Trích đăng

Giao tiếp là con phố hai chiều

Không ai được sinh ra với tài giao tiếp bẩm sinh. Tất cả diễn giả thành công trên thế giới đều trải qua quá trình rèn luyện và nỗ lực không ngừng để làm chủ kỹ năng này.

Published

on

cai thien giao tiep vuon toi thanh cong - dale carnegie

Trích từ: Cải thiện giao tiếp vươn tới thành công
(Tủ sách thành công của Dale Carnegie)
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book
Xuất bản: Tháng 6.2019

*

Có bốn khía cạnh, và chỉ có duy nhất bốn khía cạnh này để chúng ta tiếp xúc với thế giới, để người khác đánh giá và phân định chúng ta: hành động ta làm, diện mạo của ta, lời ta nói và cách ta diễn đạt. – Dale Carnegie

Ngày nay, giao tiếp – qua lời nói và cách nói – là một trong những yếu tố chính quyết định liệu ta sẽ thành công hay thất bại. Các nhà lãnh đạo tài ba trong chính phủ, trong lĩnh vực công nghiệp và giáo dục đều thuần thục kỹ năng giao tiếp hiệu quả với mọi người.

Kỹ năng giao tiếp không nhất thiết là năng khiếu bẩm sinh. Bất kỳ ai cũng có thể rèn luyện được, chỉ cần có ý chí và lòng quyết tâm. Khi trau dồi được kỹ năng giao tiếp, ta có thể trình bày ý tưởng hiệu quả hơn với cấp trên, cộng sự, khách hàng, thậm chí với cả bạn bè và người thân.

Hãy tưởng tượng khi trở thành người giao tiếp hùng hồn và hào hứng, ta có thể khiến một cuộc họp tẻ nhạt trở nên sôi động và hiệu quả. Ta có thể truyền cảm hứng và khích lệ đồng nghiệp hoàn thành công việc kịp thời hạn với kết quả vượt mức mong đợi.

Đa phần nội dung giao tiếp hàng ngày của chúng ta đều ẩn chứa nguy cơ gây ngộ nhận và hiểu lầm. Một số ngôn từ thuộc dạng dễ hiểu trong môi trường nội bộ có thể gây nhầm lẫn cho người bên ngoài công ty hoặc ngoài ngành.

Tất cả những người làm việc chuyên nghiệp đều phải có khả năng trình bày ý kiến một cách rõ ràng, chính xác và thuyết phục, nhất là trong các tình huống ứng biến hoặc bất ngờ. Các tình huống này đòi hỏi sự mạnh dạn, tự tin, khả năng tư duy nhanh chóng và diễn đạt trôi chảy.

Giao tiếp không phải là con phố một chiều, nơi chỉ có một bên truyền đạt thông điệp cho phía bên kia. Để đạt hiệu quả, nó phải là con đường hai chiều mà bên này liên tục phản hồi với bên kia. Người truyền đạt phải tìm kiếm và thu thập phản hồi từ người tiếp nhận. Người nói phải đảm bảo những gì mình nói ra được người nghe hiểu và chấp nhận. Để đạt được điều này, người nói phải đặt câu hỏi, quan sát những gì có thể quan sát được và, nếu có hiểu lầm, điều chỉnh ngay nhằm đảm bảo đối phương đã hiểu thấu vấn đề. Người nghe phải chấp nhận thông tin từ người nói thì hai bên mới chân thành hướng đến kết quả được kỳ vọng.

Khi áp dụng các nguyên tắc cơ bản để giao tiếp hữu hiệu, chúng ta không chỉ truyền đạt thông điệp một cách dễ dàng hơn mà còn hoàn thành mục tiêu một cách trơn tru và nhanh chóng hơn; nhân viên sẽ đạt năng suất cao hơn và vui vẻ hơn, các nhà quản lý sẽ ít gặp rắc rối hơn và hài lòng hơn trong công việc.

Trong cuốn sách này, ta sẽ tìm hiểu một số chiến lược để cải thiện việc giao tiếp bằng lời nói và văn bản – những kỹ năng hệ trọng để thành công hơn nữa trong sự nghiệp và trong mọi khía cạnh của cuộc sống.

Ta sẽ học cách hoàn thiện kỹ năng giao tiếp bằng lời trong các trải nghiệm hàng ngày, từ cách nói chuyện trực diện với người khác – tức nghệ thuật đối thoại – cho đến cách diễn thuyết trước đám đông hoặc trình bày bản báo cáo cho một nhóm hoặc một ủy ban.

Ta sẽ học cách thực sự lắng nghe điều người khác nói để hiểu thấu đáo thông điệp. Ta sẽ tìm hiểu xem ngôn ngữ cơ thể giúp tăng cường hay làm thui chột thông điệp như thế nào và biết cách diễn giải ngôn ngữ cơ thể của người đang lắng nghe ta.

Ta cũng sẽ học cách làm cho văn bản giao tiếp – dù ở dạng thư tín, biên bản, e-mail hoặc tin nhắn – trở nên rõ ràng, cô đọng, hoàn chỉnh và hấp dẫn hơn đối với người đọc.

Để khai thác trọn vẹn cuốn sách này, trước tiên bạn đọc hãy đọc toàn bộ để hấp thu khái niệm tổng thể về cách trao và nhận ý tưởng lẫn thông tin.

Sau đó đọc lại từng chương và bắt đầu áp dụng các bước hướng dẫn để hoàn thiện từng khía cạnh được đề cập. Cách đọc này sẽ giúp bạn đi đúng hướng để trở thành một người giao tiếp nhuần nhuyễn hơn – một bước tiến lớn trên hành trình đến đỉnh thành công.

Tiến sĩ Arthur R. Pell

*
Chương 1
TRUYỀN ĐẠT Ý TƯỞNG CHO NGƯỜI KHÁC

Don M. thốt lên đầy tức giận. “Tôi đã giải thích cặn kẽ cách làm. Anh ta bảo với tôi rằng mình đã hiểu và bây giờ anh ta làm hỏng bét mọi chuyện. Phải làm lại hết từ đầu.”
Tình huống này có thường xuyên xảy đến với bạn không? Bạn hướng dẫn tỉ mỉ cho cấp dưới, giải thích một khái niệm nào đó cho đồng nghiệp, mô tả quy trình cho khách hàng – và yên tâm người nọ đã hiểu rõ để rồi sau đó phát hiện ra họ chẳng hiểu gì cả. Ta có thể tránh được biết bao rắc rối và tiết kiệm được biết bao thời gian nếu đoan chắc rằng những gì ta nói đã được người nghe đón nhận đúng như ta mong đợi.

Người nghe có thật sự hiểu ý không? Khi Don hướng dẫn chi tiết cho thuộc cấp, bạn nghĩ anh ta đã hỏi thế nào sau khi trình bày? Bạn đã đoán đúng. Anh ta hỏi, “Hiểu không?” Và bạn nghĩ thuộc cấp của anh ta trả lời thế nào? Một lần nữa bạn đoán đúng. Chắc chắn người đó đáp, “Vâng, tôi hiểu.” Khi ai đó bảo rằng họ hiểu, điều này không có nghĩa rằng họ thật sự hiểu. Một số người khác cho rằng họ hiểu những gì người khác nói với họ và, tất nhiên, họ trả lời rằng họ hiểu. Tuy nhiên, do cách diễn giải vấn đề của người nghe có thể khác với cách của người nói, có nguy cơ họ thật sự không hiểu gì cả. Có người hiểu một phần nội dung đã được truyền đạt và cho rằng mình hiểu tất cả. Lại có những người không hiểu gì hết nhưng quá ngượng ngùng không thể thú nhận với sếp rằng họ không hiểu nên đành thốt ra rằng họ hiểu và cố gắng tự hình dung. Trong những tình huống như thế này, việc truyền đạt thông tin rõ ràng không đạt hiệu quả và có nguy cơ xảy ra hiểu lầm, phát sinh ngộ nhận, lãng phí thời gian, tổn hại hòa khí và không hoàn thành công việc.

Những người giao tiếp thành thạo sẽ truyền đạt ra sao? Ta hãy xem qua một số câu trả lời từ cuộc khảo sát dành cho các nhà quản lý, quản đốc nhà máy, giám đốc kinh doanh và các chuyên gia quản trị khác.

Betty M., quản lý của một công ty du lịch ở New York, cho biết rằng cô không bao giờ hỏi nhân viên xem họ có hiểu nội dung hướng dẫn hay không. Thay vào đó, cô yêu cầu cấp dưới cho biết họ sẽ làm gì. “Tôi trắc nghiệm họ,” Betty chia sẻ. “Nếu giao việc cho thư ký thực hiện, sau khi giải thích, tôi sẽ hỏi cô ấy định làm gì. Trong trường hợp cô ta hiểu khác với những gì tôi nghĩ, tôi có thể điều chỉnh ngay tại chỗ trước khi công việc gặp rắc rối. Nếu công việc thuộc dạng phức tạp, tôi sẽ hỏi một loạt câu hỏi như: ‘Cô sẽ làm gì nếu xảy ra X?’ và ‘Giả sử nếu phát sinh Y thì sao?’”

Một phần trách nhiệm của Betty là hướng dẫn nhân viên cách dùng máy tính để nhận đặt chỗ từ khách, cũng như nhận yêu cầu đặt mua và phát hành vé máy bay. Cô cho biết: “Để đảm bảo có thể tin tưởng nhân viên sẽ sử dụng máy tính một cách chính xác, ngoài việc đặt câu hỏi, tôi yêu cầu họ thực hành trên máy tính cho tôi xem cách họ xử lý vấn đề. Khi quan sát họ thực hành trên máy tính, tôi có thể đích thân đánh giá họ đã tiếp thu và nắm vững vấn đề đến mức nào.”

Thông điệp có được chấp nhận không?

Hiểu rõ thông điệp là một tiêu chí cơ bản để đánh giá hiệu quả cuộc giao tiếp, nhưng còn một yếu tố khác quan trọng không kém. Đó là thông điệp không những phải được hiểu mà còn phải được đối phương chấp nhận. Khi nhà quản lý bảo rằng việc ấy phải làm xong trước 3 giờ chiều trong ngày, chắc chắn nhân viên biết rõ điều đó có nghĩa là gì, nhưng cô ta tự nhủ, “không thể.” Bạn nghĩ liệu việc ấy có xong trước 3 giờ không? Hầu như không. Nếu không cảm thấy mục tiêu ấy là hợp lý và khả thi, người thực hiện sẽ không nỗ lực để hoàn thành kịp thời hạn.

Louise R., chủ doanh nghiệp kiêm nhà điều hành dịch vụ bảo trì cao ốc ở Rock Hill, bang Nam Carolina, xử lý tình huống dạng này bằng cách kêu gọi sự hợp tác của công nhân. Thông thường, khi có một nhóm nhân công tham gia vào dự án, trước tiên Louise tập hợp họ lại và trình bày với họ về yêu cầu của dự án và lý do cần có áp lực thời gian. Sau đó, cô hỏi họ nghĩ gì về thời gian hoàn thành và có đề xuất nào khác hay không. Thường, họ sẽ đưa ra các giải pháp thậm chí còn tốt hơn điều mà cấp quản lý dự trù. Nhưng đôi khi, qua các cuộc họp, Louise biết rằng công việc cần thêm thời gian hoặc nhân viên cần thêm sự trợ giúp và ước tính ban đầu của cô về thời gian là quá lạc quan. Bởi vì nhân viên biết người chủ sẵn sàng lắng nghe và khuyến khích họ tham gia hoạch định công việc, họ hợp tác tích cực hơn mỗi khi công việc gặp khó khăn và nếu cần, họ sẵn lòng nỗ lực hơn, bỏ nhiều công sức hơn hay gắn bó chặt chẽ hơn.

Tính trước điều sẽ nói

Dù sắp trình bày trước một nhóm hay nói chuyện với một người, ta nên suy nghĩ trước về thông điệp và dự tính cách trình bày. Đôi khi ta sẽ phải nghĩ cách ứng biến trước một tình huống hoặc thậm chí không có thời gian để chuẩn bị. Nhưng thường thì khi cần thảo luận điều gì đó, ta vẫn có thể chuẩn bị ngay cả khi mới được thông báo cách đấy ít phút.

Nắm chủ đề

Trong công việc, ta thường giao tiếp với người khác về các chủ đề mà ta hoàn toàn quen thuộc: công việc ta đang phụ trách, các vấn đề thuộc lĩnh vực chuyên môn hoặc các vấn đề liên quan đến công ty. Tuy nhiên, ta vẫn nên xem lại cứ liệu để đảm bảo nắm được đầy đủ thông tin và sẵn sàng trả lời mọi câu hỏi.

Thỉnh thoảng, ta cũng sẽ được yêu cầu trình bày những vấn đề không thuộc sở trường. Chẳng hạn, công ty có thể muốn mua một phần mềm máy tính mới và yêu cầu ta tìm hiểu.

  • Tìm hiểu càng nhiều càng tốt về chủ đề ấy. Nắm bắt nhiều gấp mười lần so với những gì cần trình bày.
  • Ghi chép về ưu khuyết điểm của từng hạng mục hoặc giải pháp được đề xuất, v.v…
  • Cho dù sẽ trình bày trước một người (như cấp trên) hay trước một nhóm các quản lý hoặc chuyên gia kỹ thuật, hãy sẵn sàng trả lời các câu hỏi phát sinh về mọi chủ đề có thể được nêu ra.

Hiểu người nghe

Ngay cả những người giao tiếp giỏi nhất cũng sẽ thất bại trong việc truyền đạt thông tin nếu người nghe không hiểu họ. Một nửa sự thành công trong giao tiếp nằm ở việc hiểu người nghe. Hãy chọn từ ngữ dễ hiểu với họ. Nếu người nghe xuất thân với nền tảng chuyên môn, ta có thể dùng thuật ngữ chuyên môn để giao tiếp vì người nghe sẽ hiểu một cách rõ ràng và dễ dàng. Nhưng nếu nói về vấn đề kỹ thuật với người không thuộc lĩnh vực ấy, chớ dùng thuật ngữ chuyên môn. Nếu người nghe không hiểu những từ ngữ ta truyền đạt, thông điệp ấy sẽ mai một.

Ví dụ, Charles là một kỹ sư, công việc hàng ngày của anh là trao đổi và làm việc với các kỹ sư khác vốn lúc nào cũng dùng thuật ngữ chuyên môn. Giờ đây, giả sử Charles phải thuyết trình với bộ phận tài chính của công ty để thu xếp nguồn vốn cho một dự án công nghệ mới. Chính Charles, chứ không phải những người nghe, có trách nhiệm đảm bảo thông tin được truyền đạt trọn vẹn. Nếu được, anh nên giải thích vấn đề kỹ thuật bằng ngôn ngữ đời thường. Tuy nhiên, nếu cần sử dụng thuật ngữ, Charles phải giải thích thật rõ thuật ngữ ấy khi sử dụng lần đầu và ít nhất một lần nữa nếu anh cảm thấy cần phải củng cố để người nghe nắm rõ.

Những người bị thuyết phục nghĩ khác với ý của mình thực chất vẫn không thay đổi quan điểm. – Dale Carnegie

Phát âm dõng dạc

Tất cả chúng ta đều từng gặp những người nói lí nhí, nói quá nhanh hoặc quá chậm hoặc có cách nhấn âm khó hiểu. Nếu người nói không phát âm rõ ràng, phần lớn thông điệp mà họ cố gắng truyền đạt sẽ không đến được với người nghe. Cải thiện kỹ năng phát âm là việc khá dễ dàng. Một số cách có thể áp dụng sẽ được bàn trong Chương 4.

Ngôn ngữ cơ thể

Một số hành vi mà ta vô tình biểu lộ có thể gây tác động mạnh mẽ đến việc tạo ấn tượng cho người khác. Quá trình nghiên cứu của các nhà ngôn ngữ học xã hội về giao tiếp trực diện đã xác định rằng chỉ có 7% thông điệp được truyền từ người này sang người khác thông qua lời nói. Khoảng 38% ngữ nghĩa được truyền qua các nét đặc trưng về âm thanh – giọng nói, điểm dừng, điểm nhấn, v.v…và 55% ngữ nghĩa của thông điệp được truyền đạt qua các tín hiệu trực quan mà chúng ta gọi là “ngôn ngữ cơ thể”. Thông thường, chúng ta không biết điều này ảnh hưởng thế nào đến cách người khác cảm nhận về ta.

Tư thế

Tư thế chỉn chu (hoặc tệ hại) thậm chí đã được nhìn thấy từ xa và ghi dấu ấn ngay lập tức vào phần não bộ cảm xúc của người đối diện. Điều này bộc lộ rõ hơn các tín hiệu phi ngôn ngữ khác vì nó thể hiện qua toàn bộ cơ thể.

Nghiên cứu cho thấy người ta quan niệm rằng những ai có tư thế chỉn chu thì được mến mộ, giàu tham vọng, đáng tin tưởng, thân thiện và thông minh hơn những người có dáng vẻ xuề xòa. Nên nhớ việc sửa dáng ban đầu sẽ khó tránh cảm giác gượng gạo và cường điệu. Hãy tập dáng đứng thẳng, vai ngang và giữ thân dưới cân bằng đều.

Trong tất cả các nét biểu cảm trên khuôn mặt, nụ cười gây ảnh hưởng mạnh nhất. Nụ cười thực chất có thể khiến người khác dễ tiếp thu quan điểm của ta hơn. Khi ta mỉm cười, người khác gần như luôn cười đáp lại. Hơn cả sự hồi đáp, nụ cười phản ánh sự niềm nở và trạng thái an lạc của chính chúng ta.

Một nụ cười không chân thành gây hại hơn cả khi ta không cười. Đừng cố gắng cười tươi bằng duy nhất mỗi cơ hàm. Một nụ cười đáng tin cậy phải huy động toàn bộ gương mặt và xảy ra một cách tự phát khi ta trải nghiệm một suy nghĩ tích cực về mối liên hệ mà ta đang có.

Khi mỉm cười với người khác, bạn đang nói với họ một cách tinh tế rằng bạn thích họ, ít nhất ở một mức độ nào đó. Họ sẽ hiểu ý và sẽ thích bạn hơn. Hãy tập thói quen mỉm cười. Chẳng có gì để mất cả. – Dale Carnegie

Giao tiếp bằng mắt

Khi ta nhìn người nghe, điều đó hàm chứa sự tin tưởng, trung thực và sự quan tâm của ta đối với họ. Tình trạng thiếu tiếp xúc bằng mắt thường được cho là biểu hiện của nỗi sợ, sự thiếu trung thực, lòng thù địch hoặc cảm giác nhàm chán.

Nghiên cứu cho thấy, trong các cuộc phỏng vấn tuyển dụng, các ứng viên trả lời đầy đủ và tường tận hơn khi người phỏng vấn duy trì sự tiếp xúc bằng ánh mắt. Trong lớp học, sự tiếp thu và ghi nhớ của học viên liên quan trực tiếp đến sự tiếp xúc bằng mắt của người dạy. Tuy nhiên, tránh nhìn chằm chặp vào mắt người khác. Hãy nhìn vào toàn bộ gương
mặt họ.

Cách hiểu ngôn ngữ cơ thể của người nghe sẽ được thảo luận trong Chương 3.

Truyền hình ảnh thông điệp

Chúng ta nhận thông tin bằng cả năm giác quan. Ý tưởng và cảm giác hình thành từ khứu giác, vị giác và xúc giác, nhưng hầu hết dữ liệu mà trí não của ta xử lý lại xuất phát từ thính giác và thị giác – âm thanh và hình ảnh. Điều này đã thay đổi nhiều trong thời đại truyền hình. Giới truyền thông đã hợp nhất âm thanh và hình ảnh với nhau khi truyền phát trong suốt một thời kỳ đến mức khiến ta ngày nay lớn lên đã quen với việc nhận thông tin đồng thời qua thính giác và thị giác. Bằng cách áp dụng phương pháp “phát sóng đồng bộ” này để giao tiếp với người khác, thông điệp của chúng ta cũng sẽ được truyền đạt hiệu quả hơn.

Đừng nói suông – hãy minh họa!

Trong khi đào tạo nhân viên xử lý các yêu cầu bồi thường bảo hiểm, Joan nhận thấy khi cô vừa mô tả quy trình vừa vẽ lưu đồ thì họ dễ hiểu hơn. Mỗi giai đoạn, cô lại minh họa bằng cách vẽ khung cho từng bước và vẽ mũi tên để diễn tả sự luân chuyển từ bước nọ sang bước kia.

Steve rút ra kinh nghiệm đáng buồn rằng chỉ giảng suông cho nhân viên về cách làm thôi thì không đủ. Trừ phi các thực tập sinh được dẫn đi tham quan từng ngóc ngách trong nhà kho, họ vẫn cảm thấy mờ mịt về những điều anh hướng dẫn. Nhưng đây là một việc rất tốn thời gian nên Steve đã đơn giản hóa công tác đào tạo bằng cách thiết kế các mô hình nhà kho để định hướng cho nhân viên trong khi giảng giải về công việc họ sẽ làm.

Nhiều nhà quản lý trang bị bảng lật hoặc bảng phấn trong văn phòng để có thể sử dụng phương tiện trực quan hỗ trợ cho nội dung truyền đạt bằng lời. Bằng cách minh họa các chủ đề thảo luận bằng biểu đồ, đồ thị, sơ đồ hoặc bản phác thảo, nội dung đang được trình bày trở nên hiệu quả hơn nhiều. Khi chủ đề được trình bày cùng với hình ảnh trực quan, người nghe thường hiểu nhanh hơn và nhớ lâu hơn.

Một trong những giáo sư nổi tiếng nhất tại Đại học Báo chí Syracuse là một họa sĩ biếm họa. Ông vẽ minh họa bằng tranh biếm và chân dung hí họa trong lúc giảng bài. Các đồng nghiệp của ông đã chế giễu và cho rằng cách này rất không chuyên nghiệp. “Ông ấy chỉ làm hề cho sinh viên – chứ chẳng giảng gì được,” họ tuyên bố. Vâng, các sinh viên của ông thấy tức cười, nhưng họ tiếp thu kiến thức nhiều gấp bội so với việc chỉ nghe giảng suông và nhiều năm sau vẫn nhớ như in những gì ông giảng.

Phương pháp sử dụng công cụ hỗ trợ trực quan hiệu quả sẽ được thảo luận trong Chương 5.

Mục đích của ta là làm cho khán giả thấy điều ta thấy, nghe điều ta nghe, cảm nhận điều ta cảm nhận. Các chi tiết liên quan, được mô tả bằng ngôn ngữ cụ thể, đầy màu sắc, là cách tốt nhất để tái hiện tình tiết như nó đang xảy ra và giúp người nghe dễ hình dung. Dale Carnegie

Tạo hình ảnh trực quan qua điện thoại

Một phương tiện mà ta không thể bổ trợ bằng hình ảnh chính là điện thoại. Tuy nhiên, ta có thể giúp người nghe “nhìn thấy” những gì ta nói bằng cách vẽ hình cho từ ngữ – “ngôn hình”. Ngôn hình cho phép người nghe hình dung trong đầu những gì ta đang nói.

Nếu cần chỉ đường đến trụ sở của mình, ta nói: “Hãy đi dọc xa lộ I-95 đến lối ra xa lộ số 23 (Exit 23), là đường Mulberry. Rẽ phải và đi đến chốt đèn thứ tư, đó là Đại lộ 17. Rẽ trái vào Đại lộ 17 và chạy qua mười hai khối phố đến đường Smith. Rẽ phải vào đường Smith và chạy tiếp năm khối phố nữa. Văn phòng của chúng tôi nằm ở số 2345 đường Smith.”

Rõ rồi. Nhưng bây giờ ta hãy chỉ dẫn bằng cách sử dụng ngôn hình: “Hãy đi dọc xa lộ I-95 đến lối ra xa lộ số 23, đó là đường Mulberry. Rẽ phải ngay đó và đi đến chốt đèn giao thông thứ tư. Có một trạm Texaco bên trái và một tiệm McDonald’s bên phải. Đại lộ 17 nằm ngay đó. Rẽ trái vào Đại lộ 17. Chạy đến trạm cứu hỏa, đó là đường Smith. Rẽ phải và lái đến tòa nhà bằng gạch màu vàng bên trái. Đó là văn phòng của chúng tôi, số 2345 đường Smith.”

Cách này không dễ hơn sao? Khách không cần phải đếm số chốt đèn, số giao lộ hay bận tâm tìm tên đường. Họ chỉ cần để mắt tìm các mốc đã được miêu tả trực quan.

Dựng ảnh tương lai

Những người bán hàng thành công đều sử dụng ngôn hình. Audrey bán máy tính. Trong khi thảo luận với khách hàng tiềm năng, cô biết được rằng anh này chủ yếu bận tâm về tình trạng lộn xộn của văn phòng mà anh đang quản lý. “Giấy tờ và hồ sơ nằm vương vãi khắp nơi,” anh than phiền. “Và tôi không bao giờ tìm thấy hồ sơ khi cần – lúc nào chúng cũng nằm đâu đó.”

Sau khi mô tả các khía cạnh kỹ thuật về sản phẩm của công ty, cô nói: “Hãy hình dung sáu tháng nữa. Anh bước vào văn phòng. Không có chồng giấy nào trên bàn hay trên ghế. Tất cả nhân viên của anh đều đang làm việc trên máy tính; anh cần tìm một hồ sơ. Anh ngồi vào máy tính và gõ tên tập tin. Ngay lập tức thông tin anh muốn hiện ra trên màn hình. Không cần chờ đợi. Không còn cảm giác ức chế.”

Audrey đã dùng ngôn hình để vẽ bức tranh về tương lai. Nhà quản lý không cần nhiều trí tưởng tượng để hình dung điều này và nhận ra giá trị để mua hàng.

Những rào cản đối với việc truyền đạt

Bất kể việc chuẩn bị và trình bày thông điệp chu đáo đến đâu, kết quả thường không được như những gì ta mong đợi. Các rào cản luôn nảy sinh và cản trở quá trình truyền đạt.

Một vài rào cản trong đó mang tính tâm lý, không phải thể lý. Ta có thể phát âm hoàn hảo và chọn từ ngữ khôn ngoan, nhưng thông tin nhiễu lại hình thành từ các khía cạnh vô hình: từ những giả định, thái độ và hành trang cảm xúc của mỗi chúng ta.

Kiểm tra các giả định

Ta có một ý tưởng khá hay về nguyên nhân và cách giải quyết một vấn đề cụ thể. Khi thảo luận với người khác, ta giả định rằng họ cũng biết nhiều về vấn đề đó như chúng ta, nên những gì ta nói đều dựa trên giả định rằng họ nắm được những thông tin mà thực chất họ không có. Kết quả là, chúng ta không trao cho họ đủ thông tin.

Nhận biết thái độ của chúng ta

Một rào cản khác đối với việc giao tiếp chính là thái độ của người truyền đạt và người tiếp nhận. Một nhà quản lý kiêu ngạo sẽ truyền đạt thái độ này theo cách chỉ thị và thông tin. Họ sẽ tỏ ra như đang nói chuyện với nhân viên. Điều này gây phật ý và cản trở sự giao tiếp. Để thông điệp được tiếp nhận, nó không những phải được hiểu mà còn phải được người nghe chấp nhận. Khi cảm thấy phật ý, người nghe sẽ khó lòng chấp nhận điều này.

Một nhân viên cảm thấy phật ý với thái độ của lãnh đạo sẽ không thực sự “nghe” những gì được nói. Các nhà lãnh đạo giỏi đều tránh những biểu hiện của sự kiêu ngạo như mỉa mai và phán xét khi giao tiếp với nhân viên.

Dè chừng các định kiến

Con người có xu hướng chỉ nghe những gì họ muốn nghe. Thông điệp mà họ nhận được thường bị bóp méo bởi bất kỳ thông tin nào họ đã nghe về cùng chủ đề. Vì vậy, nếu thông tin mới khác với thông tin được mong đợi, họ có thể chối bỏ vì cho rằng thông tin không chính xác. Thay vì thực sự nghe thông tin mới, họ chỉ nghe những gì tâm trí mách bảo.

Điều đó có nghĩa là gì? Mọi người phải được rèn luyện để giữ tâm trí cởi mở. Khi ai đó nói với họ điều gì đó, họ phải nỗ lực hơn để lắng nghe và đánh giá thông tin mới một cách khách quan, thay vì bỏ ngoài tai chỉ vì nó khác với các định kiến của họ.

Trong giao tiếp, hãy cố gắng tìm hiểu định kiến của người đối diện. Nếu họ là những người mà ta thường xuyên làm việc cùng, ta có thể biết cách họ nhìn nhận nhiều vấn đề. Khi trình bày quan điểm với họ, hãy xét đến những niềm tin họ đã có. Nếu niềm tin của họ khác với ta, hãy chuẩn bị tinh thần để vượt qua những rào cản đó.

Định kiến và thành kiến – của ta và của họ

Thành kiến đối với một người sẽ ảnh hưởng đến cách ta nhận thông điệp của họ. Ta lắng nghe chăm chú hơn và dễ chấp nhận ý tưởng từ người nào ta thích và tôn trọng. Ngược lại, ta có khuynh hướng bỏ ngoài tai và phản bác ý tưởng của những người ta không thích.

Sự nhận thức là thực tại trong tâm trí của người nhận thức. Nếu nhận thức của ta về một tình huống và về những người mà ta giao tiếp không đồng điệu, ta sẽ rơi vào trạng thái hướng đến các mục đích khác nhau.

Thành kiến cũng ảnh hưởng đến cách tiếp nhận thông tin. Mọi người thường bỏ ngoài tai những quan điểm đối lập về các vấn đề mà họ có thiện cảm. Carol là ví dụ điển hình đối với trường hợp này. Là kiểm soát viên của công ty, cô chịu trách nhiệm cắt giảm chi phí. Vậy nhưng cô không muốn nghe bất kỳ ý kiến bàn luận nào có thể làm tăng chi phí, bất kể lợi ích lâu dài là gì. Để thuyết phục Carol về một ý tưởng độc đáo, ta phải nhấn mạnh rằng dù phí tổn có thể gia tăng trước mắt, nhưng lâu dài sẽ mang lại lợi ích về chi phí.

Nhiều người thậm chí không ý thức được thành kiến của chính họ. Hãy thử phân tích các quyết định của bản thân trong quá khứ. Chúng có bị ảnh hưởng thái quá bởi các thành kiến của ta không? Hãy làm theo sáu bước sau:

  1. Nhận biết những thành kiến của bản thân.
  2. Xác định lý do ta duy trì những thành kiến này.
  3. Nhìn nhận các đặc điểm chung.
  4. Gạt thành kiến sang một bên, giữ đầu óc cởi mở.
  5. Cố gắng xem xét ý tưởng của người khác một cách
    khách quan.
  6. Không cho phép một trải nghiệm tiêu cực khơi dậy
    thành kiến của bản thân.

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Trích đăng “Hành trình người viết” – Christopher Vogler

Published

on

Trích từ: Hành Trình Người Viết
Tác giả: Christopher Vogler
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

./.

HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH

“Loài người thật ra chỉ có tầm hai hay ba câu chuyện thôi,

và chúng được lặp đi lặp lại mải miết cứ như lần đầu được kể.”

— Willa Cather, trong O Pioneers!

Về lâu dài mà nói, Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt của Joseph Campbell là một trong những quyển sách có sức ảnh hưởng lớn nhất thế kỷ 20.

Những tư tưởng mà quyển sách truyền tải đang ảnh hưởng to lớn tới cách thức kể chuyện. Các tay viết đang dần nhận thức rõ hơn về các hình mẫu trường tồn mà Campbell đã đưa ra, và góp phần làm giàu thêm bằng chính công sức của họ.

Hiển nhiên Hollywood cũng đã nhận ra công trình của Campbell hữu ích thế nào. Những nhà làm phim như George Lucas và George Miller đều bày tỏ lòng biết ơn tới Campbell, tầm ảnh hưởng của ông còn được thể hiện trong các phim của Steven Spielberg, John Boorman, Francis Coppola, Darren Aronofsky, Jon Favreau, và nhiều người khác.

Không có gì ngạc nhiên khi Hollywood rất ưng các tư tưởng mà Campbell trình bày trong tác phẩm của mình. Những khái niệm ông đưa ra như hộp dụng cụ vào nghề cho biên kịch, nhà sản xuất, nhà thiết kế… Chúng ẩn chứa đầy đủ các công cụ chắc chắn để phục vụ hoàn hảo cho mục đích sáng tác. Những công cụ này cho phép người dùng dựng nên câu chuyện đáp ứng đủ loại tình huống, một câu chuyện vừa có thể ẩn chứa bi kịch, lại vừa mang tính giải trí, và còn chuẩn xác về mặt tâm lý. Chúng cho phép người dùng chẩn đoán mọi vấn đề ẩn chứa trong các kịch bản khó nhằn, cũng như cung cấp giải pháp chỉnh sửa để đưa kịch bản lên tới tầm khả thi đỉnh cao của nó.

Thời gian là bảo chứng rõ ràng nhất cho tác dụng của hộp đồ nghề này. Chúng tồn tại lâu đời hơn cả những kim tự tháp, vòng tròn đá Stonehenge hay những hình vẽ sơ khai trên vách hang động.

Bộ công cụ này được Joseph Campbell hoàn thành khi ông bỏ công sức góp nhặt và quy mọi nhánh tư tưởng về một mối, sau đó nhìn nhận, diễn giải, đặt tên, và sắp xếp lại toàn bộ. Chính ông là người đầu tiên đem những hình mẫu chứa đựng trong các câu chuyện ra ánh sáng.

Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt là bản báo cáo của Campbell về cấu trúc bền vững nhất trong văn học, xét cả văn nói lẫn văn viết: thần thoại về người anh hùng. Trong nghiên cứu của mình về thế giới thần thoại, Campbell nhận ra rằng về bản chất mọi câu chuyện đều y hệt nhau, một cấu trúc lặp đi lặp lại bất tận với vô hạn biến thể.

Ông nhận ra rằng trong mọi cách kể chuyện, dù vô tình hay hữu ý, thì cũng theo các khuôn mẫu cổ đại từ thần thoại. Và mọi câu chuyện, từ những chuyện đùa thô thiển nhất cho tới đỉnh cao văn học, đều có thể diễn giải dựa trên Hành Trình Anh Hùng: vòng lặp hành trình cùng các nguyên tắc của nó.

Các hình mẫu trong Hành Trình Anh Hùng mang tính chung nhất, áp dụng ở bất kỳ nền văn hóa, bất kỳ thời điểm nào. Hệt như chính loài người chúng ta, khả năng biến thể tái lặp của các hình mẫu là vô hạn, dẫu cho bản chất nguyên thủy không hề thay đổi. Hành Trình Anh Hùng là một chuỗi các yếu tố bền bỉ bật lên từ sâu thẳm nhất trong tâm trí con người, có khác biệt qua các nền văn hóa, nhưng về bản chất vẫn là một.

Suy nghĩ của Campbell cũng song hành với nhà tâm lý học người Thụy Sỹ Carl G. Jung, người từng viết về các cổ mẫu (hoặc nguyên mẫu) như sau: chúng là những nhân vật hoặc nguồn năng lượng được lặp lại, liên tiếp, xuất hiện trong giấc mơ của mọi người và các câu chuyện thần thoại trong mọi nền văn hóa. Jung cũng gợi ý rằng những nguyên mẫu trên phản ánh những khía cạnh khác nhau của tâm trí con người, rằng bản dạng của chúng ta được phân thành nhiều tính cách để đối ứng với những thăng trầm khác nhau của cuộc đời. Ông nhận ra có sự tương thích mạnh mẽ giữa các hình ảnh trong giấc mơ của bệnh nhân mình chăm sóc với các cổ mẫu trong thần thoại. Ông cho rằng cả hai đều xuất phát từ những nguồn sâu thẳm hơn: vô thức tập thể (collective unconscious) của loài người.

Những nhân vật được lặp đi lặp lại trong thế giới thần thoại cũng chính là những thứ thường xuyên xuất hiện trong giấc mơ và tưởng tượng của chúng ta: các anh hùng trẻ tuổi, những bô lão thông thái, người biến hình, và các nhân vật phản diện núp trong bóng tối. Điều đó lý giải tại sao thần thoại và các câu chuyện được dựng nên từ hình mẫu của chúng đều chứa đựng triết lý về tâm lý.

Các câu chuyện như thế là những hình mẫu chính xác cho việc khai thác tâm trí con người, bản đồ chân thực của tâm hồn. Chúng chính xác về mặt tâm lý, và đưa ra cảm xúc chân thật ngay cả khi được dùng để diễn giải các sự kiện siêu phàm, phi thường, phi thực tế.

Vì lẽ đó, các câu chuyện trên đều sở hữu tính phổ quát. Bất cứ ai cũng có thể cảm thụ được sức hấp dẫn của những câu chuyện dựa trên mô hình Hành Trình Anh Hùng, chính bởi nguồn gốc phổ quát và phản ánh được vạn vật tự nhiên.

Chúng giải thích những câu hỏi phổ biến thuở còn trẻ thơ của mọi người: Tôi là ai? Tôi đến từ đâu? Khi chết rồi tôi sẽ tới đâu? Thiện ác là gì? Tôi phải đối phó với chúng ra sao? Ngày mai sẽ thế nào? Ngày hôm qua đã trôi về đâu? Bên ngoài kia còn ai không?

Những tư tưởng được lồng vào trong thần thoại, sau đó được Campbell định dạng lại trong tác phẩm Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có thể được dùng để thấu hiểu hầu hết vấn đề nhân sinh. Chúng là chìa khóa hữu ích cho cuộc sống, cũng như công cụ hiệu quả để lôi cuốn đám đông khán giả.

Nếu bạn muốn hiểu rõ các tư tưởng đằng sau Hành Trình Anh Hùng, chẳng có cách nào khác ngoài việc tìm đọc tác phẩm của Campbell. Đó sẽ là trải nghiệm thay đổi đời người.

Đọc nhiều thần thoại cũng là ý hay, nhưng đọc sách của Campbell thì hiệu quả cũng chẳng khác là bao bởi lối kể chuyện bậc thầy, và ông cũng thích minh họa những luận điểm bằng ví dụ lấy từ chính kho tàng thần thoại đồ sộ.

Trong Chương 4 của Người Hùng Mang Ngàn Gương Mặt có tên “Những Chiếc Chìa Khóa”, Campbell đã đưa ra dàn bài cho Hành Trình Anh Hùng. Tôi đã mạn phép thay đổi dàn bài một chút, cố gắng phản ánh thêm về các chủ đề phổ biến trong điện ảnh bằng các minh họa trích từ các bộ phim đương đại, và cả một vài phim cổ điển khác. Độc giả có thể so sánh hai dàn bài và các thuật ngữ thông qua Bảng 1 ngay dưới đây.

HÀNH TRÌNH NGƯỜI VIẾTNGƯỜI HÙNG MANG NGÀN GƯƠNG MẶT
HỒI MỘTKHỞI HÀNH, LY BIỆT
Thế Giới Bình Phàm
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Gặp Gỡ Sư Phụ
Vượt Ải Đầu Tiên
Thế Giới Thường Nhật
Tiếng Gọi Phiêu Lưu
Lời Từ Chối
Sự Trợ Giúp Siêu Nhiên
Vượt Ải Đầu Tiên
Bụng Cá Voi
HỒI HAIDẤN THÂN, KHỞI ĐẦU, VƯỢT QUA
Thử Thách, Đồng Minh, Kẻ Thù
Tiếp Cận Hang Động Trong Cùng
Khổ Hình   



Phần Thưởng
Con Đường Thử Thách 

Gặp Gỡ Nữ Thần
Ải Mỹ Nhân
Chuộc Tội Cùng Thánh Thần
Sự Sùng Bái
Ân Huệ Tối Thượng
HỒI BATRỞ VỀ
Con Đường Trở Về




Hồi Sinh
Quay Về Cùng Thần Dược
Từ Chối Trở Về
Hành Trình Kì Diệu
Sự Giải Cứu
Vượt Qua Thử Thách
Trở Về
Bậc Thầy Ở Hai Thế Giới
Tự Do Để Sống
BẢNG 1
So sánh dàn bài và thuật ngữ

Tôi sẽ kể lại giai thoại Anh Hùng theo cách riêng mình, và độc giả cũng nên làm tương tự. Mọi tay viết đều có thể nhào nặn các hình mẫu thần thoại theo mục đích riêng, hoặc theo nhu cầu của một nền văn hóa cụ thể nào đó.

Đó là lý do tại sao người hùng lại có muôn vàn gương mặt.

Một chú thích về thuật ngữ “anh hùng” được dùng ở đây, cũng tương tự như “bác sĩ”, hay “nhà thơ”, hoàn toàn có thể chỉ bất kỳ giới tính nào.

HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

Dẫu cho có muôn vàn biến thể, bản chất câu chuyện về Anh Hùng luôn là một hành trình. Họ từ bỏ cuộc sống dễ chịu quen thuộc cố hữu để dấn thân vào thế giới xa lạ đầy thử thách. Đó có thể là một hành trình hướng ngoại đến một địa điểm cụ thể nào đó: một mê cung, một khu rừng, hay một hang động, một thành phố, một quốc gia xa lạ, một địa điểm mới toanh, nơi sẽ trở thành võ đài cho chính họ chiến đấu với những thế lực phản diện khó nhằn.

Nhưng cũng có nhiều câu chuyện đưa ra hành trình hướng nội, tìm về tâm trí, trái tim, linh hồn của con người. Trong bất kỳ câu chuyện hấp dẫn nào cũng chứa đựng hành trình trưởng thành và thay đổi của nhân vật chính: từ tuyệt vọng đến hy vọng, từ yếu ớt đến mạnh mẽ, từ điên cuồng đến khôn ngoan, từ yêu thành hận, và ngược lại. Những hành trình đầy cảm xúc này mê hoặc khán giả và tăng cường giá trị theo dõi của chính câu chuyện.

Có thể nhận ra các chặng đường trên Hành Trình Anh Hùng ở khắp mọi câu chuyện, không chỉ gói gọn trong các phiên bản phiêu lưu hành động nảy lửa. Nhân vật chính luôn là người hùng trong mọi hành trình, dù cho con đường phiêu lưu kia chỉ xoay quanh tâm lý hay những mảng quan hệ của họ.

Các chặng trong Hành Trình Anh Hùng xuất hiện và liên kết theo một lẽ tự nhiên, ngay cả khi người viết chẳng hề để ý tới, nhưng những kiến thức góp nhặt từ kho tàng xa xưa này vẫn chứng tỏ độ hữu dụng trong việc nhìn nhận vấn đề và cải thiện cách kể chuyện. Hãy xem 12 chặng đường này như một địa đồ cho Hành Trình Anh Hùng, không chỉ để soi rọi đường đi, mà còn là con đường bền bỉ, linh hoạt, và đáng tin cậy bậc nhất.

CÁC CHẶNG ĐƯỜNG TRONG HÀNH TRÌNH ANH HÙNG

1. THẾ GIỚI BÌNH PHÀM

2. TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU

3. LỜI TỪ CHỐI

4. GẶP GỠ SƯ PHỤ

5. VƯỢT ẢI ĐẦU TIÊN

6. THỬ THÁCH, ĐỒNG MINH, KẺ THÙ

7. TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG

8. KHỔ HÌNH

9. PHẦN THƯỞNG (ĐOẠT LẤY GƯƠM BÁU)

10. CON ĐƯỜNG TRỞ VỀ

11. HỒI SINH

12. QUAY VỀ CÙNG THẦN DƯỢC

Đọc bài viết

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Cafe sáng