Trà chiều

Nghịch lý trong việc thi văn và đọc văn bản văn học của chúng ta

Published

on

Nhân dịp đọc đáp án thi Tốt nghiệp Văn 2019, mình nhớ lại mùa thi tốt nghiệp THPT năm 2006. Thi xong môn Ngữ văn, mình và đám bạn thở phào coi như trút bỏ được nỗi “phiền phức” đã đeo bám suốt mấy năm Phổ thông. Ra khỏi phòng thi, bạn bè hỏi làm bài thế nào, mình chỉ nói rằng câu nghị luận mình viết được mười chín dòng, sau đó nhảy lên xe đạp đi về.

Nghịch lý là ở chỗ, mình rất yêu văn chương và nhận được sự giáo dục của Ông già từ sớm. Ông già mình mặc dù là một nhà vật lý (thế hệ Liên Xô) nhưng ông rất coi trọng việc học văn. Để lấy ví dụ thì vào năm lớp 9, ông đã biên tập cuốn truyện Nắng ban mai – tác phẩm đầu tay của Phạm Tiến Duật (khi đó học lớp 12 – bạn thân của ông Bác mình). Ông già có phương pháp rất cơ bản, ông chỉ hướng mình tới hai việc: một là “thấy sao viết vậy, nghĩ sao viết vậy, viết sao nghĩ vậy, viết sao nói vậy” và thứ hai là “phải đọc thật nhiều và đọc đi đọc lại văn bản văn học”.

Năm bảy tuổi mình đọc truyện rất hăng, vì mới biết đọc nên rất khoái, đọc lấy đọc để. Ông già đưa ngay cho cuốn Thời thơ ấu của Maxim Gorky. Ở tuổi lên bảy thì đây có thể coi là một tác phẩm khó đọc. Đặt cạnh những Dế Mèn phiêu lưu ký hay Cuộc phiêu lưu của Tom Sawyer thì nó là truyện đòi hỏi kĩ năng đọc cao hơn. Mình đọc chậm chậm, vừa đọc vừa phải kể lại cho Ông già nghe, chỗ nào kể chưa phù hợp, chưa đúng thì ông chỉnh sửa lại. Hai bố con đọc ròng rã một truyện như vậy suốt một mùa hè.

Ấn tượng thời nhỏ của mình về Thời thơ ấu là hình ảnh A-Lếch-Xây đứng cạnh một cái cây khẳng khiu khắc khổ, Bà ngoại hiền hậu, mảnh sân sau tù đọng đầy những kẻ nát rượu, nóc lò sưởi cũ, Ông ngoại khó tính và người Mẹ bất hạnh xuất hiện loáng thoáng như để làm trọn vẹn thêm sự cô đơn của đứa con. Đọc xong chỉ biết có thế, đến năm chín tuổi lại đọc lại một lần nữa, hiểu hơn một chút, mười hai tuổi lại đọc, lại hiểu hơn một chút, cứ thế cho đến tận bây giờ. Từ một cậu bé đọc văn bản văn học, dần dần mình đã bắt đầu đọc nó với thái độ đọc một văn bản có giá trị phê bình văn học (theo cái cách mà Ông già thường nhấn mạnh ở tác phẩm này).

Và đó là sự tiếp nhận văn bản mà mình áp dụng từ nhỏ. Đến năm 25 tuổi, khi vợ chồng anh trai mình sinh cháu thì cũng là lần đầu tiên mình xúc động rơi nước mắt trong một chương của Thời thơ ấu – dưới ảnh hưởng từ những cảm xúc riêng tư đến từ đứa cháu bé bỏng. Ở thời điểm ấy, với vốn sống, sự quan sát, khả năng mô hình hóa cùng sự liên tưởng đã làm việc “đọc” của mình đối với văn bản đó có thể gọi là “đạt”. Và như thế thì một văn bản văn học trở thành một tác phẩm văn học.

Có tồn tại một khoảng đệm giữa hai khái niệm nói trên. Quá trình ấy được gọi là “tiếp nhận”. Giá trị duy nhất của lý thuyết tiếp nhận là lý thuyết này đề cao thành tố bạn đọc khi cho rằng văn bản văn học chỉ trở thành tác phẩm văn học khi đã có sự “đọc”. Quá trình này chỉ diễn ra khi người thầy không được phép “đọc hộ” học trò. Tuy nhiên đây lại là thứ diễn ra một cách hiển nhiên trong cách dạy học văn ở Việt Nam.

Nghịch lý là ở chỗ đó.

Thầy “đọc hộ” trò, trò chưa biết gì thì thầy đã nhồi nhét một hằng hà sa số các ý kiến nhận định, gán ghép cho văn bản một loạt những “giá trị” văn học mà thậm chí chính người dạy đôi khi còn hoài nghi về nó. Tất nhiên, giáo dục văn chương ở tuổi thiếu niên cần hướng tới các văn bản có tính “trường quy” (hướng tới lứa tuổi cụ thể với trình độ, nhận thức ở lứa tuổi đó), thế nhưng nhiệm vụ của người thầy có lẽ nên đẩy mạnh ở việc hướng dẫn và gợi ra các vấn đề khái quát cho học sinh. Điều này phải dựa trên nền tảng lý luận của người dạy thì bài giảng mới hay. Lý luận văn học thì có liên quan đến văn bản, cốt truyện, phong cách ngôn ngữ nghệ thuật, thể loại văn học, quá trình văn học và phong cách văn học, cấu trúc, hình tượng, luật thơ… Tất nhiên, có lẽ chỉ có một số lượng rất ít giáo viên THPT nắm vững các vấn đề này vì nó đòi hỏi kiến thức liên ngành (ngành dọc và ngành ngang).

Cũng phải thẳng thắn nhìn nhận sự thật là nhiều giáo viên văn đọc sách không nhiều và ít cập nhật. “Đọc” ở đây không phải chỉ là đọc những kiến thức chuyên môn phục vụ cho việc giảng dạy một chuyên ngành, một cấp, một bài… mà đọc mọi lĩnh vực, thậm chí cả lĩnh vực khoa học tự nhiên. Có tri thức đa ngành như vậy, khi giảng dạy mới có thể tích hợp một cách tự nhiên vào giờ dạy. Dạy văn thì phải tích hợp và rất cần “tích hợp dọc”, nghĩa là liên hệ các vấn đề văn chương với triết học, lịch sử, nghệ thuật. Giáo viên văn của chúng ta, nhiều thầy cô cả đời chỉ đọc một hai tác phẩm luận và chỉ biết đúng một vài vấn đề nghệ thuật trong nội dung giảng dạy. Vượt ra các tác giả hay phong trào văn học, nghệ thuật của những nền văn hóa bề thế như văn học Anh hay văn học Đức thì có thể nói là thầy thường kém cả trò (trong tính đa dạng). Trên cái nền đơn sơ đó, thẩm mĩ văn chương của người dạy không đủ để thuyết phục người nghe và rồi ở cái cương vị giáo viên thiếu chiều sâu thì hẳn sẽ dẫn tới giáo điều.

Ba năm cấp ba mình đã được chứng kiến điều này đủ nhiều để hiểu rằng nó gây ra những tổn thương lớn ra sao đến người đi học.

Nghịch lý là ở cả thầy và trò.

Văn chương thì đẹp đẽ nhưng học sinh Việt Nam sẽ hò reo nếu môn này được loại ra khỏi danh sách môn thi bởi vì các em không được dạy tiếp nhận văn bản. Quá trình tiếp nhận văn học là rất quan trọng, phải có thảo luận, phải có đặt vấn đề và phải tự do. Bởi vì từng cá nhân có trải nghiệm, vốn sống, cá tính khác nhau nên cách tiếp cận văn bản sẽ có khác nhau. Giả sử khi học Truyện Kiều, có thể khẳng định tất cả các giáo viên văn ở ta đều là bậc thầy về “ca ngợi” Truyện Kiều, bởi vì phần lớn họ chỉ làm đúng một cái việc như vậy trong đời. Tác phẩm có thể rất hay, thế nhưng cứ bám riết vào nó thì người thầy không tránh khỏi việc “khua môi múa mép”. Thời mình đi học, có lần phát biểu thấy rằng Truyện Kiều nội dung quanh quẩn, một đôi nam nữ đêm hôm trèo tường trổ ngõ yêu đương, về phong hóa đạo đức phong kiến có thể coi là việc làm bất chính, vậy sao có thể đem ra răn dạy người đời sau. Để đáp lại, cô giáo chỉ nói rằng phát biểu ấy rất linh tinh và thảo luận dừng lại luôn (!). Đó chính là cái thiếu sót của người giáo viên khi không nhận ra rằng học sinh được phép tiếp nhận văn bản theo hướng có logic – mà ý kiến ở trên đã đạt được một mức độ cụ thể.

Thế nên, học sinh học văn của ta, phần lớn là những em chuyên về “ngợi ca”, “Vẽ phấn bôi son, tô toàn màu đỏ; La liệt đầy đường hoa nở, chim kêu”, chứ các em đó còn ở rất xa với cái gọi là “có ý kiến” về văn học. Có rất nhiều em tán “Kiều” tới bến nhưng lại chưa từng đọc hết toàn bộ văn bản này. Một số khác thì thờ phụng Tố Hữu dù có thể các em mới đọc được độ vài ba bài thơ của ông. Và ngoài các văn bản trong sách ra thì gần như các em không đọc thêm bất cứ thứ gì khác.

Nghịch lý cũng là ở chỗ đó.

Năm mình mười lăm tuổi, sau khi mình trình bày các lý do để không cổ súy cho thơ Tố Hữu xong, Ông già mình đưa luôn cho tập thơ Việt Bắc và bảo rằng mình cần thận trọng hơn bởi vì các ý kiển ấy chỉ mới dựa trên vài ba bài thơ thì còn phiến diện lắm. Mình thừa nhận, rồi mình đọc hết ba tập: Từ ấy, Việt Bắc, Gió lộng. Đọc xong thì mình tin ở cái nhận định rằng đem so cả tập Việt Bắc của Tố Hữu cũng không bằng một bài Cha tôi của Lê Đạt. Truyện Kiều cũng thế, có lẽ mình là học sinh duy nhất trong lớp đã đọc hết văn bản này từ đầu đến cuối. Sau quá trình “đọc” rất nghiêm túc thì Ông già tôn trọng các ý kiến của mình vì ông thấy rằng mình có lý trong việc “yêu”, “ghét” cụ thể.

Tuy vậy, điều này khó lòng xảy ra trong nhà trường của chúng ta, nơi mà học sinh được rèn để “tán” một câu cho hay, “nịnh” một lối cho lạ. Quá trình này tạo ra những học sinh hoàn toàn không có “ý kiến” gì cụ thể – các em chỉ chăm chăm xem thầy cô ngả theo bên nào thì các em ngả theo bên đó và cạnh tranh nhau ở cái sự khéo léo mà thôi. Khi ra đời, các em cũng sống như vậy, trở thành những kẻ thiếu chính kiến. Điều này trái ngược với những nền giáo dục tiên tiến khi mà học sinh phải chú trọng việc đặt ra vấn đề của chính mình sau quá trình đọc văn bản. Phương pháp đọc hiểu giúp học sinh trở nên thành thạo trong việc viết luận. Bài luận của trẻ con phương Tây thì được đánh giá dựa trên độ sâu, sự mới mẻ và đa dạng trong cách tiếp cận vấn đề. Nó không phải là chuyện vặn vẹo, lý sự trong cách nghĩ – mà chỉ đơn giản là đòi hỏi người đọc cần phải đọc nhiều, đọc rộng và phải có ý kiến riêng. Đôi khi có dịp hướng dẫn sinh viên nước ngoài hệ đại học thảo luận mình cũng vẫn áp dụng cách này và mình thường phải tự đọc thêm rất nhiều vì sinh viên châu Âu có vốn hiểu biết xã hội rất đa dạng.

Học sinh Việt Nam có thể viết được những bài văn dài, muồi mẫn, theo một dàn ý phức tạp và áp dụng nhiều kĩ thuật viết lách. Thế nhưng bao trùm lên chúng, người chấm bài khó đánh giá được cá tính hay phẩm chất chất của người viết. Bởi vì về cơ bản thì những điều mà học trò viết ra, phần lớn chứa đựng sự dối trá ở các mức độ khác nhau. Như mười ba năm trước, khi mình làm bài thi, thì đó là mười tám dòng dối trá, có nhiều bạn khác thì là ba mươi dòng, hoặc thậm chí là ba – bốn tờ giấy thi là chuyện bình thường.

Nghịch lý nó là như vậy.

Rõ ràng, quá trình “tiếp nhận” xảy ra ở giữa việc đọc văn bản văn học và hiểu tác phẩm văn học ở Việt Nam còn bị xem nhẹ. Và khi đó ta cần phải đặt ra câu hỏi rằng: Giáo dục văn chương cuối cùng chỉ dừng lại ở việc rao giảng để ngăn cản học sinh được nêu lên ý kiến thực sự của mình hay sao?

Giáo dục có ảnh hưởng tới xã hội. Thời nào cũng thế, xã hội loạn cũng chỉ bởi con người ta nói dối thành quen.

Ảnh: Cuối tuần đi bảo tàng đang có triển lãm đôi của Mantegna và Bellini (bộ sưu tập từ thế kỉ XV), tình cờ mình gặp môt bác giáo già đang đứng cặm cụi chép tranh. Lúc sau nói chuyện phiếm bác bảo tuần trước sinh viên tao nó đặt các câu hỏi cũng hay mà tao không trả lời được nên cuối tuần đến đây vẽ nghiên cứu bằng chì một vài bức, may ra giải đáp được phần nào các vấn đề của sinh viên. Cũng giống như hội họa, văn học khó có chuẩn mực chung nhất, người ta phải dành cả đời để tiếp nhận nó một cách trung thực.

Hết.

Lê Quang


Những bài viết có cùng chủ đề



4 Comments

4 Bình luận

  1. Pingback: Văn chương & Toán học: Vì sao chẳng dễ dàng chinh phục cả hai lĩnh vực? – Bookish

  2. Pingback: “Tại sao cậu lại viết văn?” – Bookish

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng