Trích đăng

Gặp gỡ Zuckerberg – Trích “Always Day One”

Published

on

Always Day One là một ấn bản rất được mong đợi của Alex Kantrowitz. Cuốn sách đem lại một cái nhìn thú vị về phong cách lãnh đạo, văn hóa doanh nghiệp, quy trình và công nghệ của những gã khổng lồ công nghệ, thông qua cách viết và kể chuyện hấp dẫn, trực tiếp của tác giả. Những nhận định trong cuốn sách từng được dẫn lại trên nhiều nguồn uy tín như The New Yorker, The Wall Street Journal…

Tác giả Alex Kantrowitz là nhà báo kỳ cựu chuyên mảng công nghệ của BuzzFeed. Trang tin tức cá nhân Big Technology của ông thường tập trung phân tích cách thức vận hành của những gã khổng lồ gồm Amazon, Apple, Facebook, Google và Microsoft. “Sách đem đến cái nhìn vào sâu bên trong nền văn hóa đã và đang giúp cho những gã khổng lồ đánh bại các đối thủ mới hình thành của mình trong cuộc chiến công nghệ. Thận trọng và đầy nghiêm khắc, Alex Kantrowitz nhắc chúng ta phải luôn lạc quan về một tương lai chung sống cùng những công ty công nghệ quyền lực nhất thế giới.” –  Scott Galloway, tác giả của The Four và The Algebra of Happiness

  • Trích từ: Always Day One
  • Tác giả: Alex Kantrowtiz
  • Phát hành: Tháng 12.2020
  • Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

*
Gặp gỡ Zuckerberg

Vào tháng Hai năm 2017, Mark Zuckerberg đã mời tôi tới trụ sở công ty của anh ấy ở Menlo Park, California. Đó là lần đầu tiên tôi trò chuyện với vị giám đốc điều hành của Facebook, và câu chuyện đã diễn ra không như dự đoán của tôi.

Công ty của Zuckerberg, như thường lệ, bị những tranh cãi bủa vây. Việc họ đẩy mạnh phát triển các sản phẩm nhưng lại miễn cưỡng kiểm duyệt nội dung đã để cho những thông tin sai lệch, giật gân, cùng các hình ảnh bạo lực xuất hiện tràn lan trên các sản phẩm đó. Zuckerberg dường như đã sẵn sàng chia sẻ về công ty, còn tôi thì rất háo hức lắng nghe.

Trụ sở chính của Facebook – một cấu trúc bê-tông mở và rất rộng lớn – là một nơi không dễ bước vào. Tòa nhà có chín hành lang cùng hai lớp bảo vệ, và các nhân viên an ninh sẽ yêu cầu bạn ký vào bản thỏa thuận không tiết lộ. Khi vào trong, tôi đi về phía một phòng hội nghị có tường bằng kính, nằm ngay giữa tòa nhà, nơi Zuckerberg tổ chức các cuộc họp. Sau khi nói gì đó với COO Sheryl Sandberg của công ty, anh ấy tiến về phía tôi và Mat Honan, biên tập viên của tôi, để bắt đầu cuộc trò chuyện ngay giữa thanh thiên bạch nhật.

Zuckerberg đã rất nỗ lực để đưa ra bản “Tuyên ngôn” của mình.[1] Đó là một bài đăng dài 5.700 từ, nói về quan điểm của Facebook, không chỉ đối với những nội dung đang gây rắc rối mà, rộng lớn hơn, là cả vai trò của họ trong cuộc sống của người dùng. Trước khi tới Melon Park, tôi đã hình dung về một cuộc gặp CEO điển hình: đầu tiên là một bài thuyết trình, rồi tới một chút thời gian ngắn ngủi cho các câu hỏi. Nhưng sau một phác thảo tổng quát ngắn gọn, Zuckerberg bắt đầu yêu cầu tôi cho ý kiến. “Ông thấy có gì không rõ ràng trong những thứ chúng ta đã nói tới không?’’, anh ấy hỏi, “Còn thiếu sót gì không?”.

Zuckerberg lắng nghe rất chăm chú những câu trả lời của tôi. Tư thế ngồi không thay đổi. Hoàn toàn tập trung. Và phản ứng của anh ấy – trước tiên là một cuộc tranh luận nhẹ nhàng về việc tôi muốn Facebook chú ý nhiều hơn tới quyền  lực của họ, và sau đó là một sự thừa nhận – cho thấy rõ việc anh ấy yêu cầu tôi cho ý kiến không phải để làm màu. Tôi chưa bao giờ thấy một CEO nào làm như vậy, nói gì tới một người có tiếng cố chấp như Zuckerberg. Có vẻ rất khác biệt đây, và cũng rất đáng để tìm hiểu nữa.

Sau cuộc gặp ấy, tôi đã hỏi tất cả những người tôi biết về sự khao khát phản hồi khá kỳ lạ của Zuckerberg. Điều đó có bình thường không? Có bao giờ anh ấy hỏi bạn chưa? Sau nhiều cuộc trò chuyện, tôi đã có câu trả lời: việc đặt câu hỏi chỉ đơn giản là một cái nhìn thoáng qua về cách anh ấy điều hành Facebook. Zuckerberg đã đưa sự phản hồi vào từng thớ thịt của Facebook. Các cuộc họp quan trọng kết thúc bằng các phản hồi về chính các cuộc họp đó. Những poster trong các văn phòng của Facebook thể hiện rõ rằng PHẢN HỒI LÀ MỘT MÓN QUÀ. Và không ai trong công ty quan trọng hơn phản hồi, kể cả chính Zuckerberg.

Là một phóng viên công nghệ ở Thung lũng Silicon, tôi đã trực tiếp dõi theo cuộc đua độc đáo để giành vị thế thống trị của những gã khổng lồ công nghệ. Thay vì đi theo vòng đời điển hình của một công ty – phát triển, chậm lại, vấp ngã và biến mất, những công ty như Apple, Amazon, Facebook, Google và Microsoft lại ngày càng lớn mạnh theo năm tháng. Và có lẽ ngoại trừ Apple (tôi sẽ đề cập nhiều hơn trong phần sau), các công ty đang có đôi chút dấu hiệu buông xuôi mà thôi.

Khi quan sát họ, tôi đã rất ấn tượng với cách các công ty này vận hành bộ máy của mình. Ví dụ như, sau rất nhiều lần phỏng vấn các giám đốc điều hành, tôi đã tin rằng các CEO hàng đầu thế giới chính là những người bán hàng bẩm sinh, những người đã sử dụng sức mạnh nhân cách của họ để tập hợp được những người khác dưới ngọn cờ của mình. Nhưng khi nhìn vào Zuckerberg và những người như Jeff Bezos của Amazon, Sundar Pichai của Google, Satya Nadella của Microsoft, bạn sẽ thấy họ là những kỹ sư được đào tạo háo hức với việc hỗ trợ hơn là ra lệnh cho người khác. Thay vì trả lời, họ đưa ra các câu hỏi. Thay vì nói nhiều, họ biết lắng nghe và học hỏi.

Sau cuộc gặp ở Menlo Park, tôi bắt đầu đào sâu, quan sát rộng hơn vào hoạt động nội tại của những gã khổng lồ công nghệ – các hoạt động lãnh đạo, văn hóa, công nghệ cùng các quy trình làm việc của họ, và tự hỏi liệu có mối liên hệ nào giữa thành công và cách vận hành độc đáo của họ hay không. Khi các mô hình phổ biến xuất hiện, mối liên hệ đó ngày càng trở nên không thể phủ nhận. Rồi tôi bị ám ảnh với việc phải phát hiện chính xác những gì họ đang làm, và tại sao chúng lại hiệu quả. Cuốn sách này là sản phẩm của cuộc hành trình dài hai năm và hơn 130 cuộc phỏng vấn sau đó.

Những gì bạn sắp đọc là công thức đã giúp những gã khổng lồ công nghệ đạt được và duy trì sự thống trị của họ. Đây là một cuốn sách nói về văn hóa và nghệ thuật lãnh đạo, nhưng rộng hơn, là về các ý tưởng và phát minh, cùng các mạch nối chúng lại với nhau. Cuốn sách này nói về một mô hình kinh doanh mới trong thời đại mà các công ty có thể tạo ra các sản phẩm mới chỉ trong chớp mắt, khi mà những thách thức luôn hiện hữu, và không một lợi thế nào là an toàn cả. Dựa vào một loạt các công nghệ nội bộ, mà phần lớn đều là tự tạo để vận hành công ty một cách khác biệt, những gã khổng lồ công nghệ đã phát hiện ra công thức mới này từ rất sớm. Và giờ là lúc tiết lộ nó cho tất cả mọi người.

Các công ty được miêu tả trong cuốn sách này không hoàn hảo – thậm chí còn xa mới đạt được mức đó. Trong nỗ lực không mệt mỏi để phát triển, họ đã khai thác nhân viên đến xương tủy, ngó lơ sự lạm dụng rõ ràng các công nghệ của mình, và có cả việc trả thù những người bất đồng nghiêm túc nhất trong nội bộ. Những hành vi thái quá như vậy đã khiến chính phủ Hoa Kỳ cân nhắc việc siết chặt luật, và các chính trị gia kêu gọi họ giải thể. Phần lớn những chuyện đó đều có nguyên nhân cả. Vì vậy cần phải nói rõ rằng: cuốn sách này không đề cập tới sự phát triển, cách để phát triển, hay cách đánh bại các công ty nhỏ hơn. Cuốn sách này nói về việc xây dựng các nền văn hóa sáng tạo, mà tôi tin rằng mọi người đều có thể học hỏi được. Và đối với những người đang tìm cách chế ngự các công ty này, việc hiểu được cách hệ thống nội bộ của họ hoạt động cũng có thể là một lợi thế mang tính chiến lược. Để chẩn đoán bệnh một cách hiệu quả thì không chỉ cần phải xem xét các triệu chứng, mà còn cần nắm được sinh lý học của cơ thể.

Nếu tri thức của những gã khổng lồ công nghệ vẫn chỉ nằm trong tay họ, thì thế giới kinh doanh rộng lớn hơn, cùng các cơ quan quản lý, sẽ gặp bất lợi. Nhưng nếu nó nằm trong tay chúng ta, thì chúng ta sẽ có cơ hội cân bằng sân chơi.

Luôn là Ngày Đầu Tiên

Tại một cuộc họp toàn thể công ty Amazon vào tháng Ba năm 2017[2] , một Jeff Bezos chỉnh tề, đầy tự tin đang đứng trước hàng ngàn nhân viên của mình, lướt qua một chồng giấy nhỏ ghi các câu hỏi với vẻ mặt hơi thất vọng. “Được rồi, tôi nghĩ đây là một câu hỏi rất quan trọng,” Bezos nói, “Ngày Thứ Hai sẽ như thế nào?”.

Trong suốt 25 năm qua, Bezos đã thúc giục nhân viên của mình làm việc mỗi ngày như thể đó là ngày đầu tiên của Amazon. Giờ đây, khi Amazon đang tiến tới mốc giá trị nghìn tỷ, với nhân sự tăng thêm khoảng 100.000 nhân viên mỗi năm, thì một nhân viên (có lẽ đang tràn đầy hy vọng) lại yêu cầu Bezos nghĩ về Ngày Thứ Hai.

“Ngày Thứ Hai sẽ như thế nào ư?”, Bezos hỏi lại. “Ngày Thứ Hai sẽ là sự trì trệ, là sự vô nghĩa, là sự tụt dốc đầy đau đớn, và sau đó là cái chết.”

Tiếng cười vang lên khắp hội trường. Đối với hàng ngàn nhân viên Amazon đang tham dự cuộc họp thì việc Bezos hủy diệt người đồng nghiệp ẩn danh của họ, người đã mạo hiểm đề cập tới một chủ đề nguy hiểm ở Amazon, là một sự kiện thú vị. Khi đám đông đang vỗ tay thì Bezos ra hiệu dừng lại, nở một nụ cười nửa miệng, rồi khép lại cuộc họp bằng câu nói: “Và đó là lý do tại sao phải luôn là Ngày Đầu Tiên.”

Khẩu hiệu “Day One” – “Ngày Đầu Tiên” – có mặt ở khắp mọi nơi trong Amazon. Nó là tên của một tòa nhà quan trọng, là tiêu đề cho trang blog của công ty, và là chủ đề được lặp đi lặp lại trong lá thư hàng năm của Bezos gửi cho các cổ đông. Và mặc dù việc đọc khẩu hiệu đó như một mệnh lệnh làm việc không ngừng nghỉ có vẻ hấp dẫn, đặc biệt là ở một nơi có tiếng khắc nghiệt như Amazon, nhưng ý nghĩa của nó lại ngày càng thấm sâu hơn.

Khẩu hiệu “Ngày Đầu Tiên” ở Amazon chính là mã khóa mở ra sự sáng tạo như một công ty khởi nghiệp mà không mấy bận tâm tới những gì đã có. Đó là một sự thừa nhận rằng, ngày nay, khi các đối thủ cạnh tranh có thể tạo ra các sản phẩm mới với tốc độ kỷ lục – đặc biệt là nhờ vào những tiến  bộ về trí thông minh nhân tạo (AI) và điện toán đám mây, bạn cũng có thể tạo dựng tương lai, thậm chí đánh đổi bằng hiện tại. Hãy bắt đầu bằng việc nhìn lại cách những công ty khổng lồ như GM và Exxon từng thống trị nền kinh tế của chúng ta: họ phát triển các lợi thế cốt lõi, trở nên thỏa mãn, và ra sức bảo vệ chúng bằng mọi giá. Cố gắng khai thác những lợi thế hiện tại của doanh nghiệp không còn là một sự lựa chọn nữa. Vào những năm 1920, trung bình một công ty trong danh sách Fortune 500 tồn tại trong 67 năm. Còn vào năm 2015, con số đó chỉ còn có 15.[3] Ngày Thứ Hai sẽ như thế nào? Nó chính là cái chết.

Với xuất phát điểm từ một nhà sách trực tuyến, Amazon đã tụng niệm câu thần chú “Ngày Đầu Tiên” của họ, và điên cuồng sáng tạo ra các mảng kinh doanh mới, gần như không quan tâm tới việc chúng có thể làm tổn hại các nguồn thu hiện có. Công ty vẫn bán sách trực tuyến, nhưng giờ đây họ cũng là một nhà thanh toán bù trừ (clearinghouse) cho hầu hết các sản phẩm bạn có thể tưởng tượng ra được, một chợ trực tuyến đang phát triển mạnh mẽ, một dịch vụ chuyển phát đẳng cấp thế giới, một hãng phim đã giành Giải Oscar, một cửa hàng thực phẩm, một nhà cung cấp dịch vụ điện toán đám mây, một hệ thống điện toán giọng nói, một nhà sản xuất phần cứng, và cũng là một công ty chế tạo robot nữa. Sau mỗi sáng tạo thành công, Amazon lại quay về với Ngày Đầu Tiên và tìm kiếm thứ tiếp theo.

Vào tháng Bảy năm 2019, nhà đầu tư Mark Cuban đã nói với tôi rằng: “Tôi đang sở hữu một lượng lớn cổ phiếu Amazon. Căn cứ vào những gì họ làm hôm nay thì thật sự lượng cổ phiếu đó có thể đáng giá hàng tỷ đô. Và tôi mua cổ phiếu của họ vì tôi thấy họ là công ty khởi nghiệp vĩ đại nhất thế giới.”

Nhìn vào những gã khổng lồ công nghệ ngày nay, bạn sẽ thấy họ cũng có một hành trình tương tự. Google bắt đầu như một trang web tìm kiếm, nhưng sau đó đã sáng tạo ra một tiện ích mở rộng trình duyệt (Stay Tuned), một trình duyệt (Chrome), một trợ lý ảo (Google Assistant), và một hệ điều hành di động hàng đầu (Android). Mỗi sản phẩm mới của Google đều thách thức chính những sản phẩm hiện có của họ. Nhưng bằng cách liên tục quay lại Ngày Đầu Tiên, Google vẫn giữ vững vị trí dẫn đầu.

Facebook đã quay lại Ngày Đầu Tiên rất nhiều lần. Bắt đầu như một danh bạ trực tuyến, công ty đã tự sáng tạo lại bản thân với News Feed, và họ đang tái phát minh thời đại này bằng cách chuyển từ chia sẻ phạm vi rộng sang chia sẻ riêng tư: chuyển từ News Feed sang các Facebook Groups – một loạt các mạng lưới nhỏ hơn – và đặt việc nhắn tin vào vị thế hàng đầu. Trong lĩnh vực hay thay đổi nhất – truyền thông xã hội, Facebook vẫn đang dẫn đầu.

Cho đến gần đây, có vẻ như những ngày sáng tạo của Microsoft đã lụi tàn. Công ty đã quá phụ thuộc vào Windows đến nỗi họ gần như vuột mất tương lai. Nhưng với sự thay đổi vị trí lãnh đạo từ Steve Ballmer sang Satya Nadella, Microsoft đã trở lại Ngày Đầu Tiên và nắm lấy lĩnh vực điện toán đám mây dù nó là mối đe dọa đối với các hệ điều hành máy tính để bàn như Windows, và một lần nữa họ lại trở thành công ty có giá trị nhất thế giới.

Apple dưới thời Steve Jobs đã phát minh ra iPhone, một thiết bị đã làm lu mờ những chiếc máy tính để bàn như Mac và máy nghe nhạc cầm tay như iPod, nhưng lại giúp công ty gặt hái được nhiều năm thành công. Giờ đây, Apple đang phải đối mặt với “khoảnh khắc Windows” của mình. Họ cần phải quên chiếc iPhone đi và sáng tạo lại chính bản thân mình để có thể cạnh tranh trong thời đại điện toán giọng nói.

Trong khuôn viên Amazon tại South Lake Union, Seattle, một trong các tòa nhà mới nhất được đặt tên là Reinvent (Tái phát minh). Đó là một cái tên khá kỳ quặc ở một trong những công ty thành công nhất thế giới. Nhưng trong thế giới kinh doanh ngày nay, nơi mà Ngày Thứ Hai chính là cái chết, thì đó là chìa khóa để tồn tại. Công việc Sáng tạo và Công việc Thực thi Điều hành một công ty sáng tạo cần nhiều thứ hơn các bài phát biểu và việc luân chuyển thông tin trong nội bộ.

Nó cần tới sự tái tưởng tượng cách bạn điều hành việc kinh doanh, mà điều này là hoàn toàn có thể nhờ vào một cuộc cách mạng trong cách chúng ta làm việc. Trên thực tế, có hai loại công việc: công việc sáng tạo và công việc thực thi.

  • Công việc sáng tạo là tất cả những gì liên quan tới việc tạo ra cái mới: mơ tưởng về những điều mới mẻ, tìm ra cách để hiện thực hóa chúng, công bố ý tưởng, và tạo ra sản phẩm.
  • Công việc thực thi là tất cả những gì hỗ trợ cho những việc kể trên một khi các ý tưởng trở thành hiện thực: đặt hàng, nhập liệu, quyết toán và bảo trì.

Trong nền kinh tế công nghiệp, hầu hết mọi công việc đều là công việc thực thi. Một người sáng lập công ty sẽ đưa ra một ý tưởng (Chúng ta hãy tạo ra các sản phẩm!) và sau đó tuyển dụng nhân viên chỉ với mục đích thực thi (họ sẽ làm trong nhà máy để chế tạo các sản phẩm). Sau đó, vào cuối những năm 1930, chúng ta bắt đầu chuyển từ nền kinh tế bị chi phối bởi các nhà máy sang nền kinh tế bị chi phối bởi ý tưởng, mà chúng ta hay gọi là “nền kinh tế tri thức”.

Trong nền kinh tế tri thức ngày nay, các ý tưởng rất quan trọng, nhưng chúng ta vẫn dành phần lớn thời gian cho công việc thực thi. Chúng ta phát triển một sản phẩm hoặc một dịch vụ mới, rồi sau đó dành thời gian để hỗ trợ nó, thay vì chuyển sang một thứ khác. Ví dụ như nếu bạn bán váy thì việc hỗ trợ cho mỗi mẫu sẽ đòi hỏi vô số công việc thực thi: định giá, tìm nguồn nguyên liệu, quản lý hàng tồn kho, bán hàng, tiếp thị, vận chuyển và cả đổi trả hàng nữa. Công tác hỗ trợ cho các quy trình này còn có các nhiệm vụ cơ bản như nhân sự, kế toán và việc ký kết hợp đồng.

Gánh nặng của công việc thực thi đã khiến các công ty có một ngành kinh doanh cốt lõi gần như không thể phát triển và hỗ trợ cách ngành khác (Cố giáo sư Clayton Christensen đã gọi đây là “thế lưỡng nan của nhà cải tiến”). Những người đã từng thử sức gần như luôn bỏ cuộc, hoặc nhận thấy rằng họ không thể duy trì nhiều ngành kinh doanh cùng một lúc. “General Motors (GM) đã từng sản xuất nhiều thứ khác ngoài ô-tô như tủ lạnh và đầu máy xe lửa,” giáo sư Ned Hill, một nhà kinh tế học ở Đại học Bang Ohio, nói với tôi, “Họ như một con bạch tuộc, và họ đã không thể quản lý nổi.”

Ngập đầu trong công việc thực thi, vậy nên, các công ty ngày nay dành hết sức lực cho sự hoàn thiện, chứ không phải cho sự sáng tạo. Các nhà lãnh đạo có thể mong muốn vận hành một nền văn hóa sáng tạo, nhưng họ lại không có cơ sở hạ tầng. Và thế là họ đưa ra một số lượng rất hạn chế các ý tưởng sáng tạo từ thượng tầng xuống, còn nhân viên phía dưới chỉ thực thi và làm cho chúng bóng bẩy hơn.

Nhưng giờ đây, đột nhiên việc điều hành một công ty với nền văn hóa sáng tạo, chứ không phải với sự hoàn thiện, lại trở thành điều có thể. Những tiến bộ trong trí tuệ nhân tạo, điện toán đám mây, cùng các công nghệ hỗ trợ sự hợp tác đã giúp giảm gánh nặng thực thi cho các doanh nghiệp hiện đại.

Điều đó mang tới cho các công ty nhiều nguồn lực hơn để biến những ý tưởng mới, đầy sáng tạo thành hiện thực và duy trì được chúng. Những công cụ này là bước phát triển tiếp theo của một sự bùng nổ các phần mềm hỗ trợ công việc từng giúp các công ty trở nên hiệu quả hơn, và AI đang làm cho chúng hoạt động hết công suất. Các chuyên gia cho rằng AI sẽ giải phóng con người để họ có thể thực hiện nhiều công việc “sáng tạo” và “mang tính người” hơn nữa. Nhưng nói chính xác hơn, AI đang cho phép các công ty làm nhiều công việc tân tiến hơn. Và tôi tin rằng đây là một nhân tố quan trọng đằng sau sự thành công của những gã khổng lồ công nghệ.

Thúc đẩy một làn sóng mới cho phép công nghệ tiến lên, những gã khổng lồ công nghệ đã tìm ra cách để giảm thiểu công việc thực thi. Việc này đã mang tới cơ hội cho những ý tưởng mới hình thành, và họ biến những ý tưởng đó thành hiện thực. Do đó, văn hóa làm việc của họ là hỗ trợ sáng tạo chứ không hướng tới sự hoàn thiện. Họ loại bỏ các rào cản ngăn sự luân chuyển của các ý tưởng trong công ty, và đưa những ý tưởng tốt nhất vào cuộc sống. Nói thì đơn giản nhưng thực tế phức tạp hơn nhiều. Và đó chính là điều giúp họ giữ được vị thế của mình.

Suốt một thời gian dài, tôi đã tin rằng trong nhiều năm nữa, những gã khổng lồ công nghệ vẫn có được lợi thế này so với tất cả chúng ta. Nhưng rồi một chuyến đi Miami đã làm thay đổi suy nghĩ đó.

Những điều kỳ diệu ở Miami

Có lẽ anh chàng ca sĩ có chất giọng cao vút Cee Lo Green chưa bao giờ nghĩ mình sẽ trình diễn trong một sự kiện doanh nghiệp cho đến tháng Mười năm 2018, khi anh đứng trước 1.100 chuyên gia đang trò chuyện rì rầm, xem điện thoại, và cố gắng kết nối mạng trong hộp đêm LIV ở bãi biển Miami.

Green cảm thấy rất vui khi ngắm nhìn các vị khách đang tấn công những lát ức bò, món nui phô-mai với ớt jalapeño, risotto cua xanh, hưởng thụ sự vui vẻ trong không gian quầy bar mở. Anh đã biến tấu bản hit hàng đầu của mình, vốn có tên chính thức là Forget You khi được phát trên radio, thành F**k You. Trong bộ đồ bó màu trắng với cặp kính mát, chàng ca sĩ vừa di chuyển trên sân khấu, vừa nói tới những thành tựu của các vị khách: “Quý vị đang ăn mừng thành công trong cuộc đời mình, đúng không nào?”

Và những giai điệu đầu tiên của bản nhạc vang lên khắp LIV, đám đông bắt đầu tỏ ra phấn khích, và Green, cười toe, ngay lập tức tiếp thêm năng lượng cho họ. “Nếu quý vị muốn nói ‘f**k you’ vì một điều gì đó thì bây giờ chính là lúc nói to lên nào”, anh hét lên với đám đông và hàng loạt tiếng hét “f**k you” từ những vị khách đáp lời anh.

Tiết mục của Green ở LIV sẽ chẳng có gì đáng chú ý nếu không phải vì đó chính là màn khởi động cho một buổi liên hoan do UiPath, một công ty mà chẳng mấy người biết tới, tổ chức. UiPath sở hữu phần mềm có thể quan sát màn hình máy tính khi bạn làm việc và, với một vài động tác dán nhãn, sẽ tự động hóa các công việc đó cho bạn. UiPath và các đối tác của công ty đang hướng tới việc tự động hóa hàng triệu việc làm trong những năm tới, và sẽ làm cho những tiếng hô “f**k you” ngày càng vang xa hơn.

Nhiều tháng trước khi buổi liên hoan diễn ra, tôi đã nghe thấy những lời đồn đoán rằng UiPath có khả năng làm thay đổi sâu rộng phương pháp làm việc ở các doanh nghiệp, theo cách mà họ có thể đưa thế giới kinh doanh rộng lớn đến gần hơn với phương pháp làm việc của những gã khổng lồ công nghệ. Và sau khi các nhà đầu tư trao cho UiPath 225 triệu đô-la[4] vào đầu mùa thu năm đó, tôi quyết định đích thân tới South Beach để tìm hiểu cặn kẽ về họ.

-Còn tiếp-

Chú thích:

  1. Zuckerberg, Mark. “Building Global Community.” Facebook, 16/2/2017, https://www.facebook.com/notes/mark-zuckerberg/building-globalcommunity/10103508221158471.
  2. Amazon News. “Jeff Bezos on Why It’s Always Day 1 at Amazon.” YouTube, 19/4/2017, https://www.youtube.com/watch?v=fTwXS2H_iJo.
  3. Lam, Bourree. “Where Do Firms Go When They Die?” Atlantic. Atlantic Media Company, 12/4/2015. https://www.theatlantic.com/business/archive/2015/04/ where-do-firms-go-when-they-die/390249/.
  4. Winkler, Rolfe. “Software ‘Robots’ Power Surging Values for Three LittleKnown Startups.” Wall Street Journal. Dow Jones & Company, 17/9/2018. https://www.wsj.com/articles/software-robots-power-surging-values-forthree-little-known-startups-1537225425.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Ảnh đầu bài: The Washington Post

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Trích đăng

Tiếng đờn ca ở tiệm hớt tóc

Published

on

Hồi ức Phú Nhuận

Đầu thập niên 1960, dân cư quanh khu Bàn Cờ thấy có một tiệm hớt tóc được mở ra ở số 405B đường Phan Đình Phùng (nay là Nguyễn Đình Chiểu - TP.HCM), đoạn giữa chợ Vườn Chuối và đường Cao Thắng. Tiệm có tên Đời Mới, bảng hiệu vẽ ba đầu tóc đàn ông chải bồng kiểu tăng gô không khác gì những mái tóc của kép Dũng Thanh Lâm, kép Minh Phụng sau này. Tiệm không có gì đặc biệt, bề ngang chỉ 2,2m, nhưng ai nấy đều chú ý vì ở đó thỉnh thoảng lại có tiếng đờn ca cổ...

Ban đờn ca tài tử này, tuy lúc rảnh mới tụ lại với nhau mà tồn tại hơn chục năm. Dấu ấn của nó sâu đậm tới mức đến giờ người vùng Bàn Cờ còn nhắc, dù đã hơn 40 năm và các nhân vật trong câu chuyện này hầu như không còn mấy ai.

Ông Tư Triều, chủ tiệm hớt tóc Đời Mới vốn dân gốc ở quận Củ Chi, tỉnh Hậu Nghĩa. Về Sài Gòn lập nghiệp giữa thập niên 1950 sau khi gãy đổ cuộc hôn nhân đầu, ông cưới vợ lần nữa và mở tiệm hớt tóc khi vừa có đứa con gái.

Tiệm cũng là nhà ở, ông sống cùng hai người thợ. Vì có máu văn nghệ, thích ca cổ lại có nghề làm nhạc cụ, ông biến tiệm hớt tóc của mình thành nơi đờn ca tài tử những lúc rảnh. Từ hồi trai trẻ, ông đã mê cải lương, đờn ca cổ nhạc bên cạnh những thú vui khác như đá gà, đua ngựa...

Bạn thân ông đều là người thích tiếng hát, tiếng đờn như bác Năm Trèo ở Hóc Môn, cha của nghệ sĩ cải lương Hoài Thanh. Trước khi có tiệm hớt tóc, giữa thập niên 50, ông chơi thân với nghệ sĩ tài danh Hữu Phước và danh hài Văn Hường. Lúc đó họ chưa nổi tiếng, ông gọi Hữu Phước là Ri vì ông này quốc tịch Pháp có tên Henry và nghệ danh Hữu Phước chưa xuất hiện.

Ông Tư Triều cắt tóc cho một người khách ái mộ cải lương (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Khách đến hớt tóc có đủ loại người, già trẻ lớn bé, từ người trong giới bình dân, trí thức, luật sư, cảnh sát, hoặc phục vụ trong quân đội Sài Gòn, có cả một vị bộ trưởng. Ông Tư Triều là người từng trải, lịch duyệt lại có máu nghệ sĩ nên giỏi ăn nói, rành chuyện cải lương, rành nhạc cụ cổ nhạc. Ông còn biết sửa chữa nhạc cụ. Thoạt đầu, ông mua đờn cũ mang về chỉnh sửa theo ý mình rồi đưa cho bạn bè trong nhóm đờn ca dùng thử. Đến khi cứng tay nghề, ông đến xưởng gỗ bên Chánh Hưng (quận 8) đặt từng thanh gỗ để làm cần đờn, mặt đờn.

Về nhà, ông tiếp tục gọt giũa từng chi tiết rất công phu. Ông tự chế keo dán gỗ, mua dây đàn nhập từ Tây Đức... Khi đờn hình thành, ông đem đi cẩn ốc xà cừ. Ông cầu kỳ đến mức mua đờn tranh, thấy 16 “con nhạn”(miếng gỗ kê dây đờn) không đẹp, đặt luôn những miếng gỗ hình tam giác mang về gọt giũa thành những “con nhạn” mới.

Từ khi nhóm đờn ca tài tử của ông bắt đầu tụ lại, khách đến đông thêm. Những người thường ghé chơi là mấy thầy dạy bên trường Quốc gia âm nhạc như bác Hai Khuê, bác giáo Thinh và bác Bảy Hàm, có nhạc sĩ Vĩnh Bảo, nghệ sĩ tiền phong Duy Lân, bác Mười Phú, chú Mười Hoa (nhạc phụ nghệ sĩ Viễn Sơn), nhạc sĩ nổi tiếng Văn Giỏi, anh Minh Hữu nghệ sĩ đờn kìm, bác Tư Tuất (nghệ sĩ đờn cò một thời của gánh Hương Mùa Thu, thân phụ các nghệ sĩ Hoài Dung, Hoài Mỹ)...

Trong số đó, ông Tư Triều thương anh Minh Hữu vì anh có tài và khiêm tốn, luôn nho nhã với sơ mi trắng và đeo kính cận. Sau này, khi gánh hát Phụng Hảo của nghệ sĩ Phùng Há lên tivi, bà mời anh Minh Hữu chơi đờn kìm cho tuồng của bà và ông Tư Triều rất sung sướng khi nhìn thấy cây đờn kìm ông làm được Minh Hữu dùng biểu diễn trên truyền hình.

Hầu hết họ đều là các nghệ sĩ đánh đờn, chỉ có vài giọng ca là anh Biện (hay Biền) to cao nhưng hiền lành. Một giọng khác là anh Ngọc, đẹp trai còn hơn nghệ sĩ với mái tóc chải ép, ca rất hay. Ngày đó không dễ gì liên lạc nhau nhưng không hiểu sao mấy nghệ sĩ tài tử này "đụng" nhau thường xuyên ở tiệm Đời Mới như đã hẹn hò từ trước. Mỗi tuần ông Tư Triều đều dành một buổi chơi đờn hay hòa đờn với nhau. Lâu lâu vào buổi tối ông mời bạn bè lên gác hát xướng, hòa điệu cho đến khuya.

Bà Tư niềm nở hiếu khách nên bạn bè ông Tư không ngại. Khách đến chơi, hứng thú khi nhìn chung quanh tiệm treo đầy những cây đờn. Ở nhà sau treo trên hai bên vách hơn 30 loại nhạc cụ (kìm, cò, tranh, sến, guitar, gáo, đoản...), có cây vĩ cầm trong chiếc hộp gỗ thiệt đẹp, bên trong lót vải nhung đỏ rực. Đó là tất cả gia tài và niềm đam mê của ông Tư Triều.

Chú bé Tâm, con trai út của ông Tư Triều nay đã ở tuổi năm mươi, sinh sống tại Đức còn nhớ những ngày vui đầu thập niên 1970 khi mới lên bảy. Lúc đó, cuộc sống còn dễ thở, khách đến đông và giới đờn ca tài tử thường xuyên đến góp vui. Mỗi lần tụ họp thường từ 9, 10 giờ sáng đến quá trưa rồi ai về nhà nấy. Khách qua đường thường đứng lại nghe đờn. Nếu có người ca thì người xem đông hơn.

Có chị hàng xóm dắt con đến cắt tóc, cũng xin ngồi vào ca vài bài, rất đúng nhịp trong khi đợi cậu con trai. Các chú các anh ít khi ca bài vọng cổ mà thường ca những bài cổ, khó hơn như Tây Thi, Lưu Thủy Trường, Xàng Xê, Tứ Đại Oán... Anh Ngọc, giọng ca chính có bài ca Phù Đổng Thiên Vương cách thể hiện rất hào hùng. Ông Tư Triều thỉnh thoảng cũng góp giọng, dù làn hơi yếu nhưng điệu ca lạ tai, vững nhịp.

Nhóm đờn ca tài tử ở tiệm hớt tóc Đời Mới (ảnh tư liệu gia đình ông Tư Triều)

Tâm còn nhớ nghệ sĩ Duy Lân thường chở cô học trò cưng Ngọc Hoa (bây giờ là nghệ sĩ Thoại Miêu) đến chơi. Thầy bảo hát gì là chị răm rắp nghe lời. Có lần, tàn cuộc thầy dắt chiếc xe Mobylette ra về, đạp hoài không nổ. Thầy bảo: “Phụ thầy đẩy đi con” là chị lập tức cột hai vạt áo dài trắng tinh, cong lưng đẩy ngay. Một lần Tâm chứng kiến ông Tư Triều đồng ý bán cây đờn do ông chế tác.

Số là trong số khách đến hớt tóc có trung tá X., luôn đi bằng xe Jeep. Anh này thích tiếng của cây đờn tranh, có mướn thầy về dạy riêng ở nhà. Anh kính mến ông Tư, nhiều khi tóc chưa dài cũng ghé cắt, chỉ để nói chuyện với ông. Anh mê một cây đờn tranh cẩn xà cừ rất đẹp của ông và sau nhiều lần thuyết phục, anh được ông Tư đồng ý đổi chiếc đờn lấy một tivi Sanyo 17 inch mới toanh, giá lúc ấy 90.000 đồng. Hẳn ông rất quý anh bạn trẻ và cũng muốn có tivi cho vợ con xem cải lương nên chấp nhận cho cây đờn ra đi.

Từ năm 1973, tiệm hớt tóc Đời Mới dần vắng khách. Kinh tế lúc đó bắt đầu đi xuống do người Mỹ rút đi. Chính quyền đặt ra loại thuế T.V.A (trị giá gia tăng), ngoài thuế môn bài. Tất cả cửa tiệm kinh doanh đều phải kê khai từ ngày thành lập cho đến thời điểm hiện tại và phải đóng một số tiền khổng lồ, nếu không thì dẹp. Ông Tư Triều quyết định đóng cửa tiệm lui về Củ Chi trồng rau nuôi gà và cắt tóc cho dân quanh vùng mưu sinh, cuối tuần lại về Sài Gòn thăm vợ con.

Mấy mươi năm theo tiếng đờn ca của những ban nhạc tài tử, ông gặp đủ loại người. Nhưng không bao giờ gặp lại những bạn bè cùng đi hát trên xe vespa từ khi họ nổi danh, thậm chí còn không nhận ra ông là người quen. Đó là lý do ông không thích đến rạp hát nữa. Nhóm đờn ca tài tử, nơi quy tụ những người cùng ngân nga những bài ca cổ đề cao nhân hiếu tiết nghĩa, cũng là nơi lui tới của những người “vui đâu chầu đó”, điều đó không có gì lạ.

Năm 1979, Tâm gặp lại anh trung tá năm xưa mua cây đờn tranh. Biết tin ông Tư đã về Củ Chi, anh buồn buồn chia tay. Sau đó vài năm, ông Tư Triều mất vì tai biến lúc Tâm đã ra nước ngoài.

Ông Tư Triều và ban đờn ca tài tử của ông chỉ là một mảnh nhỏ xíu trong đời sống văn hóa người Sài Gòn - Gia Định. Họ có thể vô danh hay hữu danh, yêu lời ca tiếng nhạc bằng tâm hồn rộng mở, hồn nhiên và tình cờ góp phần tạo nên mạch ngầm chảy âm ỉ nhưng đủ sức nuôi dưỡng vốn cổ văn hóa của ông bà, từ thời mở cõi vô Nam.

Hồi ức Phú Nhuận | Phạm Công Luận

Đọc bài viết

Cafe sáng