Phía sau trang sách

Máu bẩn: Công nhận… bẩn thật

Published

on

Năm năm trước, công ty xét nghiệm máu Theranos đã hóa rồng trong mắt các nhà đầu tư nhờ một bài báo có tiêu đề chơi chữ – “Bloody Amazing”1 – trên tạp chí Fortune. Năm 2019, Theranos chỉ còn là hơi tàn ngày cũ, một bóng ma có giá trị duy nhất là trở thành điển tích để giới đầu tư cảnh giác và toàn bộ phần còn lại của thế giới chế nhạo. Nhìn lại một cách khách quan, không phải ăn may mà Theranos làm nên chuyện. Những chiến thuật lắt léo của người sáng lập và nhà lãnh đạo công ty – Elizabeth Holmes – đã vượt qua những trò lừa gạt thông thường: đằng sau sự vút bay và chìm xuồng chóng vánh của Theranos là một hệ thống gian lận tinh vi, nhưng cốt lõi của nó là thứ mà tôi tạm gọi là cú lừa nhân cách. Theranos từng là một công ty “kỳ lân” có định giá ngất ngưởng, và Elizabeth cũng được đối xử trịnh trọng như nữ hoàng trên một bàn tiệc quản trị đầy những bố già trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự. Vâng, hội đồng giám đốc của cô chẳng có ai chuyên về nghiên cứu khoa học đâu.

Hiển nhiên đó nên là dấu hiệu cảnh báo sớm đến các nhà đầu tư và công chúng mới phải. Nhưng cô vẫn là thiên tài của Thung lũng Silicon, cho đến khi John Carreyrou – nhà báo hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá – xuất hiện, như một con cá mập đánh hơi thấy mùi máu (bẩn) trong nước và lần lượt vạch trần bộ mặt thật của Elizabeth và Theranos. Thật khôn khéo, nhát đao khai tử Theranos cũng mang cái tên máu me chẳng kém, đồng thời cũng là cú ghi bàn để đời trong sự nghiệp lẫy lừng của John. Cú ghi bàn ấy chính là Bad Blood (Máu bẩn).

Truyền thuyết về con rồng (hay là con kỳ lân) rỗng ruột

Lần đầu tiên tôi biết đến cái tên Elizabeth Holmes là vào khoảng năm 2014. Elizabeth xuất hiện trên Business Insider, trong một bài báo tiêu đề tôi chẳng nhớ rõ, nhưng phần trực quan thì ấn tượng hơn hẳn: một cô gái trong trang phục đen từ đầu đến chân, đôi mắt xanh lơ to tròn (rất, rất tròn) nhìn chằm chằm vào ống kính máy ảnh (và tôi). Nội dung bài báo tôi cũng không còn nhớ chi tiết, nhưng đại khái là bức chân dung về một người phụ nữ trẻ đã phát minh ra công nghệ xét nghiệm máu tân tiến, hứa hẹn tạo nên bước đột phá thần kỳ trong lĩnh vực công nghệ và y tế: chỉ với một giọt máu chích trên đầu ngón tay (thay vì lấy một ống máu từ ven tĩnh mạch), chiếc máy kích cỡ nhỏ như lò nướng của cô có khả năng thực hiện tất tần tật mọi loại phân tích và xét nghiệm chỉ trong một thời gian ngắn. Quan trọng hơn, cô là phụ nữ. Một người phụ nữ thành đạt, nghiêm cẩn và đang vẽ ra một chương mới trong ngành công nghiệp vốn thống trị bởi đàn ông.

Thời điểm ấy, Elizabeth Holmes đã để lại trong tôi một ấn tượng khá sâu sắc (bằng chứng là năm năm sau tôi vẫn nhớ về cô). Tuy nhiên, không giống nhiều người (đa số là nữ) sẽ mang cô ra làm hình mẫu phấn đấu, tôi không dành nhiều thời gian để tìm hiểu thêm. Nhưng cảm giác của tôi lúc ấy là thứ hỗn hợp pha trộn giữa hoài nghi và hy vọng. Tôi nhận ra những bài báo viết về cô thiếu những dẫn chứng khoa học đến khó tin, nhưng nói theo cách nào đó, đây cũng là điều hiển nhiên: với những công ty như Theranos, bí mật công nghệ là sống còn. Nền tảng học thuật của cô cũng không vững vàng để thuyết phục cái phần nghi kị trong tôi, nhưng biết đâu cô là thiên tài (ha!), và cô có một bộ sậu nhà khoa học và nghiên cứu viên giúp hiện thực hóa tầm nhìn của cô. Dù gì Steve Jobs cũng đâu phải là kỹ thuật viên!

Quên bẵng đi câu chuyện đó, lần tiếp theo Elizabeth để lại ấn tượng trong tôi là khi cô và công ty Theranos bị phanh phui lừa đảo trong khâu kiểm định chất lượng, gian lận tài chính và vô số những cáo buộc khác (từ dân sự đến hình sự).

Máu bẩn của John Carreyrou là cuốn sách lý giải những tác động đến hành trình chuyển mình của Elizabeth, từ một thần đồng tại Thung lũng Silicon đến một tội nhân bị vô số người mỉa mai và giễu cợt trên Internet. Sử dụng cấu trúc không-thời gian tương đối lộn xộn, Máu bẩn lại truyền tải một thứ ý tưởng vô cùng liền mạch và dễ hiểu: câu chuyện một dũng sĩ (hoặc nhiều dũng sĩ) tiêu diệt con rồng độc ác, đáng sợ và rỗng ruột. Mở đầu với một “vụ án”: giám đốc tài chính của Theranos, Henry Mosley, người vốn rất tin tưởng và nể phục Elizabeth, sau khi phát hiện những lỗ hổng tài chính và nghi kỵ về đạo đức làm việc, đã cố gắng cảnh tỉnh cô. Những tưởng lời khuyên răn của Mosley sẽ có tác dụng, nhưng không, màn can thiệp (không được chào đón) của ông rước lấy kết cục là ông lập tức bị đá khỏi chức vụ giám đốc tài chính. Sau đó, vị trí của ông cũng không được thay thế. Theranos hoạt động trong mười năm sau đó mà không hề có CFO2.

Việc Mosley bị sa thải không hề là ngoại lệ trong công ty này. Trái lại nó là thông lệ, là một cái mụn nhọt cảnh báo vô số những khối u tiềm tàng ẩn mình trong công ty. Phó Chủ tịch Điều hành của Theranos, Ramesh “Sunny” Balwani, là một người đàn ông trạc 40 tuổi, gốc Ấn Độ. Nếu bạn hỏi đa phần các cựu nhân viên thì sở dĩ ông ta bò lên được cái chức này là vì… ông ta là bồ của Elizabeth. Với chế độ gia đình trị mà điển hình là sự hiện diện sừng sững của Sunny, một kẻ thiếu kiến thức, thiếu năng lực, thái độ kiêu căng và miệt thị nhưng lại nắm trong tay quyền hành quan trọng thứ hai trong công ty, văn hóa doanh nghiệp của Theranos dựa trên việc theo dõi, gây áp lực và khủng bố nhân viên nếu cần thiết; ban lãnh đạo giấu nhẹm thông tin; những người có đầu óc và chính kiến bị chèn ép trong khi những kẻ thiếu kinh nghiệm và giỏi xu nịnh lại trèo lên được vị trí cấp cao.

Nhưng môi trường làm việc chỉ là một rắc rối “sương sương” của Theranos. Gót chân Asin của nó cũng chính là thứ mà công ty này huênh hoang phô diễn trên các tạp chí báo đài có tiếng có miếng: công nghệ. Theranos biến thành một chú kỳ lân tại Hoa Kỳ là do lời tuyên bố chắc nịch của Elizabeth: cô có thể cách mạng hóa ngành xét nghiệm máu bằng cách dùng chỉ một giọt máu chích trên đầu ngón tay để xét nghiệm đủ mọi loại bệnh trên đời. Đáng ngạc nhiên hơn, những xét nghiệm này được tiến hành bằng một chiếc máy nho nhỏ có thể đặt tại nhà, với quy trình dễ dàng thực hiện bởi bất kỳ ai và cho kết quả chỉ sau một thời gian ngắn. Tưởng tượng mà xem, với những bệnh nhân mắc bệnh mãn tính, những người hàng ngày phải thực hiện vô số cuộc chích máu như tra tấn (mỗi lần lấy cả ống máu và chờ lâu lắc), nếu công nghệ này có thật, Theranos sẽ trở thành cứu tinh. Đồng thời, nó sẽ phát triển thành thế lực không thể coi thường trong rất nhiều ngành nghề: bán lẻ (với hệ thống phân phối khắp quốc gia, những chuỗi bán lẻ sẽ giúp công nghệ Theranos dễ dàng tiếp cận với khách hàng trên diện rộng), quân đội (thay vì phải bưng nguyên một phòng thí nghiệm lên chiến trường để xét nghiệm xem các binh sĩ có nhiễm bệnh tật gì không), và dĩ nhiên, y tế.

Vấn đề là, công nghệ này không có thật.

Trong bốn năm học đại học, tôi từng tham gia và theo dõi khá nhiều các cuộc thi khởi nghiệp. Có một bi kịch thường thấy là, giữa ý tưởng sơ khai và quá trình hiện thực hóa tồn tại mâu thuẫn rất lớn. Ý tưởng quá tầm thường, bạn sẽ không được ban giám khảo (hoặc nhà đầu tư) chú ý đến. Ý tưởng quá trên trời, quá trình hiện thực hóa của bạn sẽ là một cơn ác mộng, và thường dự án ra đời sẽ chứa đầy những lỗ hổng chỉ chực chờ ban giám khảo đâm chọt và bạn phải dùng đến tài chém gió của mình để khỏa lấp những khiếm khuyết ấy. Một chiêu mà tôi từng, e hèm, áp dụng trong phần vấn đáp là, khi người am hiểu rõ nhất về dự án đã tắc tị trước những cú đâm chọt lắt léo của ban giám khảo, thì người mồm mép nhất sẽ lên sàn để dẫn câu chuyện về một cái kết êm xuôi và đằm thắm hơn, để ban giám khảo quên phứt mấy cái lỗ chướng mắt ấy.

Đó chính là chiến lược mà Elizabeth Holmes và Theranos đã áp dụng khi bất cứ ai bày tỏ sự quan ngại về các lỗ hổng công nghệ. Tôi sẽ không mô tả cụ thể về công nghệ xét nghiệm tại Theranos (spoiler!) nhưng dễ đoán thôi, nó là một thảm họa. Chuyện kinh dị là mức độ thảm họa của nó. Hai đời máy phân tích đều không đáp ứng được những lời hứa hẹn của Elizabeth. Trục trặc ở khắp mọi khâu: việc dùng chỉ một giọt máu chích từ đầu ngón tay để phục vụ cho tất cả các loại xét nghiệm là không tưởng. Những chiêu thức lừa đảo liên tục được áp dụng để khỏa lấp những trục trặc trong quá trình vận hành. Có lẽ cái duy nhất mà nó tạo ra ấn tượng tốt đẹp là cái vỏ (Elizabeth là fan cuồng nhiệt của Steve Jobs; cô luôn muốn các thiết kế sản phẩm của mình phải có diện mạo thời thượng như của Apple). Và tương tự, đứng trước sự chất vấn và nghi hoặc ít nhiều của đối tác và chính phủ, thứ duy nhất có giá trị, cũng là thứ cứu sống cả Theranos (với đầy rẫy những lỗ hổng cùng tốc độ thay đổi nhân sự khó tin, ám chỉ một môi trường làm việc thiếu lành mạnh) có lẽ chính là cái vỏ Elizabeth.

*

“…đưa Elizabeth trở thành gương mặt đại diện cho Theranos là bước đi hoàn toàn hợp lý. Cô là công cụ marketing đắc lực nhất cho công ty.”

Đó là câu nói của Patrick O’Neill, cựu giám đốc sáng tạo của hãng quảng cáo sừng sỏ TBWA\Chiat\Day (và sau này đầu quân trở thành giám đốc sáng tạo của Theranos). Tôi nghĩ Patrick có chút nói giảm nói tránh. Elizabeth chính là công cụ đắc lực nhất của công ty. Nếu Theranos là một công ty bán hàng thông thường, câu nói này là tinh hoa của trí khôn. Nhưng Theranos là công ty công nghệ y tế, một công ty hứa hẹn sẽ thay đổi cả làng khoa học. Một công ty như vậy mà tài sản đáng giá nhất lại là nhà sáng lập không có nền tảng vững chắc về khoa học và y tế thì đó lại là cả một vấn đề. Tuy nhiên, không ai nhìn ra được vấn đề đó.

Cú lừa đảo lớn nhất mà Theranos dành cho thế giới là cú lừa nhân cách, mà Elizabeth Holmes là biên kịch, đạo diễn và diễn viên chính trong vở lừa này. Elizabeth có sức mê hoặc không tầm thường, sức mê hoặc đã lôi kéo được rất nhiều nhân vật có sức ảnh hưởng vào tròng: từ cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, George Shultz đến ông trùm để chế truyền thông Mỹ Rupert Murdoch. Từ nhỏ, Elizabeth đã nung nấu tham vọng làm giàu. Vài năm sau khi nhập học Stanford, cô chính thức bỏ học để cống hiến toàn thời gian cho Theranos (tình tiết này nghe quen không?). Một huyền thoại luôn cần một câu chuyện. Và câu chuyện của Elizabeth có khởi đầu lý tưởng: nó có chút gia vị quen thuộc của vô số những tỷ phú công nghệ khác, nhưng nó có một cú twist hoàn hảo: cô là một phụ nữ trẻ, và cô không khởi nghiệp bằng công nghệ mà bằng khoa học.

Với một xuất phát đáng gờm như vậy, Elizabeth bắt đầu dùng cái đầu lạnh của mình để phát triển Theranos. Nội bộ công ty là một đống rối nùi, nhưng với người ngoài, Elizabeth tạo nên những màn trình diễn xuất thần. Cô dần học đươc những chiêu trò bán hàng thực thụ: cô bắt đầu xây dựng thương hiệu cá nhân từ việc mặc áo đen cổ lọ (một dấu hiện khác gợi nhắc đến thần tượng quá cố của cô), cô biến giọng nữ cao của mình thành giọng nam trầm (một bước đi khôn ngoan để khiến bản thân thêm uy quyền khi làm việc với đa số đồng nghiệp và đối tác nam). Thế nhưng, thứ vũ khí nhân cách lớn nhất của Elizabeth chính là tầm nhìn, là nhiệt huyết không khoan nhượng dành cho Theranos. Những người có khát khao thay đổi thế giới theo hướng tốt đẹp hơn thường tỏa ra hấp lực, và nếu giấc mơ ấy thêm chút cảm hứng riêng tư thì càng thêm lôi cuốn và đáng tin. Câu chuyện mà Elizabeth dùng làm mở đầu cho những bài phát biểu của mình, rằng cậu ruột của cô từng mất vì bệnh ung thư, và giá như quá trình xét nghiệm nhanh chóng hơn thì cậu cô đã có thể chẩn đoán bệnh sớm hơn và không qua đời. Theranos ra đời, là để phát hiện bệnh sớm và dễ dàng hơn, để bạn không phải nói lời chia tay đến những người thân yêu quá sớm. Trong một thế giới hỗn loạn, nơi những phát minh công nghệ liên tiếp ra đời để phục vụ cho những thói quen sớm nở tối tàn và thừa thãi của giới trẻ, Elizabeth xuất hiện, với gương mặt điềm tĩnh và đôi mắt sáng ngời, nói về một thế giới mới tươi đẹp, của những đổi thay khoa học, của những bước chuyển cách mạng, và nơi mà đau đớn được giảm thiểu, ai mà không bị mê hoặc? (đặc biệt là những vị tướng già đã bị vô số thương đau mài cho chai sạn).

Giữa hàng hà sa số những nhân vật CEO nổi lên từng ngày trong thế giới công nghệ, Elizabeth chính là một cú hit: ở cô hội tụ đầy đủ những đặc điểm mà người ta đang tìm kiếm trong một hiện tượng truyền thông mới. Cùng với sự giúp đỡ của báo chí, cô thôi miên cả đất nước. Nước Mỹ bị chính những kỳ vọng lớn lao của họ chơi khăm. Cho đến khi John Carreyrou xuất hiện và đập tan ngai vàng của cô.

Ai là người giết rồng?

Từ đầu đến giờ, tôi không nhắc nhiều về tác giả John Carreyrou, bởi trong Máu bẩn, ông cũng không nhắc nhiều về chính mình. Mãi đến khoảng một trăm trang cuối, John mới xuất hiện (như trùm cuối). Lý giải cho sự xuất hiện muộn màng của ông, tôi nghĩ một phần vì cuốn sách nên là sân khấu của Theranos, một phần vì John không phải là người vạch trần theo nghĩa bóng: những dấu hiệu sai phạm của Theranos vốn đã xuất hiện sẵn rồi, chỉ cần chờ người kết nối các điểm lại thôi. Và ai phù hợp hơn ông, phóng viên kỳ cựu của tờ Wall Street Journal, từng hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá và vừa hoàn thành một cuộc điều tra về vụ lừa đảo của Medicare?

Theo ý kiến cá nhân tôi, phần cuối của Máu bẩn có chút hụt hơi khi so với đoạn đầu. Có nhiều yếu tố tác động: có thể do sự hồi hộp của tôi khi chờ ngày tàn của Theranos đã bị xẹp xuống ít nhiều, hoặc là do John không thể công bố quá nhiều thông tin do nhân chứng cung cấp trong quá trình điều tra. Hoặc có thể, phần cuối của cuốn sách đã không còn là thần thoại về chuyện xiên một con rồng – mà nó đã biến thành một câu chuyện thông thường kể về một người đàn ông bất chấp những lời dọa dẫm đe nẹt từ phía binh đoàn luật sư để vạch trần một công ty gian trá. Câu chuyện này dĩ nhiên vẫn rất hấp dẫn. Nhưng lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng là con rồng đã chết ngáp – chết trước khi trùm cuối lên sàn rồi. Cái chết của con rồng là do thứ bệnh độc phát sinh từ bên trong. John Carreyrou chỉ là cánh tay vén rèm phơi bày một bản thể bệnh tật, lắm mồm ra ánh sáng. Còn những người phát hiện căn bệnh này đã xuất hiện từ trước – họ chính là những nhân viên bị Theranos đối xử tệ bạc trước kia, những bác sĩ bị công ty lừa gạt, và những kẻ trục lợi từng gây thù chuốc oán với Theranos. Con rồng không chết vì một nhát kiếm, mà do vô số những vết xẻo từ những người từng bị nó bạo hành.

*

Một chương khiến tôi có ấn tượng nhất trong Máu bẩn kể về cuộc đối đầu giữa Tyler Shultz và George Shultz. Thời điểm này, Theranos vẫn chưa bị John Carreyrou vạch mặt. George hiện là thành viên hội đồng quản trị của Theranos, ông tin tưởng Elizabeth như (chắc là hơn cả) người nhà. Còn Tyler lúc này là cựu nhân viên phòng thí nghiệm Theranos. Anh từ chức vì phát hiện những sai phạm nghiêm trọng trong khâu quản lý chất lượng, cũng như những nỗ lực từ phe cánh Elizabeth để “xào nấu” kết quả thí nghiệm hòng chứng minh công nghệ Theranos vẫn xài tốt. Anh không muốn phản bội lương tâm mình.

Trong cuộc đối đầu này, Tyler đang cố gắng vạch trần những sai phạm của công ty và thuyết phục ông nội mình (vâng, George là ông nội Tyler) rời bỏ hội đồng giám đốc và cứu vãn thanh danh ông trước khi quá muộn. Nhưng George đã từ chối tin tưởng lời nói và bằng chứng từ phía Tyler – người tốt nghiệp chuyên ngành sinh học, từng trực tiếp làm việc trong phòng thí nghiệm Theranos, cháu trai của ông. Phủ nhận những số liệu thực tiễn, ông lựa chọn tin vào tầm nhìn của Elizabeth.

Như đã nói ở trên, những sai phạm của Theranos đã ê hề trước thời điểm John Carreyrou nhảy vào cuộc chơi. Nhưng không một ai hoài nghi về tính trung thực của công ty. Tấm kính màu hồng đã che mắt họ trước sự thật. Tấm kính ấy còn mạnh mẽ đến mức khi đối diện sự thật, George đã lạnh lùng từ chối tin vào đó. Thông tin lý tính và niềm tin cảm tính là một cuộc chơi không cân bằng. Sự không cân bằng này đã đưa Theranos đến đỉnh cao danh vọng. Và, theo một cách nào đó, sự không cân bằng này đã đẩy Theranos xuống vực sâu.

Tôi tự hỏi, nếu một nhà báo khác, không phải là John Carreyrou – một phóng viên dày dạn kinh nghiệm và uy tín vạch trần thì sao? Nếu bạn cảm thấy suy nghĩ này hơi xa vời, hãy nhìn vào cách thế giới tiếp cận với cú rơi của Theranos. Một từ xuất hiện rất nhiều: psychopath (người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội). Psychopath là một cụm từ rất có sức hấp dẫn trong truyền thông, và ở Elizabeth, người ta thấy thấp thoáng đâu đó những đặc điểm nhận dạng: đôi mắt to nhìn chằm chằm vào người đối diện không chút ngại ngần, chứng hoang tưởng hiển hiện trong lời nói và hành động, sự ám ảnh với việc bắt chước Steve Jobs, những lời ngụy biện trắng trợn và biểu hiện không hối cải sau khi Theranos bị vạch trần. Những đặc điểm ngày xưa nâng cô thành anh hùng, nay biến cô thành một kẻ dối trá và bất lương. Tôi tin rằng đã từng tồn tại một Elizabeth thật tâm muốn thay đổi thế giới và thật lòng tin tưởng tuyệt đối vào viễn cảnh trong đầu mình. Tại một điểm nào đó của cuộc chơi, cô đã biến chất, hoặc cái chất bẩn trong đầu cô đã điều khiển cô hoàn toàn. Tuy nhiên, số đông vẫn đơn giản hóa sự ngã ngựa của Theranos, và chưa bao giờ câu nói “Look at her, I knew she was a liar” (Nhìn ả mà xem, tôi đã biết ả là kẻ dối trá mà) lại khiến tôi buồn cười như vậy. Bên cạnh đó, không thể chối cãi rằng văn hóa hoạt động dựa trên thẩm định cá tính và cách gọi vốn “trả trước” của Thung lũng Silicon phải chịu trách nhiệm một phần vì đã tạo điều kiện cho vụ lừa đảo Theranos diễn ra. Cuộc điều tra của John Carreyrou và Wall Street Journal đã một lần đập tan tấm kính màu hồng bằng những kiểm nghiệm của FDA3, tài liệu thanh tra do CMS4 cung cấp, những nghiên cứu bình duyệt, nhưng một lần nữa, tấm kính điềm nhiên tái sinh, chỉ là theo hướng đối lập: nhìn qua nó, đây không còn là truyền thuyết về một con rồng mạnh mẽ vươn vai thức tỉnh nữa. Đây là truyền thuyết về sự suy tàn của một mụ phù thủy cần được tế sống. Và vô tình hay cố ý, Máu bẩn cũng góp phần vào quá trình tái định hình câu chuyện.  

Không phủ nhận những nỗ lực của John Carreyrou trong việc đào sâu và đưa ra những lý giải khoa học và dẫn chứng tương đối cụ thể, nhưng tôi nghĩ, yếu tố khiến Máu bẩn trở thành “Sách kinh doanh hay của năm 2018 do Financial TimesMcKinsey bình chọn” chính là tính kịch nghệ khôn khéo của nó. Khi dùng từ “kịch nghệ”, tôi không có ý nói John đã thêm mắm dặm muối (hay nói dối). Tôi nghĩ rằng, trong nỗ lực xây dựng một câu chuyện có đầu có đuôi, có nguyên nhân có kết quả, ông đã sử dụng lối tường thuật có chọn lọc, bằng cách cân nhắc những tình tiết nổi bật để đưa vào cuốn sách. Máu bẩn là một câu chuyện có thật, với hệ thống người liên quan rất đồ sộ và đa sắc màu, nhưng khéo ở chỗ, họ nằm rất vừa vặn trong những khuôn mẫu nhân vật điển hình tồn tại ở các tác phẩm hư cấu: một gã Phó Chủ tịch Điều hành thô lỗ và độc địa (một tên phản diện đần thối khiến độc giả khinh khỉnh), một nữ doanh nhân thông minh và máu lạnh, thành công trong việc dùng sự duyên dáng của mình để đánh bẫy thế giới (một nhân vật phản diện thông minh hơn, khiến ta vừa nể sợ vừa căm ghét), một nhà nghiên cứu tài năng nhưng có kết thúc bất công và bi kịch (một nốt trầm buồn trong câu chuyện), cùng anh chàng COCC (con ông cháu cha) tồn tại trong một danh gia vọng tộc phức tạp với cả tá luật sư và người nhà ngầm tính toán với nhau. Tinh tế ở chỗ, họ đủ phức tạp để khiến người đọc ghi nhớ; mỗi người có một trường đoạn chuyện kể riêng tư, chỉn chu với cao trào và kết thúc vẹn toàn. Nhưng họ không quá phức tạp để bắt buộc người đọc nhìn nhận họ là những con người có thật với những mâu thuẫn không thể lý giải trong động cơ và cách hành xử. Sự phức tạp của họ tồn tại để phục vụ cho câu chuyện. Tất cả kết hợp với giọng văn báo chí trung lập nhưng nêm nếm một chút phẫn uất từ tốn dâng trào trong câu chữ, Máu bẩn là một kịch bản điện ảnh đang gào thét cần được chuyển thể lên màn ảnh rộng (và đúng là nó sắp lên màn ảnh) chứ không đơn thuần là một cuốn sách với nỗ lực đi tìm sự thật. Tôi, một cách rất cảm tính, thích sự khôn khéo này. Vì ít nhất, nó cũng phục vụ cho một thứ mục tiêu có vẻ tốt đẹp hơn là Theranos.

Hết.

Chú thích:

  1. “Bloody Amazing” (hết sức tuyệt vời) là một phép chơi chữ, trong đó “bloody” vừa có nghĩa là “máu me”, vừa có nghĩa là “hết sức”.
  2. CFO (viết tắt cho Chief Financial Officer): Giám đốc tài chính.
  3. FDA (viết tắt cho Food and Drug Administration): Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ.
  4. CMS (viết tắt cho Centers for Medicare and Medicaid Services): Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid, cơ quan Liên bang quản trị chương trình Medicare Hoa Kỳ.

Mèo Heo

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng