Phía sau trang sách

Máu bẩn: Công nhận… bẩn thật

Published

on

Năm năm trước, công ty xét nghiệm máu Theranos đã hóa rồng trong mắt các nhà đầu tư nhờ một bài báo có tiêu đề chơi chữ – “Bloody Amazing”1 – trên tạp chí Fortune. Năm 2019, Theranos chỉ còn là hơi tàn ngày cũ, một bóng ma có giá trị duy nhất là trở thành điển tích để giới đầu tư cảnh giác và toàn bộ phần còn lại của thế giới chế nhạo. Nhìn lại một cách khách quan, không phải ăn may mà Theranos làm nên chuyện. Những chiến thuật lắt léo của người sáng lập và nhà lãnh đạo công ty – Elizabeth Holmes – đã vượt qua những trò lừa gạt thông thường: đằng sau sự vút bay và chìm xuồng chóng vánh của Theranos là một hệ thống gian lận tinh vi, nhưng cốt lõi của nó là thứ mà tôi tạm gọi là cú lừa nhân cách. Theranos từng là một công ty “kỳ lân” có định giá ngất ngưởng, và Elizabeth cũng được đối xử trịnh trọng như nữ hoàng trên một bàn tiệc quản trị đầy những bố già trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự. Vâng, hội đồng giám đốc của cô chẳng có ai chuyên về nghiên cứu khoa học đâu.

Hiển nhiên đó nên là dấu hiệu cảnh báo sớm đến các nhà đầu tư và công chúng mới phải. Nhưng cô vẫn là thiên tài của Thung lũng Silicon, cho đến khi John Carreyrou – nhà báo hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá – xuất hiện, như một con cá mập đánh hơi thấy mùi máu (bẩn) trong nước và lần lượt vạch trần bộ mặt thật của Elizabeth và Theranos. Thật khôn khéo, nhát đao khai tử Theranos cũng mang cái tên máu me chẳng kém, đồng thời cũng là cú ghi bàn để đời trong sự nghiệp lẫy lừng của John. Cú ghi bàn ấy chính là Bad Blood (Máu bẩn).

Truyền thuyết về con rồng (hay là con kỳ lân) rỗng ruột

Lần đầu tiên tôi biết đến cái tên Elizabeth Holmes là vào khoảng năm 2014. Elizabeth xuất hiện trên Business Insider, trong một bài báo tiêu đề tôi chẳng nhớ rõ, nhưng phần trực quan thì ấn tượng hơn hẳn: một cô gái trong trang phục đen từ đầu đến chân, đôi mắt xanh lơ to tròn (rất, rất tròn) nhìn chằm chằm vào ống kính máy ảnh (và tôi). Nội dung bài báo tôi cũng không còn nhớ chi tiết, nhưng đại khái là bức chân dung về một người phụ nữ trẻ đã phát minh ra công nghệ xét nghiệm máu tân tiến, hứa hẹn tạo nên bước đột phá thần kỳ trong lĩnh vực công nghệ và y tế: chỉ với một giọt máu chích trên đầu ngón tay (thay vì lấy một ống máu từ ven tĩnh mạch), chiếc máy kích cỡ nhỏ như lò nướng của cô có khả năng thực hiện tất tần tật mọi loại phân tích và xét nghiệm chỉ trong một thời gian ngắn. Quan trọng hơn, cô là phụ nữ. Một người phụ nữ thành đạt, nghiêm cẩn và đang vẽ ra một chương mới trong ngành công nghiệp vốn thống trị bởi đàn ông.

Thời điểm ấy, Elizabeth Holmes đã để lại trong tôi một ấn tượng khá sâu sắc (bằng chứng là năm năm sau tôi vẫn nhớ về cô). Tuy nhiên, không giống nhiều người (đa số là nữ) sẽ mang cô ra làm hình mẫu phấn đấu, tôi không dành nhiều thời gian để tìm hiểu thêm. Nhưng cảm giác của tôi lúc ấy là thứ hỗn hợp pha trộn giữa hoài nghi và hy vọng. Tôi nhận ra những bài báo viết về cô thiếu những dẫn chứng khoa học đến khó tin, nhưng nói theo cách nào đó, đây cũng là điều hiển nhiên: với những công ty như Theranos, bí mật công nghệ là sống còn. Nền tảng học thuật của cô cũng không vững vàng để thuyết phục cái phần nghi kị trong tôi, nhưng biết đâu cô là thiên tài (ha!), và cô có một bộ sậu nhà khoa học và nghiên cứu viên giúp hiện thực hóa tầm nhìn của cô. Dù gì Steve Jobs cũng đâu phải là kỹ thuật viên!

Quên bẵng đi câu chuyện đó, lần tiếp theo Elizabeth để lại ấn tượng trong tôi là khi cô và công ty Theranos bị phanh phui lừa đảo trong khâu kiểm định chất lượng, gian lận tài chính và vô số những cáo buộc khác (từ dân sự đến hình sự).

Máu bẩn của John Carreyrou là cuốn sách lý giải những tác động đến hành trình chuyển mình của Elizabeth, từ một thần đồng tại Thung lũng Silicon đến một tội nhân bị vô số người mỉa mai và giễu cợt trên Internet. Sử dụng cấu trúc không-thời gian tương đối lộn xộn, Máu bẩn lại truyền tải một thứ ý tưởng vô cùng liền mạch và dễ hiểu: câu chuyện một dũng sĩ (hoặc nhiều dũng sĩ) tiêu diệt con rồng độc ác, đáng sợ và rỗng ruột. Mở đầu với một “vụ án”: giám đốc tài chính của Theranos, Henry Mosley, người vốn rất tin tưởng và nể phục Elizabeth, sau khi phát hiện những lỗ hổng tài chính và nghi kỵ về đạo đức làm việc, đã cố gắng cảnh tỉnh cô. Những tưởng lời khuyên răn của Mosley sẽ có tác dụng, nhưng không, màn can thiệp (không được chào đón) của ông rước lấy kết cục là ông lập tức bị đá khỏi chức vụ giám đốc tài chính. Sau đó, vị trí của ông cũng không được thay thế. Theranos hoạt động trong mười năm sau đó mà không hề có CFO2.

Việc Mosley bị sa thải không hề là ngoại lệ trong công ty này. Trái lại nó là thông lệ, là một cái mụn nhọt cảnh báo vô số những khối u tiềm tàng ẩn mình trong công ty. Phó Chủ tịch Điều hành của Theranos, Ramesh “Sunny” Balwani, là một người đàn ông trạc 40 tuổi, gốc Ấn Độ. Nếu bạn hỏi đa phần các cựu nhân viên thì sở dĩ ông ta bò lên được cái chức này là vì… ông ta là bồ của Elizabeth. Với chế độ gia đình trị mà điển hình là sự hiện diện sừng sững của Sunny, một kẻ thiếu kiến thức, thiếu năng lực, thái độ kiêu căng và miệt thị nhưng lại nắm trong tay quyền hành quan trọng thứ hai trong công ty, văn hóa doanh nghiệp của Theranos dựa trên việc theo dõi, gây áp lực và khủng bố nhân viên nếu cần thiết; ban lãnh đạo giấu nhẹm thông tin; những người có đầu óc và chính kiến bị chèn ép trong khi những kẻ thiếu kinh nghiệm và giỏi xu nịnh lại trèo lên được vị trí cấp cao.

Nhưng môi trường làm việc chỉ là một rắc rối “sương sương” của Theranos. Gót chân Asin của nó cũng chính là thứ mà công ty này huênh hoang phô diễn trên các tạp chí báo đài có tiếng có miếng: công nghệ. Theranos biến thành một chú kỳ lân tại Hoa Kỳ là do lời tuyên bố chắc nịch của Elizabeth: cô có thể cách mạng hóa ngành xét nghiệm máu bằng cách dùng chỉ một giọt máu chích trên đầu ngón tay để xét nghiệm đủ mọi loại bệnh trên đời. Đáng ngạc nhiên hơn, những xét nghiệm này được tiến hành bằng một chiếc máy nho nhỏ có thể đặt tại nhà, với quy trình dễ dàng thực hiện bởi bất kỳ ai và cho kết quả chỉ sau một thời gian ngắn. Tưởng tượng mà xem, với những bệnh nhân mắc bệnh mãn tính, những người hàng ngày phải thực hiện vô số cuộc chích máu như tra tấn (mỗi lần lấy cả ống máu và chờ lâu lắc), nếu công nghệ này có thật, Theranos sẽ trở thành cứu tinh. Đồng thời, nó sẽ phát triển thành thế lực không thể coi thường trong rất nhiều ngành nghề: bán lẻ (với hệ thống phân phối khắp quốc gia, những chuỗi bán lẻ sẽ giúp công nghệ Theranos dễ dàng tiếp cận với khách hàng trên diện rộng), quân đội (thay vì phải bưng nguyên một phòng thí nghiệm lên chiến trường để xét nghiệm xem các binh sĩ có nhiễm bệnh tật gì không), và dĩ nhiên, y tế.

Vấn đề là, công nghệ này không có thật.

Trong bốn năm học đại học, tôi từng tham gia và theo dõi khá nhiều các cuộc thi khởi nghiệp. Có một bi kịch thường thấy là, giữa ý tưởng sơ khai và quá trình hiện thực hóa tồn tại mâu thuẫn rất lớn. Ý tưởng quá tầm thường, bạn sẽ không được ban giám khảo (hoặc nhà đầu tư) chú ý đến. Ý tưởng quá trên trời, quá trình hiện thực hóa của bạn sẽ là một cơn ác mộng, và thường dự án ra đời sẽ chứa đầy những lỗ hổng chỉ chực chờ ban giám khảo đâm chọt và bạn phải dùng đến tài chém gió của mình để khỏa lấp những khiếm khuyết ấy. Một chiêu mà tôi từng, e hèm, áp dụng trong phần vấn đáp là, khi người am hiểu rõ nhất về dự án đã tắc tị trước những cú đâm chọt lắt léo của ban giám khảo, thì người mồm mép nhất sẽ lên sàn để dẫn câu chuyện về một cái kết êm xuôi và đằm thắm hơn, để ban giám khảo quên phứt mấy cái lỗ chướng mắt ấy.

Đó chính là chiến lược mà Elizabeth Holmes và Theranos đã áp dụng khi bất cứ ai bày tỏ sự quan ngại về các lỗ hổng công nghệ. Tôi sẽ không mô tả cụ thể về công nghệ xét nghiệm tại Theranos (spoiler!) nhưng dễ đoán thôi, nó là một thảm họa. Chuyện kinh dị là mức độ thảm họa của nó. Hai đời máy phân tích đều không đáp ứng được những lời hứa hẹn của Elizabeth. Trục trặc ở khắp mọi khâu: việc dùng chỉ một giọt máu chích từ đầu ngón tay để phục vụ cho tất cả các loại xét nghiệm là không tưởng. Những chiêu thức lừa đảo liên tục được áp dụng để khỏa lấp những trục trặc trong quá trình vận hành. Có lẽ cái duy nhất mà nó tạo ra ấn tượng tốt đẹp là cái vỏ (Elizabeth là fan cuồng nhiệt của Steve Jobs; cô luôn muốn các thiết kế sản phẩm của mình phải có diện mạo thời thượng như của Apple). Và tương tự, đứng trước sự chất vấn và nghi hoặc ít nhiều của đối tác và chính phủ, thứ duy nhất có giá trị, cũng là thứ cứu sống cả Theranos (với đầy rẫy những lỗ hổng cùng tốc độ thay đổi nhân sự khó tin, ám chỉ một môi trường làm việc thiếu lành mạnh) có lẽ chính là cái vỏ Elizabeth.

*

“…đưa Elizabeth trở thành gương mặt đại diện cho Theranos là bước đi hoàn toàn hợp lý. Cô là công cụ marketing đắc lực nhất cho công ty.”

Đó là câu nói của Patrick O’Neill, cựu giám đốc sáng tạo của hãng quảng cáo sừng sỏ TBWA\Chiat\Day (và sau này đầu quân trở thành giám đốc sáng tạo của Theranos). Tôi nghĩ Patrick có chút nói giảm nói tránh. Elizabeth chính là công cụ đắc lực nhất của công ty. Nếu Theranos là một công ty bán hàng thông thường, câu nói này là tinh hoa của trí khôn. Nhưng Theranos là công ty công nghệ y tế, một công ty hứa hẹn sẽ thay đổi cả làng khoa học. Một công ty như vậy mà tài sản đáng giá nhất lại là nhà sáng lập không có nền tảng vững chắc về khoa học và y tế thì đó lại là cả một vấn đề. Tuy nhiên, không ai nhìn ra được vấn đề đó.

Cú lừa đảo lớn nhất mà Theranos dành cho thế giới là cú lừa nhân cách, mà Elizabeth Holmes là biên kịch, đạo diễn và diễn viên chính trong vở lừa này. Elizabeth có sức mê hoặc không tầm thường, sức mê hoặc đã lôi kéo được rất nhiều nhân vật có sức ảnh hưởng vào tròng: từ cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, George Shultz đến ông trùm để chế truyền thông Mỹ Rupert Murdoch. Từ nhỏ, Elizabeth đã nung nấu tham vọng làm giàu. Vài năm sau khi nhập học Stanford, cô chính thức bỏ học để cống hiến toàn thời gian cho Theranos (tình tiết này nghe quen không?). Một huyền thoại luôn cần một câu chuyện. Và câu chuyện của Elizabeth có khởi đầu lý tưởng: nó có chút gia vị quen thuộc của vô số những tỷ phú công nghệ khác, nhưng nó có một cú twist hoàn hảo: cô là một phụ nữ trẻ, và cô không khởi nghiệp bằng công nghệ mà bằng khoa học.

Với một xuất phát đáng gờm như vậy, Elizabeth bắt đầu dùng cái đầu lạnh của mình để phát triển Theranos. Nội bộ công ty là một đống rối nùi, nhưng với người ngoài, Elizabeth tạo nên những màn trình diễn xuất thần. Cô dần học đươc những chiêu trò bán hàng thực thụ: cô bắt đầu xây dựng thương hiệu cá nhân từ việc mặc áo đen cổ lọ (một dấu hiện khác gợi nhắc đến thần tượng quá cố của cô), cô biến giọng nữ cao của mình thành giọng nam trầm (một bước đi khôn ngoan để khiến bản thân thêm uy quyền khi làm việc với đa số đồng nghiệp và đối tác nam). Thế nhưng, thứ vũ khí nhân cách lớn nhất của Elizabeth chính là tầm nhìn, là nhiệt huyết không khoan nhượng dành cho Theranos. Những người có khát khao thay đổi thế giới theo hướng tốt đẹp hơn thường tỏa ra hấp lực, và nếu giấc mơ ấy thêm chút cảm hứng riêng tư thì càng thêm lôi cuốn và đáng tin. Câu chuyện mà Elizabeth dùng làm mở đầu cho những bài phát biểu của mình, rằng cậu ruột của cô từng mất vì bệnh ung thư, và giá như quá trình xét nghiệm nhanh chóng hơn thì cậu cô đã có thể chẩn đoán bệnh sớm hơn và không qua đời. Theranos ra đời, là để phát hiện bệnh sớm và dễ dàng hơn, để bạn không phải nói lời chia tay đến những người thân yêu quá sớm. Trong một thế giới hỗn loạn, nơi những phát minh công nghệ liên tiếp ra đời để phục vụ cho những thói quen sớm nở tối tàn và thừa thãi của giới trẻ, Elizabeth xuất hiện, với gương mặt điềm tĩnh và đôi mắt sáng ngời, nói về một thế giới mới tươi đẹp, của những đổi thay khoa học, của những bước chuyển cách mạng, và nơi mà đau đớn được giảm thiểu, ai mà không bị mê hoặc? (đặc biệt là những vị tướng già đã bị vô số thương đau mài cho chai sạn).

Giữa hàng hà sa số những nhân vật CEO nổi lên từng ngày trong thế giới công nghệ, Elizabeth chính là một cú hit: ở cô hội tụ đầy đủ những đặc điểm mà người ta đang tìm kiếm trong một hiện tượng truyền thông mới. Cùng với sự giúp đỡ của báo chí, cô thôi miên cả đất nước. Nước Mỹ bị chính những kỳ vọng lớn lao của họ chơi khăm. Cho đến khi John Carreyrou xuất hiện và đập tan ngai vàng của cô.

Ai là người giết rồng?

Từ đầu đến giờ, tôi không nhắc nhiều về tác giả John Carreyrou, bởi trong Máu bẩn, ông cũng không nhắc nhiều về chính mình. Mãi đến khoảng một trăm trang cuối, John mới xuất hiện (như trùm cuối). Lý giải cho sự xuất hiện muộn màng của ông, tôi nghĩ một phần vì cuốn sách nên là sân khấu của Theranos, một phần vì John không phải là người vạch trần theo nghĩa bóng: những dấu hiệu sai phạm của Theranos vốn đã xuất hiện sẵn rồi, chỉ cần chờ người kết nối các điểm lại thôi. Và ai phù hợp hơn ông, phóng viên kỳ cựu của tờ Wall Street Journal, từng hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá và vừa hoàn thành một cuộc điều tra về vụ lừa đảo của Medicare?

Theo ý kiến cá nhân tôi, phần cuối của Máu bẩn có chút hụt hơi khi so với đoạn đầu. Có nhiều yếu tố tác động: có thể do sự hồi hộp của tôi khi chờ ngày tàn của Theranos đã bị xẹp xuống ít nhiều, hoặc là do John không thể công bố quá nhiều thông tin do nhân chứng cung cấp trong quá trình điều tra. Hoặc có thể, phần cuối của cuốn sách đã không còn là thần thoại về chuyện xiên một con rồng – mà nó đã biến thành một câu chuyện thông thường kể về một người đàn ông bất chấp những lời dọa dẫm đe nẹt từ phía binh đoàn luật sư để vạch trần một công ty gian trá. Câu chuyện này dĩ nhiên vẫn rất hấp dẫn. Nhưng lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng là con rồng đã chết ngáp – chết trước khi trùm cuối lên sàn rồi. Cái chết của con rồng là do thứ bệnh độc phát sinh từ bên trong. John Carreyrou chỉ là cánh tay vén rèm phơi bày một bản thể bệnh tật, lắm mồm ra ánh sáng. Còn những người phát hiện căn bệnh này đã xuất hiện từ trước – họ chính là những nhân viên bị Theranos đối xử tệ bạc trước kia, những bác sĩ bị công ty lừa gạt, và những kẻ trục lợi từng gây thù chuốc oán với Theranos. Con rồng không chết vì một nhát kiếm, mà do vô số những vết xẻo từ những người từng bị nó bạo hành.

*

Một chương khiến tôi có ấn tượng nhất trong Máu bẩn kể về cuộc đối đầu giữa Tyler Shultz và George Shultz. Thời điểm này, Theranos vẫn chưa bị John Carreyrou vạch mặt. George hiện là thành viên hội đồng quản trị của Theranos, ông tin tưởng Elizabeth như (chắc là hơn cả) người nhà. Còn Tyler lúc này là cựu nhân viên phòng thí nghiệm Theranos. Anh từ chức vì phát hiện những sai phạm nghiêm trọng trong khâu quản lý chất lượng, cũng như những nỗ lực từ phe cánh Elizabeth để “xào nấu” kết quả thí nghiệm hòng chứng minh công nghệ Theranos vẫn xài tốt. Anh không muốn phản bội lương tâm mình.

Trong cuộc đối đầu này, Tyler đang cố gắng vạch trần những sai phạm của công ty và thuyết phục ông nội mình (vâng, George là ông nội Tyler) rời bỏ hội đồng giám đốc và cứu vãn thanh danh ông trước khi quá muộn. Nhưng George đã từ chối tin tưởng lời nói và bằng chứng từ phía Tyler – người tốt nghiệp chuyên ngành sinh học, từng trực tiếp làm việc trong phòng thí nghiệm Theranos, cháu trai của ông. Phủ nhận những số liệu thực tiễn, ông lựa chọn tin vào tầm nhìn của Elizabeth.

Như đã nói ở trên, những sai phạm của Theranos đã ê hề trước thời điểm John Carreyrou nhảy vào cuộc chơi. Nhưng không một ai hoài nghi về tính trung thực của công ty. Tấm kính màu hồng đã che mắt họ trước sự thật. Tấm kính ấy còn mạnh mẽ đến mức khi đối diện sự thật, George đã lạnh lùng từ chối tin vào đó. Thông tin lý tính và niềm tin cảm tính là một cuộc chơi không cân bằng. Sự không cân bằng này đã đưa Theranos đến đỉnh cao danh vọng. Và, theo một cách nào đó, sự không cân bằng này đã đẩy Theranos xuống vực sâu.

Tôi tự hỏi, nếu một nhà báo khác, không phải là John Carreyrou – một phóng viên dày dạn kinh nghiệm và uy tín vạch trần thì sao? Nếu bạn cảm thấy suy nghĩ này hơi xa vời, hãy nhìn vào cách thế giới tiếp cận với cú rơi của Theranos. Một từ xuất hiện rất nhiều: psychopath (người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội). Psychopath là một cụm từ rất có sức hấp dẫn trong truyền thông, và ở Elizabeth, người ta thấy thấp thoáng đâu đó những đặc điểm nhận dạng: đôi mắt to nhìn chằm chằm vào người đối diện không chút ngại ngần, chứng hoang tưởng hiển hiện trong lời nói và hành động, sự ám ảnh với việc bắt chước Steve Jobs, những lời ngụy biện trắng trợn và biểu hiện không hối cải sau khi Theranos bị vạch trần. Những đặc điểm ngày xưa nâng cô thành anh hùng, nay biến cô thành một kẻ dối trá và bất lương. Tôi tin rằng đã từng tồn tại một Elizabeth thật tâm muốn thay đổi thế giới và thật lòng tin tưởng tuyệt đối vào viễn cảnh trong đầu mình. Tại một điểm nào đó của cuộc chơi, cô đã biến chất, hoặc cái chất bẩn trong đầu cô đã điều khiển cô hoàn toàn. Tuy nhiên, số đông vẫn đơn giản hóa sự ngã ngựa của Theranos, và chưa bao giờ câu nói “Look at her, I knew she was a liar” (Nhìn ả mà xem, tôi đã biết ả là kẻ dối trá mà) lại khiến tôi buồn cười như vậy. Bên cạnh đó, không thể chối cãi rằng văn hóa hoạt động dựa trên thẩm định cá tính và cách gọi vốn “trả trước” của Thung lũng Silicon phải chịu trách nhiệm một phần vì đã tạo điều kiện cho vụ lừa đảo Theranos diễn ra. Cuộc điều tra của John Carreyrou và Wall Street Journal đã một lần đập tan tấm kính màu hồng bằng những kiểm nghiệm của FDA3, tài liệu thanh tra do CMS4 cung cấp, những nghiên cứu bình duyệt, nhưng một lần nữa, tấm kính điềm nhiên tái sinh, chỉ là theo hướng đối lập: nhìn qua nó, đây không còn là truyền thuyết về một con rồng mạnh mẽ vươn vai thức tỉnh nữa. Đây là truyền thuyết về sự suy tàn của một mụ phù thủy cần được tế sống. Và vô tình hay cố ý, Máu bẩn cũng góp phần vào quá trình tái định hình câu chuyện.  

Không phủ nhận những nỗ lực của John Carreyrou trong việc đào sâu và đưa ra những lý giải khoa học và dẫn chứng tương đối cụ thể, nhưng tôi nghĩ, yếu tố khiến Máu bẩn trở thành “Sách kinh doanh hay của năm 2018 do Financial TimesMcKinsey bình chọn” chính là tính kịch nghệ khôn khéo của nó. Khi dùng từ “kịch nghệ”, tôi không có ý nói John đã thêm mắm dặm muối (hay nói dối). Tôi nghĩ rằng, trong nỗ lực xây dựng một câu chuyện có đầu có đuôi, có nguyên nhân có kết quả, ông đã sử dụng lối tường thuật có chọn lọc, bằng cách cân nhắc những tình tiết nổi bật để đưa vào cuốn sách. Máu bẩn là một câu chuyện có thật, với hệ thống người liên quan rất đồ sộ và đa sắc màu, nhưng khéo ở chỗ, họ nằm rất vừa vặn trong những khuôn mẫu nhân vật điển hình tồn tại ở các tác phẩm hư cấu: một gã Phó Chủ tịch Điều hành thô lỗ và độc địa (một tên phản diện đần thối khiến độc giả khinh khỉnh), một nữ doanh nhân thông minh và máu lạnh, thành công trong việc dùng sự duyên dáng của mình để đánh bẫy thế giới (một nhân vật phản diện thông minh hơn, khiến ta vừa nể sợ vừa căm ghét), một nhà nghiên cứu tài năng nhưng có kết thúc bất công và bi kịch (một nốt trầm buồn trong câu chuyện), cùng anh chàng COCC (con ông cháu cha) tồn tại trong một danh gia vọng tộc phức tạp với cả tá luật sư và người nhà ngầm tính toán với nhau. Tinh tế ở chỗ, họ đủ phức tạp để khiến người đọc ghi nhớ; mỗi người có một trường đoạn chuyện kể riêng tư, chỉn chu với cao trào và kết thúc vẹn toàn. Nhưng họ không quá phức tạp để bắt buộc người đọc nhìn nhận họ là những con người có thật với những mâu thuẫn không thể lý giải trong động cơ và cách hành xử. Sự phức tạp của họ tồn tại để phục vụ cho câu chuyện. Tất cả kết hợp với giọng văn báo chí trung lập nhưng nêm nếm một chút phẫn uất từ tốn dâng trào trong câu chữ, Máu bẩn là một kịch bản điện ảnh đang gào thét cần được chuyển thể lên màn ảnh rộng (và đúng là nó sắp lên màn ảnh) chứ không đơn thuần là một cuốn sách với nỗ lực đi tìm sự thật. Tôi, một cách rất cảm tính, thích sự khôn khéo này. Vì ít nhất, nó cũng phục vụ cho một thứ mục tiêu có vẻ tốt đẹp hơn là Theranos.

Hết.

Chú thích:

  1. “Bloody Amazing” (hết sức tuyệt vời) là một phép chơi chữ, trong đó “bloody” vừa có nghĩa là “máu me”, vừa có nghĩa là “hết sức”.
  2. CFO (viết tắt cho Chief Financial Officer): Giám đốc tài chính.
  3. FDA (viết tắt cho Food and Drug Administration): Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ.
  4. CMS (viết tắt cho Centers for Medicare and Medicaid Services): Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid, cơ quan Liên bang quản trị chương trình Medicare Hoa Kỳ.

Mèo Heo

Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng