Trà chiều

Đọc lang chạ

Published

on

Trong bữa ăn trưa khoảng một tháng trước, một người bạn hỏi xem gần đây tôi có đọc cuốn sách hay nào không. Sau một thoáng cân nhắc, tôi đã hào hứng quảng bá cho cuốn tiểu thuyết Rời khỏi nhà ga Atocha của Ben Lerner. Anh bạn của tôi ưng thuận và hứa sẽ tìm đọc thử. “Tôi sẽ cho cậu mượn cuốn của tôi,” tôi bảo, “Nhưng mà tôi chưa đọc xong cuốn đó. Thực ra một vài tuần trước, tôi đã ngừng đọc nên chỉ mới xong được khoảng hai phần ba. Tôi nghĩ mình nên quay lại đọc tiếp.” Anh bạn tôi nheo mắt lại, nhìn tôi đầy hoài nghi. Chắc anh cảm thấy khó hiểu lắm. Nếu đó là một cuốn sách hay và tương đối ngắn (chỉ có 180 trang), sao tôi lại bỏ dở chứ? Một câu hỏi tuyệt vời, có khi là vô cùng cần thiết, nhưng tôi không có lấy một câu trả lời. Bỏ dở sách là một thói quen của tôi, và là một thói quen mà càng ngày tôi càng không thể tự mình dừng lại. Khi tôi đọc một cuốn sách – được khoảng một nửa cuốn – và rồi, ngay cả khi tôi thích nó, tôi vẫn bỏ nó xuống để ưu tiên làm một việc gì đó khác. Anh bạn tôi lắc đầu ngán ngẩm, với chút gì đó thất vọng, rồi lại hướng sự chú ý tới món burrito.

Thói quen đọc sách này đã được tôi tự nhận ra từ vài năm trước, nhưng đây là lần đầu tiên tôi thú nhận nó với bất kỳ ai. Tôi lo lắng rằng biết đâu đây là triệu chứng của một số thiếu hụt nhân cách nghiêm trọng hoặc là một kiểu suy nhược trí tuệ trầm trọng. Trên chiếc bàn cạnh giường ngủ, có cả một chồng sách bìa mềm đặt bấp bênh đang nhìn tôi và chế giễu cái tính lăng nhăng trong việc đọc sách của tôi. Lý do tôi không thể đọc hết một cuốn sách không phải vì tôi lười đọc sách, mà ngược lại, tôi thích đọc sách rất rất nhiều. Tôi không thể nói không với sách. Giả sử tôi đang đọc một cuốn tiểu thuyết và hoàn toàn yêu thích nó. Rồi tôi đi vào cửa hàng sách và bắt gặp một chủ đề thu hút, thế là tôi mua cuốn sách ấy. Tôi bắt đầu đọc cuốn sách mới trên chuyến xe bus về nhà tối hôm đó, và đó là khoảnh khắc cuộc tình với cuốn sách đầu tiên đi vào dĩ vãng. Tôi chắc chắn rằng mình đã dồn hết tâm trí cho mối quan hệ với cuốn sách mà tôi đang đọc, nhưng tôi cũng không thể ngăn bản thân theo đuổi bất kỳ một niềm vui mới nào bất chợt hiện lên trong đầu. Có lẽ đó chỉ là lời bao biện cho việc thừa nhận bản thân là một kẻ đọc sách lang chạ, kẻ luôn khao khát mọi thứ gói gọn trong bìa sách đầy bụi.

Ngày xưa tôi không hẳn như thế. Tôi đã từng đọc xong rất nhiều cuốn sách. Không phải vì tôi bị ràng buộc bởi nghĩa vụ hay cam kết; chỉ là lúc ấy tôi không thường bồn chồn như bây giờ. Nếu tôi thích một cuốn sách, tôi sẽ kiên trì đọc hết; nếu không, tôi sẽ đặt nó xuống. Tuy nhiên, cái ranh giới giữa đọc tiếp hay không ngày càng nhạt nhòa. Vấn đề này phần nào bắt nguồn từ một số nguyên nhân khá phổ biến hiện nay: hội chứng rối loạn giảm khả năng tập trung tác động đến khá nhiều người đang sử dụng Internet. Trong hơn một thập kỷ vừa qua, khá nhiều người trong số chúng ta đang tự đào tạo bản thân để nhìn vào văn bản (hoặc không nhìn vào chúng) bằng những cách khác nhau. Bạn kích chuột vào một đường link dẫn tới một bài viết mà ai đó đã đăng trên Twitter hay Facebook. Thi thoảng bài viết đó sẽ hấp dẫn bạn và khiến bạn đọc cho tới hết; thi thoảng thì không và bạn sẽ đi làm việc khác. Tôi nhận ra rằng ngay cả khi bài viết đó thực sự hấp dẫn tôi, tôi vẫn kích chuột vào chỗ khác khi bị phân tâm bởi một đường link hay video khác được nhúng trong bài, hay bởi một mẩu tin hấp dẫn và ngớ ngẩn trên một thanh công cụ lấp lánh nào đó. Tôi không bảo rằng Internet đã cướp mất khả năng tập trung của tôi khi cần, mà đúng hơn là việc dùng hàng giờ đồng hồ online mỗi ngày khiến cho tôi bình thường hóa việc thi thoảng lại thoáng mất tập trung vì một đoạn văn bản ngẫu nhiên mà tôi gặp trên mạng. Thi thoảng tôi vẫn sẽ đọc hết sách, nhưng đó là những cuốn sách mà tôi đã nhận lời viết bài bình, hoặc đang dạy trên lớp hoặc là liên quan tới vấn đề cần thiết cho câu chuyện tôi đang viết.

Vì vậy, cái sự lăng nhăng này làm tôi lo lắng; tôi vẫn thường cảm thấy mình là một độc giả tồi tệ, một độc giả không trung thành, một tay chơi văn học liều lĩnh. Nhưng tôi thường tự bào chữa cho mình rằng việc áp đặt một loại cấm đoán đọc sách mới trong khi chưa hoàn thành sách cũ sẽ làm cho tôi đọc ít sách hơn. Chắc chắn tôi sẽ trở thành một người đọc có phương pháp và có trật tự hơn, nhưng sẽ mất đi tính đa dạng và phong phú. Một đoạn xuất hiện trong cuốn sách Cuộc đời của Samuel Johnson của Boswell – một cuốn sách mà tôi chưa bao giờ đọc xong – trong đó Johnson đã đưa ra một lời nhận xét ngắn gọn thú vị về vấn đề nên hay không đọc hết một cuốn sách đang đọc dở. “Điều này”, anh ấy nói, “Thật là một lời khuyên kỳ lạ; nó giống như việc khi bạn muốn thân thiết với một ai đó, bạn sẽ phải kè kè với người ta suốt đời. Một cuốn sách có thể hay chẳng vì lý do gì cả, hoặc chỉ có một lượng giá trị nhất định; liệu chúng ta có nên đọc hết tất cả không?” Chà, khi ta diễn giải như vậy, thì câu trả lời là không. Hãy luôn cảm thấy yên tâm vì tiến sỹ Johnson luôn ở bên bạn, và anh ấy đã chỉ ra một điều tuyệt vời – rằng chẳng ai nên nghĩ rằng cuốn sách ta đang đọc sẽ tạo nên mối liên kết mật thiết với chính ta, thực tế nó chỉ như một quan hệ xã giao thông thường – tuy nhiên cái tính cách của tôi cũng chỉ được giải thích một nửa theo cách này.

Có một cuốn sách tôi mới đọc xong gần đây, khiến cho tôi suy ngẫm về cái nghịch lý khi mà một số tác phẩm văn học có thể làm cân bằng thói quen của tôi bằng cách hòa hợp với nó. Đó là cuốn Minima Moralia của nhà triết học người Đức Theodor Adorno. Adorno đã viết nên những văn bản quyến rũ kỳ lạ trong thời gian bị lưu đày tại Mỹ trong hai năm cuối Thế chiến thứ hai và trong thời gian trải qua những hậu quả mà nó để lại. Về cơ bản, cuốn sách là tập hợp một trăm năm mươi ba bài luận và các câu châm ngôn ngắn từ chủ đề này sang chủ đề khác, và mỗi nội dung sâu sắc đó hiếm khi kéo dài quá một trang rưỡi.

Minima Moralia giống như một tác phẩm văn học hiện đại thời kỳ cuối, tựa như lý luận văn hóa Mác-xít, và theo một cách hiển nhiên, sự rời rạc của nó phản ánh một thế giới bị tàn phá mà buộc Adorno phải trốn chạy. (Phụ đề cuốn sách, Những phản chiếu từ cuộc đời bị tàn phá, gợi ý một chút đến định nghĩa của Proust về văn học như một “tấm gương phản ánh cuộc sống”, nhưng có vẻ như chiếc gương giờ đây đã bị thu nhỏ lại thành một tập hợp lởm chởm của những mảnh vụn lấp lánh, phản chiếu càng sinh động một nền văn hóa bị tổn thương.) Cuốn sách bao gồm nhiều lĩnh vực rộng lớn từ văn hóa, chính trị tới triết học trong hai trăm bốn mươi bảy chương: phân tích tâm lý học, đôi dép lê, chủ nghĩa phát xít, tình yêu, nhà hàng và khách sạn, sáo ngữ, lòng tham vô độ của xã hội với văn hóa và sự xuất hiện tinh vi của những món đồ chơi thay thế cho các trò chơi dân gian. Không phải lúc nào cũng dễ đọc – một vài bài luận chỉ bắt đầu phát huy hết ý nghĩa của chúng sau lần đọc thứ hai hoặc ba – nhưng chúng vẫn chứa đầy những điều đáng kinh ngạc được viết dưới dạng văn xuôi đẹp tuyệt vời (hoàn toàn không theo những tiêu chuẩn văn bản triết học thế kỷ XX). Có những đoạn trong Minima Moralia mà tôi yêu thích vô cùng, tới mức tôi đọc đi đọc lại với hy vọng ghi nhớ từng câu chữ. Ví dụ như đoạn này, như đang thôi miên độc giả, khiến họ thấy hiện thực hóa một khái niệm mơ hồ trở nên đầy sống động, thực tế:

Tỉnh dậy giữa giấc mơ, dù tốt hay xấu, cũng khiến người ta cảm thấy thất vọng, bị lừa dối về những điều tuyệt vời nhất trong cuộc sống. Nhưng những giấc mơ đẹp, khiến người ta thỏa mãn, thật ra rất hiếm, theo lời của Schubert, như một giai điệu ngọt ngào. Ngay cả giấc mơ đẹp đẽ nhất cũng khác biệt hoàn toàn so với thực tế, chúng ta nên nhận thức rằng những gì nó mang lại chỉ là ảo ảnh. Đây chính là lý do tại sao những giấc mơ đó lại dễ bị tàn lụi.

Trong một số bài luận, Adorno quay lại xem xét một số nghi vấn nhất định để giải quyết chúng từ những góc độ mới, nhưng thường thì không, do ông ấy không muốn nấn ná quá lâu tại những gì đã viết. Đối với một độc giả lăng nhăng như tôi, vẻ đẹp từ một cuốn sách kiểu này là cách mà nó đung đưa theo nhịp điệu bất thường từ sự chú ý của tôi.

Gần như tôi thích những lóe sáng bất chợt trong suy nghĩ của Adorno và bố cục rõ ràng trong từng đoạn văn của ông ấy, tôi thích cái cảm giác căng thẳng tột độ khi suy đoán về những gì sẽ xảy ra tiếp theo trong cuốn sách này. Tới một đoạn được ông ấy nhấn mạnh, “Trong phân tích tâm lý, không có gì là sự thật ngoại trừ sự phóng đại,” và thậm chí trước khi bạn có đủ thời gian để chiêm nghiệm về tính đúng đắn của đánh giá đó, ông ấy sẽ nói tiếp với bạn, ngay trong câu tiếp theo, một vài điều chả có mấy liên quan nhưng cũng khiến người ta chú ý như thế: “Chúng ta có thể biết ngay được chúng ta có đang hạnh phúc hay không bằng cách lắng nghe âm thanh của gió. Nó đang cảnh báo một người đàn ông bất hạnh về ngôi nhà mỏng manh của anh ta, ám ảnh anh ta trong giấc ngủ mơ màng và những cơn ác mộng. Đối với một người đàn ông đang hạnh phúc, nó lại là sự an tâm với cảm giác được bảo vệ: tiếng gió hú dữ dội chỉ chứng minh rằng cơn gió đó không còn khiến anh ta sợ hãi nữa.”

Theo cách nào đó, có một bí ẩn đầy hấp dẫn dành cho tôi nằm trong một cuốn sách giống như Minima Moralia, khiến cho tôi duy trì sự chú ý trong khi một cuốn tiểu thuyết có cốt truyện tuyến tính hoặc câu chuyện phi hư cấu không thể. Nhưng theo một cách khác, điều đó có vẻ hoàn toàn hợp lý: Adorno liên tục bỏ dở một dòng trong sự mơ hồ để viết tiếp một dòng khác, và thế là, sự thay đổi thất thường ấy khiến cuốn sách trông như một mạng lưới đan xen, có thể tốt hơn hoặc tệ hơn, nhưng lại hoàn toàn ăn nhập với thói quen đọc sách của tôi. Tôi cũng đã có những trải nghiệm tương tự với những cuốn sách theo phong cách rời rạc như vậy — Quyển sách của nỗi băn khoăn của Fernando Pessoa, Lịch sử ngắn về sự điêu tàn của Emil Cioran, Dự án Arcades của Walter Benjamin (một mê cung rộng lớn mà tôi đã từng lang thang trong vài năm qua) — nhưng chính Minima Moralia mới hấp dẫn tôi theo một cách nghịch lý nhất. Và tôi không chắc mình sẽ yêu thích cuốn sách đến thế nếu không phải vì sự ngẫu hứng của tôi. Đó vẫn là một vấn đề tôi muốn xử lý, sự ngẫu hứng này — có lẽ bằng cách đọc một phần ba cuốn sách nào đó viết về cách kiểm soát sự chú ý trong thời đại mất tập trung — nhưng cũng có những khoảnh khắc thoáng qua mà sự ngẫu hứng này không phải là một điều quá tồi tệ.

Hết.

Bún Cứng dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Mark O’Connell, đăng tại The New Yorker.

*

Có thể bạn sẽ thích?




Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng