Trà chiều

Đọc lang chạ

Published

on

Trong bữa ăn trưa khoảng một tháng trước, một người bạn hỏi xem gần đây tôi có đọc cuốn sách hay nào không. Sau một thoáng cân nhắc, tôi đã hào hứng quảng bá cho cuốn tiểu thuyết Rời khỏi nhà ga Atocha của Ben Lerner. Anh bạn của tôi ưng thuận và hứa sẽ tìm đọc thử. “Tôi sẽ cho cậu mượn cuốn của tôi,” tôi bảo, “Nhưng mà tôi chưa đọc xong cuốn đó. Thực ra một vài tuần trước, tôi đã ngừng đọc nên chỉ mới xong được khoảng hai phần ba. Tôi nghĩ mình nên quay lại đọc tiếp.” Anh bạn tôi nheo mắt lại, nhìn tôi đầy hoài nghi. Chắc anh cảm thấy khó hiểu lắm. Nếu đó là một cuốn sách hay và tương đối ngắn (chỉ có 180 trang), sao tôi lại bỏ dở chứ? Một câu hỏi tuyệt vời, có khi là vô cùng cần thiết, nhưng tôi không có lấy một câu trả lời. Bỏ dở sách là một thói quen của tôi, và là một thói quen mà càng ngày tôi càng không thể tự mình dừng lại. Khi tôi đọc một cuốn sách – được khoảng một nửa cuốn – và rồi, ngay cả khi tôi thích nó, tôi vẫn bỏ nó xuống để ưu tiên làm một việc gì đó khác. Anh bạn tôi lắc đầu ngán ngẩm, với chút gì đó thất vọng, rồi lại hướng sự chú ý tới món burrito.

Thói quen đọc sách này đã được tôi tự nhận ra từ vài năm trước, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thú nhận nó với bất kỳ ai. Tôi lo lắng rằng biết đâu đây là triệu chứng của một số thiếu hụt nhân cách nghiêm trọng hoặc là một kiểu suy nhược trí tuệ trầm trọng. Trên chiếc bàn cạnh giường ngủ, có cả một chồng sách bìa mềm đặt bấp bênh đang nhìn tôi và chế giễu cái tính lăng nhăng trong việc đọc sách của tôi. Lý do tôi không thể đọc hết một cuốn sách không phải vì tôi lười đọc sách, mà ngược lại, tôi thích đọc sách rất rất nhiều. Tôi không thể nói không với sách. Giả sử tôi đang đọc một cuốn tiểu thuyết và hoàn toàn yêu thích nó. Rồi tôi đi vào cửa hàng sách và bắt gặp một chủ đề thu hút, thế là tôi mua cuốn sách ấy. Tôi bắt đầu đọc cuốn sách mới trên chuyến xe bus về nhà tối hôm đó, và đó là khoảnh khắc cuộc tình với cuốn sách đầu tiên đi vào dĩ vãng. Tôi chắc chắn rằng mình đã dồn hết tâm trí cho mối quan hệ với cuốn sách mà tôi đang đọc, nhưng tôi cũng không thể ngăn bản thân theo đuổi bất kỳ một niềm vui mới nào bất chợt hiện lên trong đầu. Có lẽ đó chỉ là lời bao biện cho việc thừa nhận bản thân là một kẻ đọc sách lang chạ, kẻ luôn khao khát mọi thứ gói gọn trong bìa sách đầy bụi.

Ngày xưa tôi không hẳn như thế. Tôi đã từng đọc xong rất nhiều cuốn sách. Không phải vì tôi bị ràng buộc bởi nghĩa vụ hay cam kết; chỉ là lúc ấy tôi không thường bồn chồn như bây giờ. Nếu tôi thích một cuốn sách, tôi sẽ kiên trì đọc hết; nếu không, tôi sẽ đặt nó xuống. Tuy nhiên, cái ranh giới giữa đọc tiếp hay không ngày càng nhạt nhòa. Vấn đề này phần nào bắt nguồn từ một số nguyên nhân khá phổ biến hiện nay: hội chứng rối loạn giảm khả năng tập trung tác động đến khá nhiều người đang sử dụng Internet. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, khá nhiều người trong số chúng ta đang tự đào tạo bản thân để nhìn vào văn bản (hoặc không nhìn vào chúng) bằng những cách khác nhau. Bạn kích chuột vào một đường link dẫn tới một bài viết mà ai đó đã đăng trên Twitter hay Facebook. Thi thoảng bài viết đó sẽ hấp dẫn bạn và khiến bạn đọc cho tới hết; thi thoảng thì không và bạn sẽ đi làm việc khác. Tôi nhận ra rằng ngay cả khi bài viết đó thực sự hấp dẫn tôi, tôi vẫn kích chuột vào chỗ khác khi bị phân tâm bởi một đường link hay video khác được nhúng trong bài, hay bởi một mẩu tin hấp dẫn và ngớ ngẩn trên một thanh công cụ lấp lánh nào đó. Tôi không bảo rằng Internet đã cướp mất khả năng tập trung của tôi khi cần, mà đúng hơn là việc dùng hàng giờ đồng hồ online mỗi ngày khiến cho tôi bình thường hóa việc thi thoảng lại thoáng mất tập trung vì một đoạn văn bản ngẫu nhiên mà tôi gặp trên mạng. Thi thoảng tôi vẫn sẽ đọc hết sách, nhưng đó là những cuốn sách mà tôi đã nhận lời viết bài bình, hoặc đang dạy trên lớp hoặc là liên quan tới vấn đề cần thiết cho câu chuyện tôi đang viết.

Vì vậy, cái sự lăng nhăng này làm tôi lo lắng; tôi vẫn thường cảm thấy mình là một độc giả tồi tệ, một độc giả không trung thành, một tay chơi văn học liều lĩnh. Nhưng tôi thường tự bào chữa cho mình rằng việc áp đặt một loại cấm đoán đọc sách mới trong khi chưa hoàn thành sách cũ sẽ làm cho tôi đọc ít sách hơn. Chắc chắn tôi sẽ trở thành một người đọc có phương pháp và có trật tự hơn, nhưng sẽ mất đi tính đa dạng và phong phú. Một đoạn xuất hiện trong cuốn sách Cuộc đời của Samuel Johnson của Boswell – một cuốn sách mà tôi chưa bao giờ đọc xong – trong đó Johnson đã đưa ra một lời nhận xét ngắn gọn thú vị về vấn đề nên hay không đọc hết một cuốn sách đang đọc dở. “Điều này”, anh ấy nói, “Thật là một lời khuyên kỳ lạ; nó giống như việc khi bạn muốn thân thiết với một ai đó, bạn sẽ phải kè kè với người ta suốt đời. Một cuốn sách có thể hay chẳng vì lý do gì cả, hoặc chỉ có một lượng giá trị nhất định; liệu chúng ta có nên đọc hết tất cả không?” Chà, khi ta diễn giải như vậy, thì câu trả lời là không. Hãy luôn cảm thấy yên tâm vì tiến sỹ Johnson luôn ở bên bạn, và anh ấy đã chỉ ra một điều tuyệt vời – rằng chẳng ai nên nghĩ rằng cuốn sách ta đang đọc sẽ tạo nên mối liên kết mật thiết với chính ta, thực tế nó chỉ như một quan hệ xã giao thông thường – tuy nhiên cái tính cách của tôi cũng chỉ được giải thích một nửa theo cách này.

Có một cuốn sách tôi mới đọc xong gần đây, khiến cho tôi suy ngẫm về cái nghịch lý khi mà một số tác phẩm văn học có thể làm cân bằng thói quen của tôi bằng cách hòa hợp với nó. Đó là cuốn Minima Moralia của nhà triết học người Đức Theodor Adorno. Adorno đã viết nên những văn bản quyến rũ kỳ lạ trong thời gian bị lưu đày tại Mỹ trong hai năm cuối Thế chiến thứ hai và trong thời gian trải qua những hậu quả mà nó để lại. Về cơ bản, cuốn sách là tập hợp một trăm năm mươi ba bài luận và các câu châm ngôn ngắn từ chủ đề này sang chủ đề khác, và mỗi nội dung sâu sắc đó hiếm khi kéo dài quá một trang rưỡi.

Minima Moralia giống như một tác phẩm văn học hiện đại thời kỳ cuối, tựa như lý luận văn hóa Mác-xít, và theo một cách hiển nhiên, sự rời rạc của nó phản ánh một thế giới bị tàn phá mà buộc Adorno phải trốn chạy. (Phụ đề cuốn sách, Những phản chiếu từ cuộc đời bị tàn phá, gợi ý một chút đến định nghĩa của Proust về văn học như một “tấm gương phản ánh cuộc sống”, nhưng có vẻ như chiếc gương giờ đây đã bị thu nhỏ lại thành một tập hợp lởm chởm của những mảnh vụn lấp lánh, phản chiếu càng sinh động một nền văn hóa bị tổn thương.) Cuốn sách bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn từ văn hóa, chính trị tới triết học trong hai trăm bốn mươi bảy chương: phân tích tâm lý học, đôi dép lê, chủ nghĩa phát xít, tình yêu, nhà hàng và khách sạn, sáo ngữ, lòng tham vô độ của xã hội với văn hóa và sự xuất hiện tinh vi của những món đồ chơi thay thế cho các trò chơi dân gian. Không phải lúc nào cũng dễ đọc – một vài bài luận chỉ bắt đầu phát huy hết ý nghĩa của chúng sau lần đọc thứ hai hoặc ba – nhưng chúng vẫn chứa đầy những điều đáng kinh ngạc được viết dưới dạng văn xuôi đẹp tuyệt vời (hoàn toàn không theo những tiêu chuẩn văn bản triết học thế kỷ XX). Có những đoạn trong Minima Moralia mà tôi yêu thích vô cùng, tới mức tôi đọc đi đọc lại với hy vọng ghi nhớ từng câu chữ. Ví dụ như đoạn này, như đang thôi miên độc giả, khiến họ thấy hiện thực hóa một khái niệm mơ hồ trở nên đầy sống động, thực tế:

Tỉnh dậy giữa giấc mơ, dù tốt hay xấu, cũng khiến người ta cảm thấy thất vọng, bị lừa dối về những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống. Nhưng những giấc mơ đẹp, khiến người ta thỏa mãn, thật ra rất hiếm, theo lời của Schubert, như một giai điệu ngọt ngào. Ngay cả giấc mơ đẹp đẽ nhất cũng khác biệt hoàn toàn so với thực tế, chúng ta nên nhận thức rằng những gì nó mang lại chỉ là ảo ảnh. Đây chính là lý do tại sao những giấc mơ đó lại dễ bị tàn lụi.

Trong một số bài luận, Adorno quay lại xem xét một số nghi vấn nhất định để giải quyết chúng từ những góc độ mới, nhưng thường thì không, do ông ấy không muốn nấn ná quá lâu tại những gì đã viết. Đối với một độc giả lăng nhăng như tôi, vẻ đẹp từ một cuốn sách kiểu này là cách mà nó đung đưa theo nhịp điệu bất thường từ sự chú ý của tôi.

Gần như tôi thích những lóe sáng bất chợt trong suy nghĩ của Adorno và bố cục rõ ràng trong từng đoạn văn của ông ấy, tôi thích cái cảm giác căng thẳng tột độ khi suy đoán về những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong cuốn sách này. Tới một đoạn được ông ấy nhấn mạnh, “Trong phân tích tâm lý, không có gì là sự thật ngoại trừ sự phóng đại,” và thậm chí trước khi bạn có đủ thời gian để chiêm nghiệm về tính đúng đắn của đánh giá đó, ông ấy sẽ nói tiếp với bạn, ngay trong câu tiếp theo, một vài điều chả có mấy liên quan nhưng cũng khiến người ta chú ý như thế: “Chúng ta có thể biết ngay được chúng ta có đang hạnh phúc hay không bằng cách lắng nghe âm thanh của gió. Nó đang cảnh báo một người đàn ông bất hạnh về ngôi nhà mỏng manh của anh ta, ám ảnh anh ta trong giấc ngủ mơ màng và những cơn ác mộng. Đối với một người đàn ông đang hạnh phúc, nó lại là sự an tâm với cảm giác được bảo vệ: tiếng gió hú dữ dội chỉ chứng minh rằng cơn gió đó không còn khiến anh ta sợ hãi nữa.”

Theo cách nào đó, có một bí ẩn đầy hấp dẫn dành cho tôi nằm trong một cuốn sách giống như Minima Moralia, khiến cho tôi duy trì sự chú ý trong khi một cuốn tiểu thuyết có cốt truyện tuyến tính hoặc câu chuyện phi hư cấu không thể. Nhưng theo một cách khác, điều đó có vẻ hoàn toàn hợp lý: Adorno liên tục bỏ dở một dòng trong sự mơ hồ để viết tiếp một dòng khác, và thế là, sự thay đổi thất thường ấy khiến cuốn sách trông như một mạng lưới đan xen, có thể tốt hơn hoặc tệ hơn, nhưng lại hoàn toàn ăn nhập với thói quen đọc sách của tôi. Tôi cũng đã có những trải nghiệm tương tự với những cuốn sách theo phong cách rời rạc như vậy — Quyển sách của nỗi băn khoăn của Fernando Pessoa, Lịch sử ngắn về sự điêu tàn của Emil Cioran, Dự án Arcades của Walter Benjamin (một mê cung rộng lớn mà tôi đã từng lang thang trong vài năm qua) — nhưng chính Minima Moralia mới hấp dẫn tôi theo một cách nghịch lý nhất. Và tôi không chắc mình sẽ yêu thích cuốn sách đến thế nếu không phải vì sự ngẫu hứng của tôi. Đó vẫn là một vấn đề tôi muốn xử lý, sự ngẫu hứng này — có lẽ bằng cách đọc một phần ba cuốn sách nào đó viết về cách kiểm soát sự chú ý trong thời đại mất tập trung — nhưng cũng có những khoảnh khắc thoáng qua mà sự ngẫu hứng này không phải là một điều quá tồi tệ.

Hết.

Bún Cứng dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Mark O’Connell, đăng tại The New Yorker.

*

Có thể bạn sẽ thích?




Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng