Phía sau trang sách

Máu bẩn: Công nhận… bẩn thật

Published

on

Năm năm trước, công ty xét nghiệm máu Theranos đã hóa rồng trong mắt các nhà đầu tư nhờ một bài báo có tiêu đề chơi chữ – “Bloody Amazing”1 – trên tạp chí Fortune. Năm 2019, Theranos chỉ còn là hơi tàn ngày cũ, một bóng ma có giá trị duy nhất là trở thành điển tích để giới đầu tư cảnh giác và toàn bộ phần còn lại của thế giới chế nhạo. Nhìn lại một cách khách quan, không phải ăn may mà Theranos làm nên chuyện. Những chiến thuật lắt léo của người sáng lập và nhà lãnh đạo công ty – Elizabeth Holmes – đã vượt qua những trò lừa gạt thông thường: đằng sau sự vút bay và chìm xuồng chóng vánh của Theranos là một hệ thống gian lận tinh vi, nhưng cốt lõi của nó là thứ mà tôi tạm gọi là cú lừa nhân cách. Theranos từng là một công ty “kỳ lân” có định giá ngất ngưởng, và Elizabeth cũng được đối xử trịnh trọng như nữ hoàng trên một bàn tiệc quản trị đầy những bố già trong lĩnh vực chính trị, kinh tế và quân sự. Vâng, hội đồng giám đốc của cô chẳng có ai chuyên về nghiên cứu khoa học đâu.

Hiển nhiên đó nên là dấu hiệu cảnh báo sớm đến các nhà đầu tư và công chúng mới phải. Nhưng cô vẫn là thiên tài của Thung lũng Silicon, cho đến khi John Carreyrou – nhà báo hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá – xuất hiện, như một con cá mập đánh hơi thấy mùi máu (bẩn) trong nước và lần lượt vạch trần bộ mặt thật của Elizabeth và Theranos. Thật khôn khéo, nhát đao khai tử Theranos cũng mang cái tên máu me chẳng kém, đồng thời cũng là cú ghi bàn để đời trong sự nghiệp lẫy lừng của John. Cú ghi bàn ấy chính là Bad Blood (Máu bẩn).

Truyền thuyết về con rồng (hay là con kỳ lân) rỗng ruột

Lần đầu tiên tôi biết đến cái tên Elizabeth Holmes là vào khoảng năm 2014. Elizabeth xuất hiện trên Business Insider, trong một bài báo tiêu đề tôi chẳng nhớ rõ, nhưng phần trực quan thì ấn tượng hơn hẳn: một cô gái trong trang phục đen từ đầu đến chân, đôi mắt xanh lơ to tròn (rất, rất tròn) nhìn chằm chằm vào ống kính máy ảnh (và tôi). Nội dung bài báo tôi cũng không còn nhớ chi tiết, nhưng đại khái là bức chân dung về một người phụ nữ trẻ đã phát minh ra công nghệ xét nghiệm máu tân tiến, hứa hẹn tạo nên bước đột phá thần kỳ trong lĩnh vực công nghệ và y tế: chỉ với một giọt máu chích trên đầu ngón tay (thay vì lấy một ống máu từ ven tĩnh mạch), chiếc máy kích cỡ nhỏ như lò nướng của cô có khả năng thực hiện tất tần tật mọi loại phân tích và xét nghiệm chỉ trong một thời gian ngắn. Quan trọng hơn, cô là phụ nữ. Một người phụ nữ thành đạt, nghiêm cẩn và đang vẽ ra một chương mới trong ngành công nghiệp vốn thống trị bởi đàn ông.

Thời điểm ấy, Elizabeth Holmes đã để lại trong tôi một ấn tượng khá sâu sắc (bằng chứng là năm năm sau tôi vẫn nhớ về cô). Tuy nhiên, không giống nhiều người (đa số là nữ) sẽ mang cô ra làm hình mẫu phấn đấu, tôi không dành nhiều thời gian để tìm hiểu thêm. Nhưng cảm giác của tôi lúc ấy là thứ hỗn hợp pha trộn giữa hoài nghi và hy vọng. Tôi nhận ra những bài báo viết về cô thiếu những dẫn chứng khoa học đến khó tin, nhưng nói theo cách nào đó, đây cũng là điều hiển nhiên: với những công ty như Theranos, bí mật công nghệ là sống còn. Nền tảng học thuật của cô cũng không vững vàng để thuyết phục cái phần nghi kị trong tôi, nhưng biết đâu cô là thiên tài (ha!), và cô có một bộ sậu nhà khoa học và nghiên cứu viên giúp hiện thực hóa tầm nhìn của cô. Dù gì Steve Jobs cũng đâu phải là kỹ thuật viên!

Quên bẵng đi câu chuyện đó, lần tiếp theo Elizabeth để lại ấn tượng trong tôi là khi cô và công ty Theranos bị phanh phui lừa đảo trong khâu kiểm định chất lượng, gian lận tài chính và vô số những cáo buộc khác (từ dân sự đến hình sự).

Máu bẩn của John Carreyrou là cuốn sách lý giải những tác động đến hành trình chuyển mình của Elizabeth, từ một thần đồng tại Thung lũng Silicon đến một tội nhân bị vô số người mỉa mai và giễu cợt trên Internet. Sử dụng cấu trúc không-thời gian tương đối lộn xộn, Máu bẩn lại truyền tải một thứ ý tưởng vô cùng liền mạch và dễ hiểu: câu chuyện một dũng sĩ (hoặc nhiều dũng sĩ) tiêu diệt con rồng độc ác, đáng sợ và rỗng ruột. Mở đầu với một “vụ án”: giám đốc tài chính của Theranos, Henry Mosley, người vốn rất tin tưởng và nể phục Elizabeth, sau khi phát hiện những lỗ hổng tài chính và nghi kỵ về đạo đức làm việc, đã cố gắng cảnh tỉnh cô. Những tưởng lời khuyên răn của Mosley sẽ có tác dụng, nhưng không, màn can thiệp (không được chào đón) của ông rước lấy kết cục là ông lập tức bị đá khỏi chức vụ giám đốc tài chính. Sau đó, vị trí của ông cũng không được thay thế. Theranos hoạt động trong mười năm sau đó mà không hề có CFO2.

Việc Mosley bị sa thải không hề là ngoại lệ trong công ty này. Trái lại nó là thông lệ, là một cái mụn nhọt cảnh báo vô số những khối u tiềm tàng ẩn mình trong công ty. Phó Chủ tịch Điều hành của Theranos, Ramesh “Sunny” Balwani, là một người đàn ông trạc 40 tuổi, gốc Ấn Độ. Nếu bạn hỏi đa phần các cựu nhân viên thì sở dĩ ông ta bò lên được cái chức này là vì… ông ta là bồ của Elizabeth. Với chế độ gia đình trị mà điển hình là sự hiện diện sừng sững của Sunny, một kẻ thiếu kiến thức, thiếu năng lực, thái độ kiêu căng và miệt thị nhưng lại nắm trong tay quyền hành quan trọng thứ hai trong công ty, văn hóa doanh nghiệp của Theranos dựa trên việc theo dõi, gây áp lực và khủng bố nhân viên nếu cần thiết; ban lãnh đạo giấu nhẹm thông tin; những người có đầu óc và chính kiến bị chèn ép trong khi những kẻ thiếu kinh nghiệm và giỏi xu nịnh lại trèo lên được vị trí cấp cao.

Nhưng môi trường làm việc chỉ là một rắc rối “sương sương” của Theranos. Gót chân Asin của nó cũng chính là thứ mà công ty này huênh hoang phô diễn trên các tạp chí báo đài có tiếng có miếng: công nghệ. Theranos biến thành một chú kỳ lân tại Hoa Kỳ là do lời tuyên bố chắc nịch của Elizabeth: cô có thể cách mạng hóa ngành xét nghiệm máu bằng cách dùng chỉ một giọt máu chích trên đầu ngón tay để xét nghiệm đủ mọi loại bệnh trên đời. Đáng ngạc nhiên hơn, những xét nghiệm này được tiến hành bằng một chiếc máy nho nhỏ có thể đặt tại nhà, với quy trình dễ dàng thực hiện bởi bất kỳ ai và cho kết quả chỉ sau một thời gian ngắn. Tưởng tượng mà xem, với những bệnh nhân mắc bệnh mãn tính, những người hàng ngày phải thực hiện vô số cuộc chích máu như tra tấn (mỗi lần lấy cả ống máu và chờ lâu lắc), nếu công nghệ này có thật, Theranos sẽ trở thành cứu tinh. Đồng thời, nó sẽ phát triển thành thế lực không thể coi thường trong rất nhiều ngành nghề: bán lẻ (với hệ thống phân phối khắp quốc gia, những chuỗi bán lẻ sẽ giúp công nghệ Theranos dễ dàng tiếp cận với khách hàng trên diện rộng), quân đội (thay vì phải bưng nguyên một phòng thí nghiệm lên chiến trường để xét nghiệm xem các binh sĩ có nhiễm bệnh tật gì không), và dĩ nhiên, y tế.

Vấn đề là, công nghệ này không có thật.

Trong bốn năm học đại học, tôi từng tham gia và theo dõi khá nhiều các cuộc thi khởi nghiệp. Có một bi kịch thường thấy là, giữa ý tưởng sơ khai và quá trình hiện thực hóa tồn tại mâu thuẫn rất lớn. Ý tưởng quá tầm thường, bạn sẽ không được ban giám khảo (hoặc nhà đầu tư) chú ý đến. Ý tưởng quá trên trời, quá trình hiện thực hóa của bạn sẽ là một cơn ác mộng, và thường dự án ra đời sẽ chứa đầy những lỗ hổng chỉ chực chờ ban giám khảo đâm chọt và bạn phải dùng đến tài chém gió của mình để khỏa lấp những khiếm khuyết ấy. Một chiêu mà tôi từng, e hèm, áp dụng trong phần vấn đáp là, khi người am hiểu rõ nhất về dự án đã tắc tị trước những cú đâm chọt lắt léo của ban giám khảo, thì người mồm mép nhất sẽ lên sàn để dẫn câu chuyện về một cái kết êm xuôi và đằm thắm hơn, để ban giám khảo quên phứt mấy cái lỗ chướng mắt ấy.

Đó chính là chiến lược mà Elizabeth Holmes và Theranos đã áp dụng khi bất cứ ai bày tỏ sự quan ngại về các lỗ hổng công nghệ. Tôi sẽ không mô tả cụ thể về công nghệ xét nghiệm tại Theranos (spoiler!) nhưng dễ đoán thôi, nó là một thảm họa. Chuyện kinh dị là mức độ thảm họa của nó. Hai đời máy phân tích đều không đáp ứng được những lời hứa hẹn của Elizabeth. Trục trặc ở khắp mọi khâu: việc dùng chỉ một giọt máu chích từ đầu ngón tay để phục vụ cho tất cả các loại xét nghiệm là không tưởng. Những chiêu thức lừa đảo liên tục được áp dụng để khỏa lấp những trục trặc trong quá trình vận hành. Có lẽ cái duy nhất mà nó tạo ra ấn tượng tốt đẹp là cái vỏ (Elizabeth là fan cuồng nhiệt của Steve Jobs; cô luôn muốn các thiết kế sản phẩm của mình phải có diện mạo thời thượng như của Apple). Và tương tự, đứng trước sự chất vấn và nghi hoặc ít nhiều của đối tác và chính phủ, thứ duy nhất có giá trị, cũng là thứ cứu sống cả Theranos (với đầy rẫy những lỗ hổng cùng tốc độ thay đổi nhân sự khó tin, ám chỉ một môi trường làm việc thiếu lành mạnh) có lẽ chính là cái vỏ Elizabeth.

*

“…đưa Elizabeth trở thành gương mặt đại diện cho Theranos là bước đi hoàn toàn hợp lý. Cô là công cụ marketing đắc lực nhất cho công ty.”

Đó là câu nói của Patrick O’Neill, cựu giám đốc sáng tạo của hãng quảng cáo sừng sỏ TBWA\Chiat\Day (và sau này đầu quân trở thành giám đốc sáng tạo của Theranos). Tôi nghĩ Patrick có chút nói giảm nói tránh. Elizabeth chính là công cụ đắc lực nhất của công ty. Nếu Theranos là một công ty bán hàng thông thường, câu nói này là tinh hoa của trí khôn. Nhưng Theranos là công ty công nghệ y tế, một công ty hứa hẹn sẽ thay đổi cả làng khoa học. Một công ty như vậy mà tài sản đáng giá nhất lại là nhà sáng lập không có nền tảng vững chắc về khoa học và y tế thì đó lại là cả một vấn đề. Tuy nhiên, không ai nhìn ra được vấn đề đó.

Cú lừa đảo lớn nhất mà Theranos dành cho thế giới là cú lừa nhân cách, mà Elizabeth Holmes là biên kịch, đạo diễn và diễn viên chính trong vở lừa này. Elizabeth có sức mê hoặc không tầm thường, sức mê hoặc đã lôi kéo được rất nhiều nhân vật có sức ảnh hưởng vào tròng: từ cựu ngoại trưởng Henry Kissinger, George Shultz đến ông trùm để chế truyền thông Mỹ Rupert Murdoch. Từ nhỏ, Elizabeth đã nung nấu tham vọng làm giàu. Vài năm sau khi nhập học Stanford, cô chính thức bỏ học để cống hiến toàn thời gian cho Theranos (tình tiết này nghe quen không?). Một huyền thoại luôn cần một câu chuyện. Và câu chuyện của Elizabeth có khởi đầu lý tưởng: nó có chút gia vị quen thuộc của vô số những tỷ phú công nghệ khác, nhưng nó có một cú twist hoàn hảo: cô là một phụ nữ trẻ, và cô không khởi nghiệp bằng công nghệ mà bằng khoa học.

Với một xuất phát đáng gờm như vậy, Elizabeth bắt đầu dùng cái đầu lạnh của mình để phát triển Theranos. Nội bộ công ty là một đống rối nùi, nhưng với người ngoài, Elizabeth tạo nên những màn trình diễn xuất thần. Cô dần học đươc những chiêu trò bán hàng thực thụ: cô bắt đầu xây dựng thương hiệu cá nhân từ việc mặc áo đen cổ lọ (một dấu hiện khác gợi nhắc đến thần tượng quá cố của cô), cô biến giọng nữ cao của mình thành giọng nam trầm (một bước đi khôn ngoan để khiến bản thân thêm uy quyền khi làm việc với đa số đồng nghiệp và đối tác nam). Thế nhưng, thứ vũ khí nhân cách lớn nhất của Elizabeth chính là tầm nhìn, là nhiệt huyết không khoan nhượng dành cho Theranos. Những người có khát khao thay đổi thế giới theo hướng tốt đẹp hơn thường tỏa ra hấp lực, và nếu giấc mơ ấy thêm chút cảm hứng riêng tư thì càng thêm lôi cuốn và đáng tin. Câu chuyện mà Elizabeth dùng làm mở đầu cho những bài phát biểu của mình, rằng cậu ruột của cô từng mất vì bệnh ung thư, và giá như quá trình xét nghiệm nhanh chóng hơn thì cậu cô đã có thể chẩn đoán bệnh sớm hơn và không qua đời. Theranos ra đời, là để phát hiện bệnh sớm và dễ dàng hơn, để bạn không phải nói lời chia tay đến những người thân yêu quá sớm. Trong một thế giới hỗn loạn, nơi những phát minh công nghệ liên tiếp ra đời để phục vụ cho những thói quen sớm nở tối tàn và thừa thãi của giới trẻ, Elizabeth xuất hiện, với gương mặt điềm tĩnh và đôi mắt sáng ngời, nói về một thế giới mới tươi đẹp, của những đổi thay khoa học, của những bước chuyển cách mạng, và nơi mà đau đớn được giảm thiểu, ai mà không bị mê hoặc? (đặc biệt là những vị tướng già đã bị vô số thương đau mài cho chai sạn).

Giữa hàng hà sa số những nhân vật CEO nổi lên từng ngày trong thế giới công nghệ, Elizabeth chính là một cú hit: ở cô hội tụ đầy đủ những đặc điểm mà người ta đang tìm kiếm trong một hiện tượng truyền thông mới. Cùng với sự giúp đỡ của báo chí, cô thôi miên cả đất nước. Nước Mỹ bị chính những kỳ vọng lớn lao của họ chơi khăm. Cho đến khi John Carreyrou xuất hiện và đập tan ngai vàng của cô.

Ai là người giết rồng?

Từ đầu đến giờ, tôi không nhắc nhiều về tác giả John Carreyrou, bởi trong Máu bẩn, ông cũng không nhắc nhiều về chính mình. Mãi đến khoảng một trăm trang cuối, John mới xuất hiện (như trùm cuối). Lý giải cho sự xuất hiện muộn màng của ông, tôi nghĩ một phần vì cuốn sách nên là sân khấu của Theranos, một phần vì John không phải là người vạch trần theo nghĩa bóng: những dấu hiệu sai phạm của Theranos vốn đã xuất hiện sẵn rồi, chỉ cần chờ người kết nối các điểm lại thôi. Và ai phù hợp hơn ông, phóng viên kỳ cựu của tờ Wall Street Journal, từng hai lần nhận giải thưởng Pulitzer danh giá và vừa hoàn thành một cuộc điều tra về vụ lừa đảo của Medicare?

Theo ý kiến cá nhân tôi, phần cuối của Máu bẩn có chút hụt hơi khi so với đoạn đầu. Có nhiều yếu tố tác động: có thể do sự hồi hộp của tôi khi chờ ngày tàn của Theranos đã bị xẹp xuống ít nhiều, hoặc là do John không thể công bố quá nhiều thông tin do nhân chứng cung cấp trong quá trình điều tra. Hoặc có thể, phần cuối của cuốn sách đã không còn là thần thoại về chuyện xiên một con rồng – mà nó đã biến thành một câu chuyện thông thường kể về một người đàn ông bất chấp những lời dọa dẫm đe nẹt từ phía binh đoàn luật sư để vạch trần một công ty gian trá. Câu chuyện này dĩ nhiên vẫn rất hấp dẫn. Nhưng lúc này, tôi cảm nhận rõ ràng là con rồng đã chết ngáp – chết trước khi trùm cuối lên sàn rồi. Cái chết của con rồng là do thứ bệnh độc phát sinh từ bên trong. John Carreyrou chỉ là cánh tay vén rèm phơi bày một bản thể bệnh tật, lắm mồm ra ánh sáng. Còn những người phát hiện căn bệnh này đã xuất hiện từ trước – họ chính là những nhân viên bị Theranos đối xử tệ bạc trước kia, những bác sĩ bị công ty lừa gạt, và những kẻ trục lợi từng gây thù chuốc oán với Theranos. Con rồng không chết vì một nhát kiếm, mà do vô số những vết xẻo từ những người từng bị nó bạo hành.

*

Một chương khiến tôi có ấn tượng nhất trong Máu bẩn kể về cuộc đối đầu giữa Tyler Shultz và George Shultz. Thời điểm này, Theranos vẫn chưa bị John Carreyrou vạch mặt. George hiện là thành viên hội đồng quản trị của Theranos, ông tin tưởng Elizabeth như (chắc là hơn cả) người nhà. Còn Tyler lúc này là cựu nhân viên phòng thí nghiệm Theranos. Anh từ chức vì phát hiện những sai phạm nghiêm trọng trong khâu quản lý chất lượng, cũng như những nỗ lực từ phe cánh Elizabeth để “xào nấu” kết quả thí nghiệm hòng chứng minh công nghệ Theranos vẫn xài tốt. Anh không muốn phản bội lương tâm mình.

Trong cuộc đối đầu này, Tyler đang cố gắng vạch trần những sai phạm của công ty và thuyết phục ông nội mình (vâng, George là ông nội Tyler) rời bỏ hội đồng giám đốc và cứu vãn thanh danh ông trước khi quá muộn. Nhưng George đã từ chối tin tưởng lời nói và bằng chứng từ phía Tyler – người tốt nghiệp chuyên ngành sinh học, từng trực tiếp làm việc trong phòng thí nghiệm Theranos, cháu trai của ông. Phủ nhận những số liệu thực tiễn, ông lựa chọn tin vào tầm nhìn của Elizabeth.

Như đã nói ở trên, những sai phạm của Theranos đã ê hề trước thời điểm John Carreyrou nhảy vào cuộc chơi. Nhưng không một ai hoài nghi về tính trung thực của công ty. Tấm kính màu hồng đã che mắt họ trước sự thật. Tấm kính ấy còn mạnh mẽ đến mức khi đối diện sự thật, George đã lạnh lùng từ chối tin vào đó. Thông tin lý tính và niềm tin cảm tính là một cuộc chơi không cân bằng. Sự không cân bằng này đã đưa Theranos đến đỉnh cao danh vọng. Và, theo một cách nào đó, sự không cân bằng này đã đẩy Theranos xuống vực sâu.

Tôi tự hỏi, nếu một nhà báo khác, không phải là John Carreyrou – một phóng viên dày dạn kinh nghiệm và uy tín vạch trần thì sao? Nếu bạn cảm thấy suy nghĩ này hơi xa vời, hãy nhìn vào cách thế giới tiếp cận với cú rơi của Theranos. Một từ xuất hiện rất nhiều: psychopath (người mắc chứng rối loạn nhân cách chống đối xã hội). Psychopath là một cụm từ rất có sức hấp dẫn trong truyền thông, và ở Elizabeth, người ta thấy thấp thoáng đâu đó những đặc điểm nhận dạng: đôi mắt to nhìn chằm chằm vào người đối diện không chút ngại ngần, chứng hoang tưởng hiển hiện trong lời nói và hành động, sự ám ảnh với việc bắt chước Steve Jobs, những lời ngụy biện trắng trợn và biểu hiện không hối cải sau khi Theranos bị vạch trần. Những đặc điểm ngày xưa nâng cô thành anh hùng, nay biến cô thành một kẻ dối trá và bất lương. Tôi tin rằng đã từng tồn tại một Elizabeth thật tâm muốn thay đổi thế giới và thật lòng tin tưởng tuyệt đối vào viễn cảnh trong đầu mình. Tại một điểm nào đó của cuộc chơi, cô đã biến chất, hoặc cái chất bẩn trong đầu cô đã điều khiển cô hoàn toàn. Tuy nhiên, số đông vẫn đơn giản hóa sự ngã ngựa của Theranos, và chưa bao giờ câu nói “Look at her, I knew she was a liar” (Nhìn ả mà xem, tôi đã biết ả là kẻ dối trá mà) lại khiến tôi buồn cười như vậy. Bên cạnh đó, không thể chối cãi rằng văn hóa hoạt động dựa trên thẩm định cá tính và cách gọi vốn “trả trước” của Thung lũng Silicon phải chịu trách nhiệm một phần vì đã tạo điều kiện cho vụ lừa đảo Theranos diễn ra. Cuộc điều tra của John Carreyrou và Wall Street Journal đã một lần đập tan tấm kính màu hồng bằng những kiểm nghiệm của FDA3, tài liệu thanh tra do CMS4 cung cấp, những nghiên cứu bình duyệt, nhưng một lần nữa, tấm kính điềm nhiên tái sinh, chỉ là theo hướng đối lập: nhìn qua nó, đây không còn là truyền thuyết về một con rồng mạnh mẽ vươn vai thức tỉnh nữa. Đây là truyền thuyết về sự suy tàn của một mụ phù thủy cần được tế sống. Và vô tình hay cố ý, Máu bẩn cũng góp phần vào quá trình tái định hình câu chuyện.  

Không phủ nhận những nỗ lực của John Carreyrou trong việc đào sâu và đưa ra những lý giải khoa học và dẫn chứng tương đối cụ thể, nhưng tôi nghĩ, yếu tố khiến Máu bẩn trở thành “Sách kinh doanh hay của năm 2018 do Financial TimesMcKinsey bình chọn” chính là tính kịch nghệ khôn khéo của nó. Khi dùng từ “kịch nghệ”, tôi không có ý nói John đã thêm mắm dặm muối (hay nói dối). Tôi nghĩ rằng, trong nỗ lực xây dựng một câu chuyện có đầu có đuôi, có nguyên nhân có kết quả, ông đã sử dụng lối tường thuật có chọn lọc, bằng cách cân nhắc những tình tiết nổi bật để đưa vào cuốn sách. Máu bẩn là một câu chuyện có thật, với hệ thống người liên quan rất đồ sộ và đa sắc màu, nhưng khéo ở chỗ, họ nằm rất vừa vặn trong những khuôn mẫu nhân vật điển hình tồn tại ở các tác phẩm hư cấu: một gã Phó Chủ tịch Điều hành thô lỗ và độc địa (một tên phản diện đần thối khiến độc giả khinh khỉnh), một nữ doanh nhân thông minh và máu lạnh, thành công trong việc dùng sự duyên dáng của mình để đánh bẫy thế giới (một nhân vật phản diện thông minh hơn, khiến ta vừa nể sợ vừa căm ghét), một nhà nghiên cứu tài năng nhưng có kết thúc bất công và bi kịch (một nốt trầm buồn trong câu chuyện), cùng anh chàng COCC (con ông cháu cha) tồn tại trong một danh gia vọng tộc phức tạp với cả tá luật sư và người nhà ngầm tính toán với nhau. Tinh tế ở chỗ, họ đủ phức tạp để khiến người đọc ghi nhớ; mỗi người có một trường đoạn chuyện kể riêng tư, chỉn chu với cao trào và kết thúc vẹn toàn. Nhưng họ không quá phức tạp để bắt buộc người đọc nhìn nhận họ là những con người có thật với những mâu thuẫn không thể lý giải trong động cơ và cách hành xử. Sự phức tạp của họ tồn tại để phục vụ cho câu chuyện. Tất cả kết hợp với giọng văn báo chí trung lập nhưng nêm nếm một chút phẫn uất từ tốn dâng trào trong câu chữ, Máu bẩn là một kịch bản điện ảnh đang gào thét cần được chuyển thể lên màn ảnh rộng (và đúng là nó sắp lên màn ảnh) chứ không đơn thuần là một cuốn sách với nỗ lực đi tìm sự thật. Tôi, một cách rất cảm tính, thích sự khôn khéo này. Vì ít nhất, nó cũng phục vụ cho một thứ mục tiêu có vẻ tốt đẹp hơn là Theranos.

Hết.

Chú thích:

  1. “Bloody Amazing” (hết sức tuyệt vời) là một phép chơi chữ, trong đó “bloody” vừa có nghĩa là “máu me”, vừa có nghĩa là “hết sức”.
  2. CFO (viết tắt cho Chief Financial Officer): Giám đốc tài chính.
  3. FDA (viết tắt cho Food and Drug Administration): Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ.
  4. CMS (viết tắt cho Centers for Medicare and Medicaid Services): Trung tâm Dịch vụ Medicare & Medicaid, cơ quan Liên bang quản trị chương trình Medicare Hoa Kỳ.

Mèo Heo

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng