Trích đăng

Những nhục vinh khi đọc cuốn sách đầu

Tuyển tập Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa tập hợp gần năm mươi bài viết đặc sắc được tuyển chọn từ các giai phẩm xuân xuất bản tại sài Gòn từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970.

Published

on

Chi tiết tác phẩm

Trích từ: Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa

Tác giả: Phạm Công Luận

Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Xuất bản: Tháng 1.2020

Giới thiệu sách:

Tuyển tập Tùy bút – Hồi ký – Giai thoại trên báo xuân Sài Gòn xưa tập hợp gần năm mươi bài viết đặc sắc được tuyển chọn từ các giai phẩm xuân xuất bản tại sài Gòn từ thập niên 1950 đến giữa thập niên 1970. Tất cả được viết lại từ những câu chuyện có thực, có thể được thêm chút chi tiết ngẫu hứng tùy theo trí nhớ người kể nhưng không phải là những sáng tác mang tính hư cấu.

Đó là chuyện nhà cách mạng Tôn Văn nghe hát cô đầu tao nhã ở tiệm bà Đốc Sao nổi tiếng Hà Nội. Chuyện hai phụ nữ quý tộc Mỹ lẻn vào sân triều đình Huế để xem lễ mùng Một Tết ở điện Thái Hòa vốn chỉ chấp nhận sự hiện diện của nam giới.

Đó là những câu chuyện của giới báo chí một thời đình đám ở Sài Gòn. Câu chuyện cảm động lỉên quan đến nhà văn, nhà phóng sự yểu mệnh Vũ Trọng Phụng. Hay cảnh Tết trong tù thời chống Pháp hấp dẫn lạ lùng.

Đó còn là chuyện sân khấu thời thạnh trị với lời kể của người trong cuộc như nghệ sĩ Bảy Nhiêu, nghệ sĩ Năm Châu, soạn giả Duy Lân, nghệ sĩ Kim Cương, hoặc nghệ sĩ Phùng Há.

Thưởng thức các bài viết trong tuyển tập, không chỉ giúp độc giả hưỏng lợi như được đọc lại gần bốn mươi tờ báo xuân trải dàỉ qua gần ba mươi cái Tết trên đất Sài Gòn xưa, mà còn có cơ hội chiêu niệm về con người, xă hội, phong tục Việt Nam thời trước.

*

NHỮNG NHỤC VINH KHI ĐỌC CUỐN SÁCH ĐẦU

Hồ Hữu Tường

ÁNH SÁNG xuân Canh Dần 1950

Tôi sớm biết đọc chữ quốc ngữ, không phải nhờ ham học, mà nhờ ham ăn bánh. Ở một gia đình quê mùa, vừa đủ ăn, anh em tôi ít được dịp ăn bánh lạ. Hồi tôi lên năm anh cả tôi lớn hơn tôi chín tuổi được gởi đi học ở chợ, thỉnh thoảng về, đem nhiều thứ bánh ngon về đãi em. Trong trí tôi, đi học chỉ là đến một nơi đầy dẫy bánh ngon, ăn không hết, tha hồ đem cho em ăn nữa. Nên khi má tôi và chị ba tôi đẩy xuồng đưa anh tôi ra chợ học thì tôi khóc lóc đòi “đi học” cho được. Tại sao anh cả tôi lớn rồi không cưng nữa lại được tha hồ đi ăn bánh, còn tôi không được? Cha tôi thấy thằng nhỏ chướng như vậy bảo má tôi cho đi theo đến chợ đãi tôi một bụng bánh thì êm chớ gì!

Chợ Cái Răng lúc ấy còn leo heo, quê mùa lắm. Anh tôi ở nhà một ông thầy thuốc bắc, mà học thêm chữ nho với ông, cùng tập đọc chữ quốc ngữ với bà thầy. Hai vợ chồng không con. Khi thấy má tôi dắt anh tôi đến, lại có một thằng bé tí hon lóc cóc chạy theo, thì bà thương, hỏi chuyện, mới hay có thằng nhỏ ham “đi học” lạ như vậy. Sẵn dịp có người cắc chú gánh cà rem từ Cần Thơ vô bán, bà đãi cho tôi “học” một bữa, vừa ngọt, vừa béo, vừa thơm, mà nhứt là mát miệng. Ngon hơn các món bánh tôi được ăn từ hồi nào đến bây giờ. Rồi bà hỏi:

– “Học” có ngon không? Thôi ở ngoài nầy với thiếm mà “học” nghe!

Lẽ dĩ nhiên tôi ở lại là được bà thầy cưng lắm. Nhà tôi đông mà nghèo, nên tôi ít được chiều chuộng. Có buồn ngủ, thì cứ đi ngủ, chớ tôi đã có em rồi, các chị tôi lo dỗ em tôi, cần gì đến tôi nữa. Đến ở nhà bà thầy, thì tôi đã được dỗ ngủ, mà trưa bà cũng ép nằm trên võng cho bà đưa. Từ xưa đến giờ, tôi chưa biết nhõng nhẽo, nay nhờ dịp nầy mà tỏ ra rằng mình cũng có thể làm được việc ấy. Bà thầy ngồi đâu, thì tôi nhảy ngồi trong lòng, cho bà vuốt ve, nựng nịu. Và khi bà ngồi trên bộ ván mà dạy, cũng vậy nữa.

Học trò toàn là những anh lớn, quá tuổi nên xin vào trường công không được, đến đây học riêng cho biết đọc, biết viết thôi. Ngồi trong lòng bà thầy, nghe mãi thấy mãi cũng quen tai, quen mắt. Không biết má tôi lo làm mà quên tôi, hay là sau có người giữ, thì gởi luôn thể cho khỏi lo rớt ao té vũng. Mãn vụ gặt hái má tôi mới ra rước tôi về. Mấy anh lớn đã biết đọc rồi, mà tôi cũng đọc được.

Biết đọc, đối với tôi là một việc khổ hạnh hết sức. Xóm tôi rất xa trường, trừ một vài con nhà giàu có ra, tất cả đều mù chữ quốc ngữ. Thế mà có một thằng mới vừa năm tuổi lại biết đọc thì bà con quen lớn ai cũng muốn xem. Trong nhà chỉ có một cuốn truyện La Thông Tảo Bắc, tôi không nhớ là cuốn thứ mấy.

Người nào đến cũng bảo tôi lấy ra đọc thử. Mấy trang đầu thuật chuyện La Thông đến thành, ngoài bị vây, trong bị Tô Định Phương đóng cửa để mượn tay giặc giết. Đọc không hết trang thì tôi đã khóc tức tưởi, giận ghét sao có người ác như vậy. Đó là một dịp để cho ai nấy cười vì nước mắt tôi đã chảy nhiều quá, thấy lòa chữ, miệng cà hướt mãi không trôi mà cũng phải đọc cho ai nấy cười chơi. Tôi giận và ghét những người bà con này lắm, thấy mình bị họ hành phạt khổ sở như vầy, thì chẳng khác nào La Thông bị Tô Định Phương giày vò trong truyện.

Vài tháng sau, ông thầy chết, bà thầy dọn về Sài Gòn, tôi lại lóc cóc theo anh tôi, mỗi ngày lớn lần, chạy cả ba bốn cây số mà vào Cái Muồng đi học. Anh tôi lớn, ưa cờ bạc, ngày nào cũng lo lót tôi xu ăn bánh để tôi đừng méc, nên việc đi học với tôi vẫn còn ý nghĩa như cũ và đến trường chỉ là một nghi lễ phải có mà thôi: Và tôi cũng cầu đi như vậy cho êm tấm thân, vì ở nhà, hở ra là cha tôi bắt tôi đọc lớn lên truyện thơ đủ thứ mà cha tôi bắt đầu mua rất nhiều. Truyện nào, thơ nào cũng làm cho tôi khóc sướt mướt.

Nào Lục Vân Tiên đã mù rồi, mà thiên hạ còn bu lại gạt gẫm, bóc lột, hãm hại. Nào Tiết Nhơn Quý có tài và có lòng tốt mà bị yểm, bị hại luôn luôn. Mỗi lần đọc đến chỗ hoạn nạn thì tôi khóc tấm tức, nói nghe không rõ thì cha tôi rầy mắng; bảo cho ăn học uổng quá, đến đọc truyện cũng không nên thân. Vừa đau đớn trong lòng, vừa bị rầy, vừa giận ghét những người bày đặt những chuyện chỉ làm khổ thân tôi mà thôi, bị hành hạ khổ sở xác thịt, lẫn tâm hồn, làm sao tôi yêu văn chương được?

Trường Cái Muồng có hai lớp, học xong lớp nhứt rồi, tôi phải tái lại nữa. Và thấy bài vở cũ, chán quá, tôi ở nhà đi làm ruộng. Nói cho oai vậy, chớ công việc của tôi dễ lắm. Ngày nào cha và anh tôi đi phát, đi cào, thì gần trưa, tôi đem cơm cho cha tôi ăn, vì nơi ấy cách nhà đến gần ba cây số. Tôi lại đem vài đường câu giăng, một cái giỏ và một lon mồi. Trong bữa trưa ấy, thế nào tôi cũng được một giỏ cá, để cho cả nhà ăn bữa mai. Sống với thiên nhiên, lần lần tôi nhớ những vui thú của nhà trường, và bớt ghét truyện sách. Tuy vậy, cả năm tôi không đọc cái gì, bởi cha tôi không thèm bắt tôi đọc nữa, e rằng một chặp đây, tôi cảm động, khóc òa lên mà làm mất thú hứng đi. Nên chỉ có anh tôi đọc.

Rồi đến mùa khô, tôi phải ra ruộng mà coi chòi. Bởi ở xa nhà, nên lúa đập được bao nhiêu, thì đổ đống ngoài đồng, xong rồi chuyển về một thể. Tất nhiên là mỗi người có một cái chòi bên đống lúa để coi chừng. Thật lâu mới có dịp tát đìa. Tôi mới được đi bắt hôi. Thật lâu mới có đi đuổi chim, tôi mới được theo kiếm vài con về nướng ăn chơi. Còn dài đằng đằng, ở giữa ruộng minh mông mà coi chòi, thì buồn chán không thể nói.

Chòi tôi ở khít chòi chủ đất, có bà con xa và tôi gọi bằng cậu. Con trưởng của cậu đã lớn tuổi, nên đến coi sóc công việc làm, và có đem theo truyện sách đọc để giải buồn. Lúc đầu tôi không động đến làm gì. Sau lại tò mò lấy một quyển Tam Quốc đọc thử chơi, xem mình có quên chữ chăng. Đọc luôn một hơi, tôi lấy làm lạ, là sao truyện nầy không cố tình tả những người ác nghiệt hống hách, những kẻ ngay thẳng bị hoạn nạn, làm cho tôi phải khóc như các loại sách kia. Và đọc truyện, tôi thấy tôi sống những cảnh náo nhiệt hồi đó. Nếu không có những “đây nói về”, hoặc những “người đời sau có bài thơ rằng” thỉnh thoảng nhắc chừng, thì có lẽ tôi không biết là tôi đọc truyện, mà chánh tôi là một nhơn vật nào đó của truyện. Đó là lần thứ nhứt mà một thứ sách không làm cho tôi đau khổ lại làm cho tôi sung sướng.

Lúc ấy tôi có được đọc cả bộ và liên tiếp theo thứ tự trước sau đâu. Vừa “Thất cầm Mạch Hoạch”, lại đến “Đương Dương trường bản”, rồi sang “Thiệt chiến quần nho” hay “Quan Công phò nhị tẩu”… Đọc như thế, tức quá, tôi hỏi mượn đủ bộ. Thì mới hay rằng bộ Tam Quốc nầy cậu tôi cưng lắm không cho ai rờ tới.

Hồi trước anh hai (con cậu tôi) đã đọc rồi, nay muốn đọc lại, mới lén ăn cắp của cậu, đem ra chơi, rút được cuốn nào hay cuốn nấy, và mau mau trả lại để mất dấu, thế có tức không? Từ ấy tôi lập tâm làm sao mượn cho được bộ truyện xem chơi cho thỏa.

Nhưng đây không phải là chuyện dễ. Cậu tôi là một nhà giàu có, làm chức hội đồng oai nghi lắm. Đến mợ tôi cũng sợ không dám lên nhà trên thường. Còn hạng tá điền thì không dám đến gần, con nít lại sợ hãi. Chỉ chừa đứa cháu nội, nhỏ hơn tôi một tuổi và tôi thôi.

Tôi được cái may ấy, bởi vì tôi liều đến gần, để chờ dịp mượn truyện. Thế mà tôi không dám hở môi, mặc dầu ngày ngày đều đến đón cơ hội, lại mon men lên nhà trên thường, nơi chỗ chỉ mở rộng để tiếp khách sang, trong những hồi long trọng, mà ngày thường vợ con cũng ít dám léo tới. Cậu tôi thấy cử chỉ tôi lạ lạ, hơi nghi tôi muốn ăn cắp món gì quý báu, nên giả đò làm lơ, để bắt quả tang. Nhưng tôi chẳng ăn cắp món gì, chỉ thỉnh thoảng liếc vào tủ kiếng là nơi chứa đầy truyện sách…

Một hôm, cậu lấy làm lạ, kêu hỏi ngay. Tôi thú thật. Cậu cười nói:

– Truyện sách tao, tao không cho ai mượn hết. Mầy là con nít, đọc sao hiểu nổi. Nhưng tao để cho mầy đọc hết bộ Tam Quốc, tao hỏi một câu, trả lời thông minh thì cả tủ đó, tao cho phép mầy đọc hết.

Tôi nhận ngay. Liên tiếp mấy ngày tôi đọc từ đầu đến cuối.

Xong rồi cậu hỏi:

– Trong cả bộ truyện, mầy muốn làm người nào?

Tôi đáp:

– Tôi không muốn làm người nào hết.

– Sao vậy?

– Mấy người đáng khen chỉ được có một phần mà tôi muốn thôi, chưa đủ.

Cậu tôi trố mắt nhìn, nói:

– Mày nói sao chớ? Đâu mầy cắt nghĩa tao nghe.

Tôi mới nói:

– Triệu Tử Long được trung, Trương Phi được thành, Quan Công được dõng, Lưu Bị được nghĩa, Khổng Minh được trí, Tư Mã Đức Tháo được hiền. Nhưng có ai gồm đủ cả những cái ấy đâu mà muốn?

– Thằng nầy nói phách dữ he? Đâu mầy lại đây tao đo thử coi.

Rồi bắt tôi giăng tay, chàng hảng, đo bề cao, đo ngón tay, đo bàn chân, đủ thứ… Từ đó, cậu giữ lời hứa, cho tôi tự do đọc tủ sách… Cả nhà tôi có hay nào. Lúc trước, tôi ưa đi câu, mò mương bắt cá, hay làm ống thổi chim thì nay cũng tưởng tôi như vậy nữa, trong những lúc vắng mặt. Có dè đâu từ đó tôi đã bắt đầu mê đọc sách, đến cả làng đều biết tiếng.

Rồi sau, đi học trở lại, tôi đã không có dịp đọc truyện, đọc thơ, lại mê mải khoa học, rồi triết học, chánh trị, hãm mình vào những khuôn khổ hẳn hoi. Đón năm 1945, mãn tù về, lại gặp dịp muốn nghỉ làm chánh trị, cho tư tưởng được phóng túng một hồi. Thì tôi nhớ ngay lại mối tình ban đầu, muốn tự tay dịch lại bộ Tam Quốc và bình luận lấy. Rủi gặp lúc không nhà xuất bản nào cộng tác, thành bỏ dở.

Tuy vậy, ảnh hưởng của truyện ấy vẫn còn nặng nề. Tôi rất thích lối viết truyện mà ái tình bị gạt bỏ ra ngoài, có lẽ bởi chịu ảnh hưởng của Tam Quốc. Sau nầy, viết mấy bộ tiểu thuyết, tôi đặt tình yêu giữa trai gái ra ngoài lề. Hơn nữa, trong bộ Gái nước Nam làm gì, tôi phác một mẩu truyện dài mấy chục quyển, nhơn vật hằng trăm, phần đông là đàn bà, có lẽ cũng biết yêu, nhưng chê như thế là sai sự thật, là hỏng. Nhưng mà làm sao bây giờ? Vì ấn tượng của Tam Quốc đã in sâu trong tiềm thức của tôi. Người ta có thể viết một thiên kiệt tác, mà không cần nói đến những việc khóc lóc của hai trái tim tỉ tê, hay là không cần đưa ra một việc nhu cầu của sanh lý mà thật ra, có đôi trai gái nào dám đem ra biểu diễn trước công chúng bao giờ? Nếu như thế, tại sao ta mang cái bịnh là tô điểm mãi việc mà ai ai cũng cho là “đáng thẹn”?

Xin nói lại. Quan niệm văn chương nầy có lẽ sẽ bị cho là lầm. Nhưng mà tôi làm sao bây giờ? Bởi vì nó đã ăn sâu vào tiềm thức của tôi, do một áng văn có tài làm cho tôi sung sướng trước nhứt khác hẳn với những tác phẩm khác chỉ làm cho tôi khóc. Cho hay những nhục vinh hồi thuở bé tạo con người của mình mãn đời.

Paris 8-11-49

-Còn tiếp-

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Trích đăng

Vài chuyện linh tinh mà cây cối dạy cho mình về tình yêu – Trích “Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành”

Published

on

Trích từ: Bước qua nước mắt, tự khắc trưởng thành
Tác giả: Anh Khang
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2024
Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Có một dạo, cứ mỗi lần nhớ người thương cũ, mình lại đi mua một cái cây, về trồng ngoài ban công.

Thói quen ấy đều đặn thành nếp sống. Đến một ngày, trước cửa sổ phòng, đã là cả một khu vườn nho nhỏ xinh xanh.

Những buổi sáng, tỉnh dậy, nắng len qua ô kính, dụi mắt đánh thức mình. Điều đầu tiên mình nhìn thấy, là cả một khoảng trời xanh mướt của từng phiến lá khẽ đung đưa, như vẫy tay chào, và bảo: “Ê, ngày mới tới rồi. Đừng nằm lì ở ngày hôm qua nữa. Dậy đi tưới cây, ngắm nắng, tỉa lá, chăm hoa,... Vườn nhà biết bao việc. Nằm đó nhớ nhung gì!”.

Đó là khi mình nhận ra, sau rất nhiều năm tháng chia tay, điều đầu tiên mình nghĩ đến khi thức dậy, không còn là người ấy nữa.

Mình bắt đầu nghĩ về bổn phận của một người làm vườn có trách nhiệm với mầm xanh trước cửa, của một người “nông dân cày xới trên mảnh đất tinh thần”. Và nhất là, không còn nghĩ về danh phận mà mình đã truy cầu suốt thời tuổi trẻ, khiến xói mòn tiêu hao rất nhiều “hạt giống niềm tin” vào quả ngọt mang tên “tình yêu” chưa bao giờ kết trái.

Hồi xưa, mình từng cho rằng bản thân chẳng có tay trồng cây, mọi hạt giống gieo xuống đều chẳng nảy lên xanh. Cũng giống như bản tính thích yêu và được-yêu, nhưng lại chẳng có duyên với mấy chuyện yêu đương. Nhưng, nhờ những ngày tháng hiện tại, bầu bạn cùng cỏ cây, quanh quẩn bên hoa lá, chăm chút từng mầm xanh,... mình học thêm được vài bài học mới, vài cách nghĩ khác đi, từ “người thầy” xanh màu diệp lục tố.

Như là, tại sao cứ mặc định bản thân là “vô năng bất khả”, tại sao cứ hạn định mọi nỗ lực và cố gắng của chính mình?

Dù là chuyện trồng cây.

Hay là chuyện yêu đương cũng thế.

#1

Càng bớt cố chấp, càng đỡ mệt thân

Mình có một chấp niệm, với cây hương thảo.

Loài thảo mộc bản địa của vùng Địa Trung Hải, vốn đã theo chân mình suốt dặm đường rong ruổi hồi trẻ qua biết bao thành phố ở vùng cựu lục địa. Thế nên, một trong những chậu cây đầu tiên mà mình mang về khu vườn nhỏ của mình, hiển nhiên, phải là hương thảo.

Dù đã được nhiều người chủ vựa cây kiểng dặn dò về thuộc tính đỏng đảnh “ưa nước nhưng ghét ẩm”, “thích nắng nhưng sợ hạn” của loài cây thơm lừng từ ngọn tới lá này, mình vẫn một mực tìm mua đủ mọi giống hương thảo. Từ loại giâm cành chiết ngọn ở miền Bắc đến miền Tây, rồi cả giống cây thuần khí hậu miền Nam, hay được dưỡng thân hóa gỗ thành dáng bonsai vững vàng...

Nhưng bất kể bao cố gắng kiên trì của mình, thì không một chậu cây hương thảo nào chịu sống đời dai dẳng, ở lại bên mình dài lâu được cả.

Mình càng cố, thì kết quả, vẫn chỉ là cành khô ngọn rủ, từng bụi hương thảo cứ thế héo hắt rời đi. Vì nhiều lý do, từ giá thể thổ nhưỡng đến vị trí trồng trọt, và còn hằng hà sa số điều kiện thiên thời địa lợi đã không thể chiều lòng chấp niệm “trồng hương thảo” của mình.

Không phải mình cứ cố gắng là sẽ đạt được ý nguyện ban đầu. Có những thứ mà ngay từ đầu, có lẽ, đã là chấp niệm viển vông của riêng bản thân. Chứ chẳng thể thành toàn viên mãn.

#2 

Nếu đã là duyên phận thuộc về bạn,

cơ bản bạn chẳng cần làm gì cũng viên mãn

Vẫn tiếp tục câu chuyện về hương thảo.

Trong rất nhiều bụi hương thảo đã bỏ mình đi, thì duy nhất, trong vườn còn lại một bụi thơm lừng, bền bỉ tỏa hương, nhẫn nại vươn cành.

Ban đầu, đây vốn chỉ là một bầu cây nhỏ xíu mình mua hú họa, chẳng dụng công trồng hay đặt nhiều hy vọng. Tiện tay, ướm vào chậu treo, thấy vừa khít, nên tùy ý móc lên mái tôn trước bệ cửa sổ. Ai ngờ, cây hương thảo bé nhỏ chẳng được chăm chút mấy, lại trở thành loài thảo mộc ở lại bên mình kiên tâm lâu dài nhất.

Ngẫm lại, cả khu vườn trải qua bao mùa cây cối tụ tán, hoa lá nở tàn, thì chỉ có duy nhất cây hương thảo treo đó, vẫn cam tâm tình nguyện cùng mình kết một đoạn duyên phận, lặng lẽ nhưng thâm tình, bình đạm nhưng thành tâm.

Để bây giờ, mỗi lần mở cửa sổ, hương thơm the mát vương mùi thảo mộc, thoảng đầy ý vị bình an, cứ thế len lỏi khắp phòng.

#3

Yêu thương khi không thấu hiểu,

chỉ gây thêm gánh nặng cho người mình yêu

Có một lần, quá nôn nóng vì cây hạnh ngọt chưa chịu ra hoa và hoa rụng trước kỳ đậu quả, mình bèn mua đủ loại phân bón.

Khỏi nói cũng biết kết quả. Mình, chẳng chịu tìm hiểu kỹ lưỡng nguyên tắc dưỡng trồng, cứ vung tay quá trớn, sơ sẩy thiển cận. Thành ra, cây hạnh ngọt đang li ti hoa trắng, ngấp nghé vài quả non, chỉ sau một đêm, lập tức khô khốc trụi cành, hoàn toàn héo rũ.

Sau đó, mới nhận ra bản thân đã sai ngay từ đầu, trong những khâu cơ bản như tìm hiểu, chọn lựa thành phần, chế độ, liều lượng,... của các loại chế phẩm chăm cây. Hóa ra, chính sự yêu thương thiếu kiến thức của mình đã đẩy đối tượng mình yêu thương (là cái cây) đi đến chỗ đang xanh-màu thành xanh-cỏ.

Tình yêu, suy cho cùng, nếu thiếu đi sự thấu hiểu, sẽ chẳng thể đồng hành lâu dài, giúp nhau tăng tiến. Mù quáng trao đi yêu thương mà không nhận thức rõ ràng đâu là đủ-thiếu, đâu là đúng-sai, thì chỉ chuốc thêm đau lòng cho chính mình và phiền lòng cho người mình yêu.

#4

Có những kết thúc chính là để bắt đầu

Có mấy chậu cây, mình chăm dữ lắm, nhưng cứ được vài tháng là bắt đầu vàng lá mục cành.

Mình, bắt đầu chấp nhận sự đến-đi của vô thường, ngay cả cây cối cũng đâu thể tránh khỏi thành-trụ-hoại-không. Định bụng, chào cái cây lần cuối, xong sẽ bỏ đất, thay chậu, chôn cây, cho xong một vòng tuần hoàn của đời thảo mộc. Ai dè, ngay kế cành cây sắp mục ruỗng ngã đổ, một mầm xanh bé xíu đang gắng sức vươn lên. Chiếc lá non xanh biếc, giống hệt dáng hình của chiếc lá đang ngả vàng của nhánh cây héo rũ kế bên. Một sự tiếp nối, lặng lẽ diễn ra. Những mầm xanh bé nhỏ, còn bền bỉ tách đất vươn lên. Huống hồ tuổi trẻ, vốn chẳng có một giới hạn nào, sao chúng ta lại cứ ngại, sợ? Có kết thúc nào là mãi mãi dừng lại ở đó đâu, khi đằng sau nó luôn là cả một khởi đầu miên viễn. Bạt ngàn. Vô tận.

Đời sống luôn là một bản trường ca mà khi một nốt trầm lặng xuống thì chính là báo hiệu một đoạn tấu khúc réo rắt sắp bắt đầu khởi xướng.

#5

Rừng xanh nào cũng bắt đầu từ hoang sơ

Có những hôm trời bất chợt đổ mưa. Ngó ra khoảng không xanh mướt mắt đang ướt đẫm trong màn nước trong vắt bên ngoài. Mình bỗng mềm lòng, nhớ lại. Chỉ mới vài tháng trước, khoảnh sân này chỉ là một mái tôn trơ trọi xám lạnh. Giờ đã thành vườn xanh. Mấy bông hoa chanh đã đậu quả thành trái non lúc lỉu trên cành. Mấy trái tắc mới vài tuần trước còn li ti như những hạt sương lấm tấm xanh xanh giờ đã tượng hình thành trái múp míp. Và cả bụi hoa hồng đã rụng hết đợt hoa bừng sắc tháng trước, đến nay cũng đã ươm mầm mới nở thành nụ phơn phớt dịu dàng.

Và cái đứa từng nghĩ rằng bản thân không có tay trồng cây, không có thể ươm xanh nụ mầm... sau tất cả, cũng đã tự tay có được khu vườn của riêng mình.

Chỉ cần mình chịu bắt đầu. Từ một việc đơn giản nhất. Là gieo mầm. Thay vì cứ đứng đó trơ mắt nhìn vào trống trải tiêu sơ.

Trộm nghĩ, một khu rừng rậm rạp cách mấy, cũng đều phải khởi sự từ những nhánh cây mầm cỏ bé nhỏ ban đầu. Nếu không có hoang tàn trơ trọi lúc đó, thì làm sao có hùng vĩ trong lành hôm nay? Điều quan trọng là chúng ta đừng chỉ nhìn chăm chăm vào mớ hỗn độn ngổn ngang rồi chùng lòng chán nản, thoái thác tháo lui, mà phải chấp nhận dấn thân, lao tâm khổ tứ. Dù là trồng rừng, trồng cây, hay là trồng lại hy vọng, niềm tin của chính mình. Vào tình yêu. Vào con người.

#6

Ai rồi cũng sẽ có khoảng trời thuộc về mình

Ngồi viết những dòng này, khi bên ngoài, hoàng hôn vừa xuống. Cảm giác bình yên choáng ngợp trong lòng. Có điều, sự choáng ngợp này, không khiến bản thân kinh hãi, mà chỉ càng làm thấm thía trân trọng thêm khoảnh khắc hiện tại.

Đi khắp Đông-Tây-Nam-Bắc. Trải qua yêu-ghét-thương-hờn. Nếm đủ tụ-tan-ly-hợp. Đến giờ, đã có thể bình thản, một mình, ngồi ngắm hoàng hôn mà trong lòng không còn bất kỳ một lời đồng vọng. Dù là nhớ nhung chuyện cũ. Hay là trách cứ tình xưa.

Hoàng hôn để ôn chuyện cũ. Đã từng nghĩ như vậy suốt thời tuổi trẻ. Thế nên, từng có một giai đoạn bị ám ảnh hoảng loạn với hoàng hôn. Cứ thấy trời chiều, là lo lắng. Cứ thấy nắng tắt, là hoang mang. Bởi lẽ, buổi chiều, đã-từng là khi chúng ta hẹn hò, là khi chúng ta đợi chờ đến lúc gặp nhau, là khi anh cùng em rong ruổi phố phường, đuổi bắt hoàng hôn. Buổi chiều, cũng là khi chim về tổ, người về nhà, là khi ai cũng mong cầu tìm cho mình một chốn về nương náu yên thân.

Thế nhưng, bản thân ở hiện tại, đối diện buổi chiều, lại chỉ thấy bình yên. Một mình hay mấy mình, giờ đã không còn mấy quan trọng. Chỉ biết là trong khoảnh khắc mặt trời le lói, vẫn thấy lòng ngập tràn ánh sáng. Thứ ánh sáng của an vui hỉ lạc, của tự tại tùy duyên.

Hóa ra, huyền cơ của việc thuận theo ý trời, tuân lời thiên mệnh, chỉ nằm trong một khoảnh khắc như thế này.

Đó là nhìn trời chiều, không buồn không tiếc, không nấn ná dây dưa cũng không hối hả sợ sệt. Chỉ thấy biết ơn năm tháng dù hối hả trôi qua, ghi ân thời gian dù vội vã giục giã, nhưng vẫn luôn độ lượng khoan dung dành cho chúng ta một chốn về yên ả.

Anh và em. Tôi và người. Bạn và chúng ta. Tất cả rồi cũng đều sẽ có một khoảng trời riêng. Nơi mưa nắng bão dông đều trở nên dịu dàng. Nơi bình minh hay hoàng hôn đều đầy đặn ánh sáng. Nơi mình hiểu ra nhân duyên đẹp đẽ nhất mà ông trời ban tặng, không phải là gặp đúng ý trung nhân trọn kiếp chung tình, mà là được gặp gỡ và trở thành phiên bản trọn vẹn nhất, tốt đẹp nhất, bình an nhất, của chính mình.

Cũng giống như một cái cây, đâu phải vì muốn kết duyên đôi lứa với một cành cây cọng cỏ nào khác, nên mới sum suê xanh tốt. Cây cối, tự mình vươn cành, vì mình xanh mướt.

Việc của cây là xanh. Không bận tâm vì ai mà tươi tốt. Cũng không vì ai lìa bỏ mà héo tàn.

Vậy nên, việc của chúng ta,

là cứ bình an,

là cứ hạnh phúc.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura – Chuyến Tây du khảo cứu nhằm canh tân dưới thời Duy Tân Minh Trị

Published

on

Trích từ: Sứ đoàn Iwakura
Tác giả: Ian Nish
Đơn vị giữ bản quyền: Phương Nam Book

Phát hành: tháng 11.2023

Nhắc đến Duy Tân Minh Trị, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Chuyến công du Iwakura với khẩu hiệu nước giàu quân mạnh và độc lập dân tộc

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh), và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây.

Iwakura Tomoki (người mặc trang phục truyền thống Nhật Bản) bên cạnh 4 phó sứ, từ trái sang phải, Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Hình ảnh được Ishiguro Keisho sưu tầm).

Họ bắt đầu bằng Sứ mệnh Iwakura do công tước Iwakura Tomomi (1835-1883) dẫn đầu với khoảng 50 thành viên gồm nhiều nhân vật chính phủ cao cấp, trong đó có Ito Hirobumi, lúc đó mới 30 tuổi và là Thứ trưởng Bộ Công nghiệp, chưa tính khoảng 60 du học sinh phục vụ việc thông dịch, thông tin. Họ đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu, như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển, Nga. Chuyến đi được thực hiện chỉ ba năm sau cuộc cách mạng Minh Trị, giữa lúc một cuộc khủng hoảng chính trị nổ ra tại quê nhà về bán đảo Triều Tiên.

Để động viên các sứ thần, Nhật hoàng Minh Trị đã đọc một bài diễn văn:

“Sau khi nghiên cứu và quan sát kỹ, “trẫm” có ấn tượng sâu sắc và tin rằng các quốc gia hùng mạnh và khai sáng nhất của thế giới là những quốc gia đã có những nỗ lực cần cù để vun xới trí tuệ, và tìm cách phát triển đất nước họ một cách đầy đủ và hoàn hảo... Nếu muốn ứng dụng khoa học, các kỹ xảo và những điều kiện của xã hội đang thịnh hành tại các quốc gia khai sáng, chúng ta hoặc phải tự học hỏi, hoặc gửi một đoàn nghiên cứu gồm những quan sát viên có óc thực tế đến các nước khác, tiếp thu những gì nhân dân đang thiếu để làm lợi cho quốc gia.”

Rõ ràng đây là trọng tâm của chuyến công du. Họ sẽ đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phố (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái. 

Họ muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhật Bản cởi mở chấp nhận những giá trị phương Tây

Sau chuyến công du kết thúc các nhà lãnh đạo Nhật Bản nhận định rằng, nguy cơ trực tiếp cho nền độc lập Nhật Bản không cấp bách như họ nghĩ. Sự ưu việt của phương Tây chưa lâu, và Nhật Bản có thể đuổi kịp. Kume chỉ ra trong nhật ký hành trình: “Của cải và sự phồn vinh ở mức độ đáng kể mà người ta nhìn thấy tại châu Âu xuất hiện sau 1800... Năm 1830, tàu thủy hơi nước và xe lửa mới xuất hiện. Đó là sự thay đổi đột ngột trong nền thương mại châu Âu, và người Anh là người đầu tiên dồn hết năng lượng đầu tư vào sự đổi mới.”

Nhật Bản do đó chưa phải là tuyệt vọng. Tuy nhiên, phải nhanh chóng thay đổi toàn diện. Sự đối đầu quân sự chưa phải lúc, mà phải chấn hưng đất nước trước (như Phan Châu Trinh sau này). Đoàn có mang theo một số người bảo thủ, để cho họ thấy, phải cải cách đất nước trước, và một số người quá khích để họ thấy đối đầu quân sự là vô vọng. Những năm 1863-1864, dưới thời Hoàng đế Komei, bố của Minh Trị, người rất thù ghét phương Tây, Nhật Bản đã gây chiến với hải quân các nước Hoa Kỳ, Anh, Pháp và Hà Lan, nhưng đại bại, và phải bồi thường $3.000.000, một bài học đắt giá. Khác với những chuyến công du khác trong lịch sử có đích đến là Trung Hoa, chuyến đi này hướng về phương Tây.

Đoàn cũng nhận ra sâu sắc rằng, không có sự tham gia của nhân dân vào các định chế đại nghị thì không thể có sự đồng thuận cho các hành động của chính quyền. Kido dẫn kinh nghiệm của Ba Lan để chứng minh rằng, thiếu vắng sự tham gia của dân chúng sẽ là tai họa cho nền độc lập quốc gia. Ông cho rằng Năm điều thề ước năm 1868 chính là nền tảng của Hiến pháp cho phép mọi người tham gia; rằng (điều 2) “tất cả các giai cấp, cao cũng như thấp, sẽ hợp lại thực hiện mạnh mẽ chương trình của chính quyền; (điều 3) “tất cả các giai cấp được quyền thực hiện những hoài bão của họ mà không gặp phải khó khăn nào”.

Họ hiểu và tỏ ra kính trọng hơn giá trị của tôn giáo trong đời sống công dân cũng như chính trị. Khi trở về họ đã bỏ lệnh cấm hành đạo Kitô giáo.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Năm nữ sinh được gửi đi du học theo Sứ tiết Iwakura, từ trái sang phải: Nagai Shigeko, Ueda Teiko, Yoshimasu Ryoko, Tsuda Umeko và Yamakawa Sutematsu.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực, ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ Giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các đại học và các tổ chức học thuật khác. Năm 1873, Bộ Giáo dục phải trả một số tiền bằng khoảng 14% ngân quỹ cho giáo viên nước ngoài. Năm 1877 một phần ba ngân quỹ của Đại học Tokyo là dành cho người nước ngoài. Nhật Bản lần lượt thực hiện hai cuộc cách mạng công nghiệp trọng tâm, thứ nhất là công nghiệp nhẹ, thứ hai là công nghiệp nặng. 

Sứ đoàn Iwakura thực hiện đúng điều thứ 5 trong Năm điều thề ước của Hoàng đế Minh Trị và các nhà lãnh đạo trẻ xung quanh ông, rằng: “Tri thức phải được tìm kiếm khắp nơi trên thế giới, để mở rộng và tăng cường quyền lực của đế chế”. 

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Chưa có dân tộc nào có năng lực quan sát trung thực và đưa ra những ý tưởng dự phóng, cũng như đủ quyết tâm theo đuổi đến khi thành công như họ.

Tác phẩm được trích đăng với sự đồng ý của Phương Nam Book.

Đọc bài viết

Trích đăng

Sứ đoàn Iwakura và bí mật từ chuyến Tây du lịch sử khiến nước Nhật phát triển thần kỳ

Published

on

Sứ đoàn Iwakura

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem văn minh khai sáng “về trồng” trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. 

Cải cách Minh Trị tôn Hoàng đế Minh Trị lên ngôi năm 1868 (lúc đó ông mới 16 tuổi), xoá bỏ chế độ Mạc Phủ, xoá bỏ các bất bình đẳng giữa các đẳng cấp xã hội, thành lập chính truyền trung ương, tái lập mối quan hệ hàng dọc và hàng ngang trong xã hội, người Nhật tạo điều kiện cho cuộc thay đổi một cách triệt để và hệ thống trong việc xây dựng một nhà nước hiện đại và một nền khoa học công nghệ hiện đại. Khẩu hiệu chính của họ là Fukoku kyohei (Nước giàu quân mạnh) và độc lập dân tộc, từng bước ngang bằng với các cường quốc phương Tây. 

Chuyến hải hành khám phá Hoa Kỳ và các nước châu Âu của sứ đoàn Iwakura kéo dài 1 năm 10 tháng (1871 - 1873), với một phái đoàn hùng hậu, gồm khoảng 100 người. Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. 

Quyển sách Sứ đoàn Iwakura, tác giả Ian Nish biên soạn.

Ban đầu, họ lên kế hoạch đi thăm từ nhà máy, công xưởng, đến trường học, đại học, bệnh viện, bảo tàng, thư viện, toà án; nghiên cứu đời sống tính tình dân chúng, làng xã, thành thị, đặc thù của mỗi quốc gia, sự phồn vinh thời Victoria của Anh quốc, các thể chế chính trị khác nhau, các cơ quan chính trị, quân sự. Họ gặp tất cả đại diện giới thương mại, công nghiệp, thượng lưu, cầm quyền, chính khách, quân sự, vua chúa, Tổng thống Grant của Hoa Kỳ (người hùng trong cuộc chiến tranh Nam Bắc dưới thời Tổng thống A. Lincoln), Nữ hoàng Victoria của Anh, Vua Wilhelm I và Thủ tướng Bismarck của Phổ (Đức), Tổng thống Thiers của Pháp... Họ xuất hiện trong những bộ Âu phục quý phái.

Sứ đoàn Iwakura muốn làm rõ nền tảng của “văn minh khai sáng”, các nguồn gốc sức mạnh và sự phồn vinh của phương Tây. Trong giáo dục, một lĩnh vực hết sức quan trọng, họ muốn học hỏi các mô hình tổ chức giáo dục tiểu học, trung học và đại học. Đó là chuyến công du lịch sử đi tìm khai sáng (khai minh) cho Nhật Bản.

Nhà sử học Kume Kunitake nhìn thấy ở các viện bảo tàng Hoa Kỳ bản ghi chép về quá trình khai sáng, ông ý thức được rằng: “Nếu ý chí của con người không mạnh, họ không thể mở rộng quyền lực vươn ra khoảng cách lớn. Sự hưng vong của các quốc gia liên quan đến ý chí con người (dân tộc). Kỹ năng và sự giàu có, những điều này chỉ là thứ hai”.

Iwakura Tomomi (người mặc trang phục truyền thống) cùng 4 phó sứ (từ trái sang) Kido Takayoshi, Yamaguchi Masuka, Ito Hirobumi và Okubo Toshimichi. Ảnh: Ishiguro Keisho sưu tầm

Đối với phó sứ Kido không gì tạo ấn tượng cho ông bằng giáo dục ở Hoa Kỳ. Ông viết: “Không có gì khẩn trương đối với chúng ta hơn là các trường học, trừ khi chúng ta tạo được một nền tảng quốc gia vững vàng không lay chuyển được, chúng ta không thể nào nâng cao thanh thế đất nước trong nghìn năm tới... Dân tộc chúng ta không khác với các dân tộc Mỹ và châu Âu ngày nay; đó là vấn đề của giáo dục, hay sự thiếu hụt giáo dục”.

Nhật Bản sẽ chấp nhận những giá trị phương Tây: tham gia, cạnh tranh và luôn luôn mở rộng ảnh hưởng. Chỉ có phát triển nội lực mới bảo đảm sự tồn tại của mình. Nhật Bản chấp nhận cuộc chơi mới. Giáo dục là then chốt. Trong khoảng 1868-1902, Nhật Bản đã cấp 11.148 visa du học. Đó là đợt thủy triều du học đầu tiên từ châu Á. Tư nhân tự nỗ lực cho con du học rất nhiều. Bản thân Iwakura và Kido cũng có con trai du học tại Mỹ (ở Rutgers) trong thời gian công du của đoàn.

Sau chuyến đi, phái đoàn Iwakura thuê ngay hai chuyên gia quan trọng: Giáo sư David Murray của Đại học Rutgers cho lĩnh vực giáo dục tổng quát; Kỹ sư Henry Dyer của Đại học Glasgow làm cố vấn quan trọng cho Nhật Bản về việc xây dựng Kobu Daigakko (Đại học Kỹ thuật).

Chuyến đi mở màn làn sóng thuê chuyên viên nước ngoài toàn diện và ồ ạt. Năm 1875 Nhật đã thuê tổng cộng 500-600 chuyên viên nước ngoài về làm việc cho chính phủ. Tính đến năm 1890 Nhật đã thuê khoảng 3.000 chuyên viên tư vấn thường xuyên làm việc tại Nhật, đủ mọi lĩnh vực ngành nghề. Riêng trong giáo dục, trong vòng 50 năm Bộ giáo dục Nhật Bản đã thuê khoảng 400 thầy giáo nước ngoài từ các quốc gia phương Tây để dạy ở các trường đại học và các tổ chức học thuật khác. 

Hình ảnh đoàn cấp cao do nhà quý tộc Iwakura Tomomi dẫn đầu đến thăm Hoa Kỳ và các nước phương Tây vào năm 1871 với sứ mệnh Iwakura. Nguồn ảnh Kameda Kinuko.

Chuyến công du Iwakura là một bài học kinh điển cho công cuộc đi tìm mô hình phát triển từ các quốc gia phương Tây. Cuộc canh tân Nhật Bản theo mô hình phương Tây, như thực tế là con đường nhanh nhất. Năm 1895, Nhật Bản đã đánh thắng quân đội nhà Thanh của Trung Hoa. Cùng lúc, các quốc gia phương Tây chính thức chấp nhận các hiệp ước thương mại bình đẳng như giữa họ với nhau, có hiệu lực năm 1899, thay cho hiệp ước cũ bất bình đẳng. Điều đó mặc nhiên công nhận Nhật Bản bước vào “câu lạc bộ” các quốc gia phát triển. Chỉ vỏn vẹn sau 30 năm! Nhật Bản đã sao chép thành công mô hình xã hội phương Tây và cuộc công nghiệp hóa chỉ trong vòng ba thập niên mà không có mô hình phát triển nào trước đó làm tiền đề, quả thật là điều thần kỳ. 

Một trong những nhật báo, Kokunim Shimbun, hãnh diện đăng đàn rằng: “Như hệ quả của cuộc chiến (Trung - Nhật), vị thế của Nhật Bản trên thế giới đã thay đổi với sự lộ diện của ba đặc tính cơ bản của người Nhật. Trước hết, Nhật Bản vượt trội thế giới ở lòng ái quốc. Thứ hai, ở năng lực có một không hai là hấp thụ, sử dụng và ứng dụng nền văn minh hiện đại. Thứ ba, là bản chất hay tính khí mạnh mẽ và vững chắc”.

Nhắc đến Minh Trị Duy Tân, không gì ý nghĩa hơn khi lật lại trang sử về Sứ mệnh Iwakura vì tính khai sáng như Columbus đi tìm Tân thế giới. Họ đem Văn minh khai sáng về trồng trên mảnh đất Phù Tang, để mãi mãi là di sản chung của châu Á. Minh Trị Duy Tân có tác động cách mạng không chỉ cho Nhật Bản, mà cho cả châu Á trong tiến trình phát triển và tìm lại mình, với đầy những kịch tính. 

Năm 1878, biên bản hành trình của Kume Kunitake được xuất bản thành một bộ sách năm tập có tên Beio Kairan Jikki, gọi tắt là Kairan Jikki, được in lại nhiều lần từ năm 1977, có giá trị như bộ sử của chính phương Tây công nghiệp hóa thế kỷ XIX dưới cái nhìn sắc sảo của các lãnh đạo Nhật Bản. Đây là một bộ sách kinh điển rất đáng được tham khảo, nhất là cho những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Những bài học năm xưa đọc lại vẫn thấy còn nóng hổi.

Trích đoạn

Không có sự phồn vinh, văn hóa của nhân dân không thể phát triển. Để cho lòng ái quốc tăng trưởng, nó phải phục vụ việc tạo ra của cải. Người ta nói, chúng ta phải bảo vệ đất nước, nhưng ích lợi gì nếu đất nước chỉ là mảnh đất cằn cỗi?

Chính sách quốc gia của Nhật Bản "mở cửa đất nước" không chỉ là một hành động mang tính ngoại giao. Nhiều quốc gia trên thế giới mở rộng cửa nhưng vẫn tiếp tục thực hành các tập quán man di, và bất lực trong cải cách, cũng như tu chỉnh các tập quán đó để có thể tiến lên trình độ văn minh", Ito Hirobumi - Thủ tướng đầu tiên của Nhật Bản.

***

"Chuyến đi có hai mục tiêu, thứ nhất là muốn giới thiệu với phương Tây về những gương mặt lãnh đạo mới của Nhật Bản và thương thảo lại các hiệp ước bất bình đẳng. Thứ hai là quan sát và đánh giá sự phát triển của phương Tây trong mọi lĩnh vực, từ chính trị, quân sự, văn hóa đến khoa học, công nghệ, sản xuất, thương mai, giáo dục và cách tổ chức quốc gia. Qua đó, tìm một mô hình khả thi phù hợp cho Nhật Bản nhằm chuyển đổi xã hội phong kiến lâu đời sang một quốc gia hiện đại, điều chưa có tiền lệ ngoài khu vực phương Tây. Nói đến Minh Trị Duy Tân, người ta không thể không nhắc đến chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng chiến lược này", trích đoạn từ sách Sứ đoàn Iwakura, Ian Nish.

Về tác giả

Ian Nish (1926 – 2022) là học giả người Anh, nhà nghiên cứu Nhật Bản học, Giáo sư danh dự về Lịch sử Quốc tế tại Học viện Kinh tế và Chính trị London.

Đọc bài viết

Cafe sáng