứng nhất trên những bảng xếp hạng sách bán chạy. Tên tuổi ông cũng không phủ sóng rộng khắp các mạng xã hội (như Margaret Atwood). Hình ảnh của ông trước công chúng là một trí thức xa cách, cao ngạo; người chối từ đứng trước đám đông ở những buổi lễ tôn vinh mình. Dù không ẩn mình đến cực đoan như Thomas Pychon nhưng Coetzee cũng chẳng buồn làm gì để xua tan đi những ấn tượng đó; thậm chí, ông còn khuyến khích những phán đoán trên. Đa số độc giả tìm đến văn chương Coetzee sau những danh tiếng, giải thưởng mà ông nhận được. Hai giải Booker và một Nobel văn chương, vẫn có điều gì đó ở người đàn ông Nam Phi này làm người khác nghi ngại, bởi sự kín tiếng, bởi thói ẩn mình.

Đến khi Tuổi thơ ra đời như phát pháo đầu tiên cho bộ tự truyện – giả tưởng Những cảnh đời tỉnh lẻ, người ta mới bỗng chốc nhận ra Coetzee không đơn thuần là người kín tiếng, mà còn đáo để trong cách tự châm biếm bản thân mình. Động cơ đằng sau việc ra mắt ba tập tự truyện trong khi ẩn mình đến mức tối đa có lẽ ngoài bản thân ông ra thì không ai hiểu rõ. Nhưng với bộ ba này, ít nhiều một Coetzee yếm thế đã dần hiện ra: nhân vật chính, một nhà văn Nam Phi được đánh giá cao, hay phôi thai xanh xao chưa đủ sức bật… tất cả xoay vòng trong ba phần những trang viết này.

“Hắn sẽ giữ hết chúng trong đầu thế nào đây, tất thảy những cuốn sách, tất thảy những con người, tất thảy những câu chuyện này? Và nếu hắn không ghi nhớ chúng, thì ai sẽ làm?”

Một thoáng Coetzee.

Văn nghiệp của Coetzee bắt đầu khá muộn. Vào thập niên 70 tại Mỹ, khi phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đang lên đỉnh điểm, ông cùng đồng nghiệp – bấy giờ đang giảng dạy tại đại học Buffalo – cảm thấy mình cần làm một điều gì đó. Sau khi bị chính quyền bắt và bị từ chối cấp lại thẻ xanh, tình trạng pháp lý của ông càng trở nên báo động, dẫn đến việc ông trở về quê hương Nam Phi, khi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc Apartheid vẫn đang hoành hành.

Không khó để nhận ra điểm nhấn văn chương của Coetzee vẫn thường trở đi trở lại trong những tác phẩm của ông. Nhân vật chính hầu hết là người đàn ông trung niên, một chút luống tuổi, có vị thế và bị mắc kẹt trong bộ máy chính quyền công chính và những mối quan hệ nhục dục không biết đường tránh. Từ những mối quan hệ này, hình ảnh tàn tạ, đơn độc của người đàn ông được khắc sâu thêm. Văn chương Coetzee mang sắc thái lạnh, một giọng văn tỉnh táo, trưởng thành, nhẹ nhàng nhưng thiếu vận động và nhiệt huyết sáng tạo. Độc giả có lúc tự hỏi, liệu những ám muội này xuất phát từ đâu, để chúng đến với văn chương ông như phong vị riêng, nét độc đáo riêng mà chỉ Coetzee mới tạo được căn phòng ấy, mùi hương ấy, cái lạnh ấy và buổi chiều tàn hôm ấy. Những cảnh đời tỉnh lẻ như bộ ba giải mã những thắc mắc trên, từ chính thâm sâu ở tận gốc rễ.

Tác giả J. M. Coetzee
Ảnh: Washington Examiner

Mẫu hình nhân vật đàn ông.

Mẫu hình nhân vật người đàn ông trở lại trong Những cảnh đời tỉnh lẻ. Nếu trong Ruồng bỏ là vị giáo sư đại học vướng vào lao lý tình yêu với cô sinh viên trẻ, trong Đợi bọn mọi là vị thẩm phán với cô thổ dân cùng nhau đối đầu với bộ máy công chính; thì ở đây là John – cậu bé da trắng, người Afrikan, yếm thế từ trong bản chất và rất dễ tổn thương. Khởi đầu bằng Tuổi thơ là quá trình lớn lên của John nơi bình nguyên Karoo đầy biến động. Tiếp đến là Tuổi trẻ tương ứng với giai đoạn giảng dạy tại Buffalo sau tuổi trưởng thành. Cuối cùng là Mùa hè, khi John trở lại Nam Phi những năm 71, 72. Bộ ba tác phẩm lần lượt lướt qua trường đoạn lớn lên của cậu bé John nơi thị trấn Worcester, để từ đó thấy được những ảnh hưởng sâu rộng đến tâm hồn nghệ sĩ. Sau thảm kịch Sharpeville và những biến động chính trị trong nước, John ôm mộng sang Anh trở thành một nghệ sĩ vĩ đại trong lĩnh vực thơ ca nối gót Pound, Eliot, Ford Madox Ford rồi bị dìm chết bởi những mánh khóe vật chất sinh tồn nơi đây. Cuối cùng về lại Nam Phi, trở thành một người đàn ông bình thường, trong căn nhà bình thường đến khi mất đi, và được thuật lại đầy đủ từ năm 71 bằng cuộc ghi chép một cuốn tiểu sử của Vincent.

Giai đoạn cuộn mình phôi thai trong Tuổi thơ, Coetzee tinh tế đưa John trở về thể dạng của một tạo tác dính nhớp, của một người bấu víu lấy mẹ, muốn bà hy sinh mọi khát vọng cho riêng mình và mắc kẹt trong tình yêu của bà. Đó còn là cậu bé sợ bị đánh roi vì lòng tự cao, yêu thích bãi cát hơn là dòng sông u ám, thích mang giầy hơn đi chân không… Coetzee chuyển hóa bản thân mình sang John bằng sự nhạy cảm đầy cuốn hút, để từ đó thế giới nội tâm dần dà phát triển, trở thành một nhân tế bào hình thành nhân cách của người đàn ông sau này theo nghĩa hẹp hay các nhân vật chính sau này theo lối nghĩa rộng.

Những cảnh đời tỉnh lẻ – Tuổi thơ

Thế giới nội tâm phát triển phong phú hơn mọi điều khác, đơm hoa kết trái, nhân bản theo cấp số nhân triệu triệu tế bào, hình thành nên thể yếm thế được máu nuôi dưỡng. Sự thiếu sót ấy, vẻ yếm thế ấy thể hiện ở cả hai mặt, về những ảo tưởng trở thành nghệ sĩ và những cuộc tình với những người khác. Coetzee hay John trong bộ ba này dường như mắc kẹt trong nỗi cô đơn và sự khốn khổ. Sự đùm bọc của người mẹ làm anh cảm thấy tuy đã 30 nhưng vẫn không hơn là một đứa trẻ. Việc phá trinh của Marianne rồi mặc kệ cô ra về với máu vẫn chảy từ giữa hai chân, về việc Sarah mang thai và anh hoảng lên để cô đi phá chỉ riêng một mình… Từ đầu chí cuối, John thử và lại mắc kẹt; thử lại lần nữa, và vẫn mắc kẹt. John là loại đàn ông không mang bất cứ sự cuốn hút nào đối với phái nữ: anh ngẩn ngơ, tuyệt vọng, rồi tự nghi ngờ để thử với bọn đàn ông, nhưng rồi mọi chuyện lại chẳng tới đâu.

Cái tự diệt ấy cũng đồng thời hiển hiện qua ảo mộng trở thành nghệ sĩ trong cuốn Tuổi trẻ. Rời xa Nam Phi khi bất bạo động chính trị mới vừa diễn ra để chứng minh rằng mỗi con người là một hòn đảo, không cần đến cha mẹ; nay anh sớm nhận ra con đường của Pound, của Eliot, của Picasso vốn không bằng phẳng. Giữa nỗ lực ở lại nơi đất khách quê người bằng việc cố định mình vào việc lập trình cho IBM hay International Computers, giấc mộng thơ ca đã tắt ngấm. Trong những ngày ngồi trước trang giấy trống rỗng không chứa một chữ, những tự vấn lương tâm trong cảnh chán ngán vật chất, nỗi luyến nhớ để lại đằng sau, còn Bộ Nội vụ đang ở phía trước, anh vặn mình rằng: Có gì bất ổn với hắn vậy? Tại sao hắn lại làm cho những điều bình thường nhất trở thành khó khăn là thế với mình? Nếu câu trả lời là bản tính hắn là thế, thì có ích gì khi mang một bản tính như vậy? Tại sao hắn không thay đổi bản tính mình?

Nhưng cái yếm thế một khi gắn vào không thể gỡ ra, nó bám vào ta như loài hà đá, như thép nung chảy, để hàn con người vào tình thế, để rồi rốt cuộc lý do rời khỏi Nam Phi không vì chính trị, không vì chiến tranh, mà bởi trốn chạy khỏi sự nhàm chán, khỏi sự phàm tục, khỏi sự teo tóp của đời sống đạo đức, khỏi nỗi hổ thẹn. Ở đó, John sẽ mãi là một bóng ma, là gã trai trẻ nhàn du quanh thành phố xa lạ, ăn dần khoản tiền để dành của mình, đĩ điếm, làm bộ mình là nghệ sĩ! Từ người chạy trốn bạo động trong nước, giờ đây trở thành chính người viết mã cho máy bay Anh trong Chiến tranh lạnh, lập trình Atlas ở những cuộc chiến rất vô nghĩa khác.

Từ cái yếm thế của nhân vật, Coetzee nhân rộng lên cùng với đại diện là chàng Ganapathy kỹ sư người Ấn không thể tự chăm sóc bản thân mình và cả cha John – người cha lụn bại, sặc sụa trong cơn trầm uất; để đến với đàn ông nói chung, đàn ông của dòng họ Coetzee trên bình nguyên Karoo bao đời để lại, mà nghĩa vụ đầu tiên của những phụ nữ dòng họ này là xoay xở tống dòng máu Coetzee ra khỏi những đứa con mình. Làm thế nào để tống dòng máu slap ra khỏi con người, chị không nói ngay được, ngoài việc mang họ đến bệnh viện cho bơm hết máu ra và thay thế nó bằng máu của người hiến tặng nghiêm khắc nào đó. […] Cậu ấy không có hoạch định. Cậu ấy là người nhà Coetzee, người nhà Coetzee không có hoạch định. Họ không có tham vọng, họ chỉ có những mong mỏi lười nhác.

Nhìn nhận một cách tựu trung, đây là lý giải của Coetzee cho toàn bộ vũ trụ nhân vật đàn ông trong tiểu thuyết của ông, những người lặt lìa trước đàn bà, trước cơn gió cuộc đời nhưng hàn chặt bản thân với nỗi yếm thế tự thân. Với riêng J. M. Coetzee, ông nhìn nhận thế nào về mình thì ta không hề biết. Nhưng ở điểm mấu chốt này, ít nhiều ta hiểu một cách sâu xa các tiểu thuyết này, nơi cái mắc kẹt, cô đơn, khốn khổ vẫn luôn trồi dậy. Một cách tự phẫu từ trong bản chất, Coetzee ít nhiều cung cấp cho ta lý giải nhất thời về văn chương, về con người ông, và trên hơn hết, về xã hội Nam Phi phân cấp vốn không ổn định.

*

Nam Phi với Coetzee như khung chống đỡ cho những giá trị nguyên bản nơi con người ông, nơi tiểu thuyết của ông. Xã hội Nam Phi đầy rẫy biến động trong sự đấu tranh giữa các sắc da, giữa người Da màu, người Bản địa và người Afrikan. Nếu trong Ruồng bỏ là cách mạng giành lại ruộng đất từ nông dân da trắng, trong Đợi bọn mọi là cuộc chiến với người bản địa – người Khoikhoi từ Hy Lạp di cư sang Nam Phi thế kỷ 17; thì trong Những cảnh đời tỉnh lẻ, mối chồng chéo ấy được khái quát hơn, hiển thị rõ hơn nơi thị trấn Worcester như mẫu nhặt ra từ một quần thể, nơi chủ nghĩa phân biệt chủng tộc khoa học vẫn đang diễn ra, mà các biểu hiện là dùng cảnh sát kiểm soát văn hóa, quân phiệt lớp trẻ, tín ngưỡng nhà nước…

Một trong những chủ đề thường xuất hiện trong văn chương của Coetzee giai đoạn sau này là quyền động vật. Trong Những cảnh đời tỉnh lẻ, đề tài này cũng tìm cách len lỏi vào nơi trang trại Voëlfontein, nơi John về chơi vào một mùa hè, loài cừu bị giết một cách man dại trong khi những con còn lại be be bình thản mà không biết gì, đặt trong bối cảnh đối nghịch – góc nhìn của một cậu bé như John lúc này, gợi lên những điều suy tư. Và người nghệ sĩ không thành ấy biến hóa bản thân tựa như loài cừu, chỉ đợi biến động chính trị giày nát bày đàn thế hệ; và cũng có khi, là những ám ảnh theo suốt khi anh trở về Nam Phi từ Mỹ trục xuất, đã không thể ăn những món từ cừu trong cuộc họp mặt.

Với bộ ba Những cảnh đời tỉnh lẻ, J. M. Coetzee lần đầu tiên mở khóa cho người đọc thâm nhập vào những gì đã cấu thành nên một Coetzee vốn từ trước đến nay ta vẫn quen thuộc. Bộ ba tác phẩm là vũ trụ thu nhỏ của những gì rất Coetzee, những gì thuộc về và những thứ chỉ Coetzee mới viết ra được; vừa giả tưởng như cuộc đời cậu bé vô danh John giữa những biến động chính trị, giữa tầm hồn quá ư nhạy cảm, giữa mộng nghệ sĩ không thành; vừa bán tự truyện như lời phân trần, giãi bày và mở rộng ra cho ai muốn hiểu thêm về nhà văn ấy, người có tầm cỡ trí óc và đặc biệt là năng lực tưởng tượng phát triển trên mức bình thường, và cái giá phải trả chính là phần “con” bên trong anh ấy. Anh ấy là Homo sapiens, thậm chí là Homo sapiens sapiens. Một bộ ba chao đảo, một bán tự truyện vô tiền khoáng hậu với bút pháp bậc thầy. Một Coetzee đã một lần và chắc chắn sẽ không bao giờ mở lòng như thế. Tuyệt đẹp.

Hết.

minh.

*

Đọc những bài viết của minh.

Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng