Phía sau trang sách

Còn chút gì để nhớ: Một câu hỏi không mong cầu hồi đáp của kẻ từng yêu tha thiết

“Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?”

Published

on

“Mong manh nhất không phải là tơ trời
Không phải nụ hồng
Không phải sương mai
Không phải là cơn mơ vừa chập chờn đã thức
Anh đã biết một điều mong manh nhất
Là tình yêu
Là tình yêu đấy em!”

Như những thiết tha vẫn còn đang âm ỉ trong lòng, với Không phải tơ trời, không phải sương mai, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết nên những hoang hoải của một tình yêu mà bao gã say tình từ xưa đến nay đều cố gắng đi tìm lời hồi đáp. Có phải không, khi đôi lúc trong những nẻo đường yêu choáng chuếnh, ta cũng nhiều lần tự hỏi chính mình, và cả hỏi người, rằng điều gì là mong manh nhất trên thế gian này? Là những sợi tơ giăng ngang trời mảnh khảnh? Là cánh nụ hồng héo hắt buổi chiều tan? Là hạt sương đậu mềm trên kẽ lá, hay những cơn mơ lững thững níu giữ ánh trăng tàn? Là gì đi chăng nữa, thì với một định nghĩa rất mới trong suy nghĩ của một người đã yêu và được yêu, Đỗ Trung Quân đã thốt lên rằng, “Là tình yêu – Là tình yêu đấy em!”

Thật vậy! Tình yêu, với tôi, nó không phải là một thứ hào nhoáng chuyên bóc mình khoe mẽ những hạnh phúc ngọt ngào cho cả thế gian xem, bởi vì đằng sau nó – sau những khắc khoải và tha thiết đời thường, nó vẫn yếu mềm và mỏng manh làm sao. Nó vẫn luôn là một điều gì đó, bé nhỏ thôi, nhưng lại day dứt và ám ảnh tâm trí con người ta đến lạ. Tôi đã từng yêu và đã từng rất nhiều lần suy nghĩ về tình yêu, nhưng đó là tình yêu của tôi, của một kẻ vừa bước vào đời và chiêm nghiệm về những thứ mà mình vẫn luôn gọi là đẹp đẽ. Thế nhưng, với câu chuyện buồn mà tôi đọc được từ tác phẩm Còn chút gì để nhớ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh – tôi biết rằng, tình yêu còn nhiều điều hơn thế. Nó vẫn luôn nằm ở đó, đợi mỗi người ghé đến và tặng cho một nét mi buồn…

Với tôi, Còn chút gì để nhớ là một bản tình ca buồn lặng lẽ, chọn cho mình kiếp sống khiêm nhường giữa vô vàn những đảo điên của tình yêu nhân thế. Tôi đọc cuốn sách này lần đầu tiên vào năm mười ba tuổi – cái tuổi vừa tròn biết mộng mơ. Những năm tháng ấy, cuốn sách đến với tôi chỉ đơn thuần như một món quà nhỏ, một món quà có giá trị hơn bao giờ hết, so với những thứ đồ chơi đắt tiền hay dăm ba món ăn vặt ngon lành thời đó. Còn bây giờ, sau gần hơn mười năm đọc lại, dĩ nhiên, nó đã chẳng phải là một món quà nữa, mà là một người bạn, một người bạn đích thực đồng hành cùng tôi trong những chặng đường mà bản thân mình đi tìm kiếm những câu trả lời về tình yêu.

Nói về cảm xúc khi đọc cuốn sách này, tôi đã không nghĩ là có một sự khác biệt lớn đến thế, dĩ nhiên! Khi tôi mười ba tuổi, tôi chỉ đọc như một cách bắt đầu khám phá về những trang sách, về những thế giới mà người lớn đã dựng xây trong những con chữ đầy ắp chân thành. Khi ấy, tôi nào hiểu nhiều đâu tình yêu của Chương dành cho Quỳnh, tôi nào hiểu nhiều đâu tình bạn đẹp của Bảo, Kim Dung và Chương, tôi cũng hiểu nhiều đâu về những nỗi đau mà chiến tranh mang đến, hằn sâu và rõ nét trong tâm khảm của những người ở lại. Còn bây giờ, bằng một trái tim biết yêu thương và biết thấu hiểu, tôi đã nghĩ, nghĩ rất nhiều, khi cuốn sách gấp lại và nước mắt vừa rơi…

Nếu như tôi là Chương, tôi nghĩ, nếu như điều đó xảy ra thật, thì tôi sẽ như thế nào? Chương yêu Quỳnh – một tình yêu hồn nhiên và thuần khiết, một tình yêu bắt đầu từ những rung cảm đầu đời, khi đôi mắt Chương tình cờ bắt gặp được ánh mắt của Quỳnh, một “ánh mắt sâu thẳm, nửa rối bời, nửa ái ngại”. Kể từ đó, tình cảm của chàng trai tỉnh lẻ mười tám tuổi dành cho cô nàng hàng xóm nhỏ nhắn, dễ thương đã mỗi ngày một lớn dần, chẳng biết khi nào lại ươm đầy những hạt mầm nhớ thương khắp cả trái tim này. Vì nhờ có Quỳnh, mà Sài Gòn dù có xa đến mấy, Chương vẫn yêu, vẫn nhớ, và vẫn xem đó như là một mảnh đất diệu kì – mảnh đất của những điều mới mẻ, trong đó có tình yêu. Như cái cách mà nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến, chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”

Tình yêu của những kẻ đang yêu bao giờ cũng đẹp, đẹp một cách lạ kì. Tình yêu ấy có những ngày nhớ nhung trong thẹn thùng, có những ngày tặng cho nhau dăm ba thứ đồ ăn, có những ngày cùng đi xem hát, và những ngày chở nhau đến tận vùng ngoại ô xa tít rồi hái tặng nhau nhành sứ trắng bên đường. Đấy, như thế đấy, tình yêu vẫn nhẹ nhàng và đơn sơ, vẫn tinh khôi và thuần khiết như bản chất của tình yêu đã từng, dẫu lắm lúc trong những ngày yêu nhau, có người này hờn giận người kia, có những nỗi buồn vẫn vương trên khóe mắt. Nhưng tình yêu vẫn sống, sống mãnh liệt, quay quắt và điên cuồng trong trái tim của những kẻ dám sống vì tình yêu.

Suốt nhiều năm dài, và có lẽ là tận mãi về sau, tình yêu của Chương dành cho Quỳnh vẫn không thay đổi. Nó vẫn cứ ở đó, âm ỉ và nhẹ nhàng, như cái cách mà Chương mới bắt đầu chạm ngõ vào tình yêu. Có lẽ như khi biết yêu mối tình đầu, ai cũng rút cạn trái tim mình để vun bồi cho một hạnh phúc ngỡ như là mãi mãi? Để rồi khi niềm hạnh phúc vỡ tan và nỗi đau ở lại, vẫn luôn có một khoảng trống trong lòng, hoang hoải và chông chênh.

Mối tình của Chương và Quỳnh lẽ ra đã có một kết thúc tốt đẹp, nếu như mối tình ấy không nằm trong một bối cảnh xã hội rối ren và đau khổ. Cái tôi đang nói đến, chính là chiến tranh. Sự chia cắt ranh giới giữa hai miền Nam – Bắc, sự khát khao giải phóng của những người hoạt động cách mạng, sự khác biệt quan điểm của hai chế độ đã làm cho mối tình này chấm dứt, một cách ngỡ ngàng không ngờ đến. “Cháu khờ quá! Ba cháu đi học tập cải tạo, còn gia đình người ta là gia đình cách mạng, cháu hiểu không?”, dì Ba – dì của Chương đã nói như thế, chỉ nhiêu đó thôi nhưng cũng đủ làm người ta đau lòng. Ừ, không đau lòng sao được khi mà tình yêu cuối cùng rồi cũng không thể nào thắng được những định kiến của xã hội, khi mà hạnh phúc rồi cũng không thể nào vượt qua được những rào cản về thể chế chính trị, về những con người cùng là một dân tộc, một đất nước, một quê hương. Tôi thoáng nghĩ, tại sao người ta lại cố chấp bảo thủ trong suy nghĩ của mình, trong khi đó đâu phải là chính sách, đường lối và quan điểm của những cuộc cách mạng. “Cách mạng phải đem lại hạnh phúc cho con người chứ đâu có phá hoại hạnh phúc của con người!”, tôi vẫn nhớ, Trâm đã nói như thế.

Khi bác Tám – ba của Quỳnh, ra sức phản đối tình cảm của Chương và Quỳnh vì lí do như vậy, Trâm – chị gái của Quỳnh, đã không ngần ngại mà đứng lên bày tỏ quan điểm và đấu tranh cho hạnh phúc của em gái mình, dẫu cho Trâm bị cha tát nhiều lần. Tính Trâm là thế, bộp chộp và láu cá, nhưng lại rất tình cảm và chân thành. Trâm cố gắng đem lại hạnh phúc cho em mình, nhưng điều đáng nói ở đây, chính là thái độ của Quỳnh trước sự cưỡng cầu trong tình yêu. Liệu Quỳnh có thật sự xứng đáng với tình yêu của Chương không, khi mà Quỳnh chẳng mảy may nghĩ về cảm xúc của Chương, khi mà Quỳnh lại hời hợt đành an phận thủ thường, chấp nhận nghe theo sự sắp đặt của ba mẹ, chỉ vì “Em và anh Chương chưa từng nói yêu bao giờ.” Chao ôi, tình yêu có phải nhất thiết nói bằng lời, hay do trái tim Quỳnh đã đổi thay, hay là do một lí do nào khác. Nếu Quỳnh yêu Chương bằng một thứ tình cảm chân thành, nếu Quỳnh biết cùng Chương đấu tranh cho hạnh phúc của mình, tôi nghĩ, thì có lẽ mọi chuyện đã khác. Tình yêu thật sự là tình yêu vẫn sẽ sống dậy, dẫu giông bão có kéo ngang qua còn niềm tin vẫn luôn rực sáng. Tôi không hiểu là Quỳnh đang nghĩ gì. Quỳnh hiểu, chỉ có Quỳnh mới hiểu mà thôi…

Rồi có rất nhiều chuyện về sau nữa, về những cuộc đời rong ruổi trôi dài của những nhân vật trong câu chuyện. Tôi vẫn chỉ đọc, đôi khi nghĩ về họ như nghĩ về những chuyện người vẫn thường luôn luẩn quẩn trong kiếp sống này. Tôi nghĩ về Bảo, về Kim Dung – những người bạn của Chương. Sau rất nhiều biến cố xã hội và năm tháng mỏi mòn, họ vẫn gặp lại nhau và vẫn giữ liên lạc với nhau như những gì đã hứa. Có một tình bạn vẫn đẹp của những cô cậu sinh viên mang trên mình những khát khao, hoài bão, một tình bạn được gắn kết bằng những sẻ chia và giúp đỡ, bằng những chân thành và tử tế. Một tình bạn đáng được trân quý và nâng niu.

Tôi nghĩ về Trâm – người con gái biết sống tình cảm sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ và kiên cường. Người con gái biết yêu thương và biết thấu hiểu, biết điều gì là đúng là sai, là nên làm và không nên làm. Người con gái đã để lại trong lòng Chương, và cả tôi nữa, một niềm xúc cảm mãnh liệt. Tôi vẫn mong, nếu như Trâm là một nhân vật có thật trong cuộc đời này, thì cô ấy nhất định sẽ luôn được hạnh phúc, dù là cô ấy có ở đâu trên thế gian này đi chăng nữa.

Cuốn sách khép lại, nhẹ nhàng thôi, nhưng lại chạm vào trái tim tôi bằng một thứ cảm xúc mơ hồ mà tôi cũng không biết gọi tên như thế nào. Tôi vẫn luôn cảm nhận được sự gần gũi, thân thuộc trong cái cách mà chú Nguyễn Nhật Ánh kể chuyện – lối văn phong đậm chất tự sự, đôi lúc lại dấy lên những cao trào cảm xúc trong chính những con chữ đời thường. Tôi mơ màng nghĩ về Chương, về Quỳnh, và nghĩ về chính mình. Rồi có bao giờ tôi sẽ phải đau lòng buột miệng hỏi, trong những tháng ngày mình đã từng được sống trong nhau đó, mình có còn chút gì để nhớ không?

Đừng ai trả lời, vì vốn dĩ, câu hỏi này, chẳng ai mong có một lời hồi đáp.

Chỉ vì vẫn còn nhớ, nên mới đau lòng hỏi vậy thôi…

“Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?”

Hết.

Lâm Lâm


Đọc tất cả những bài viết của Lâm Lâm.


Nếu bạn yêu tác giả Nguyễn Nhật Ánh…


Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng