Phía sau trang sách

Cách một tác phẩm văn học thiếu nhi thân thương chào đời từ sự tuyệt vọng

Khi Saint-Exupéry và “The Little Prince” (Hoàng tử bé) chuyển nhà tới thành phố New York.

Published

on

HOW A BELOVED CHILDREN’S BOOK WAS BORN OF DESPAIR
Stacy Schiff

Hoàng tử bé đến từ nơi nao? Nếu bạn hỏi cậu ấy, thì cậu ấy đáp xuống từ Tiểu hành tinh B-612, nơi chẳng to hơn một ngôi nhà bao nhiêu – điều này đồng thời đặt ra câu hỏi về địa điểm cậu ấy cất giữ cái tủ quần áo to rộng của mình. Cha đẻ của cậu khăng khăng rằng vào một ngày nọ, ông nhìn xuống tờ giấy trắng và phát hiện ra một thân ảnh nhỏ. “Tôi hỏi cậu ấy là ai,” Saint-Exupéry kể lại. Vị khách trả lời, “Tôi là Hoàng tử bé.” Còn câu chuyện về sự ra đời của bản thân cuốn sách thì có chút phức tạp hơn thế.

Sáu tháng sau khi Pháp rơi vào tay người Đức, Saint-Exupéry vượt khơi tới New York. Ông đến nơi vào ngày cuối cùng trong năm 1940. Với tư cách là tác giả sách bán chạy, ông nhận được những lời đón chào hân hoan. Trong vòng vài tuần, ông đã nhận giải National Book Award 1939 cho tác phẩm Wind, Sand and Stars (Tạm dịch: Gió, cát và những vì sao, phát hành tại Việt Nam với tựa đề Xứ con người), là một bản tường thuật trữ tình về cuộc phiêu lưu vượt qua Bắc Phi và Nam Mỹ. Vì ông dành cả mùa đông để thực hiện các nhiệm vụ trinh sát cảm tử với Lực lượng Không quân Pháp, ông đành bỏ lỡ buổi trao giải một năm. Ông tin rằng mình sẽ lưu lại Mỹ tầm một tháng. Cuối cùng, ông đã ở lại đây hơn hai năm.

Eugene Reynal và Curtis Hitchcock – hai chủ biên của Saint-Exupéry – đã nhờ vợ mình trang hoàng một căn hộ tại địa chỉ 240 Central Park South, chất đầy quầy bar và lắp đặt thiết bị tại nhà bếp. Trước mắt, Saint-Exupéry chưa có dự án mới. Sau nhiều phen thuyết phục, ông chấp nhận viết một cuốn sách về sự bại trận của Pháp. Chủ biên của ông và nhóm dịch giả nghiêm khắc dưới trướng họ thúc ép ông viết từng trang từng trang một. Cuối cùng, sự trì hoãn đã được đền đáp: Flight to Arras (Phi công thời chiến) xuất hiện ở nhà sách chỉ hai tháng sau sự kiện Trân Châu Cảng. Nhận được những lời đánh giá nồng nhiệt, cuốn sách trở thành tựa có tốc độ tiêu thụ nhanh nhất trong lịch sử Reynal & Hitchcock.

Saint-Exupéry cảm nhận một niềm vui thơ trẻ khi nhìn những cuốn Flight to Arras chất thành chồng cao qua khung cửa sổ Bloomingdale, thế nhưng, đặc biệt khi chuyến trọ của ông kéo dài ra, ông trở nên vỡ mộng và cảm thấy mình mất đi tiếng nói. Cộng đồng Pháp ly hương chia rẽ thành nhiều bè cánh; là một người theo trường phái hành động, Saint-Exupéry không có nhiều kiên nhẫn cho các bài phát biểu hay các điệu bộ chính trị. Ông từ chối liên minh với bất cứ phe cánh nào, vì lí do đó ông bị tất cả các phe lăng mạ và phản đối kịch liệt. (Thời điểm Hoàng tử bé ra mắt, danh sách buộc tội xuất hiện thêm tội danh rằng ông là người theo phe cánh bảo hoàng.)

Qua nhiều lần suýt mất mạng vì tai nạn máy bay hai thập kỷ vừa qua, sức khỏe của ông không ở trạng thái tốt, ông phải chịu đựng những cơn sốt cao – một đặc điểm mà sau này ông thêm vào cho cậu nhóc gai góc ngoài hành tinh của mình. Ông thường loạng choạng giữa bữa tối. Hằng đêm, ông bị đánh thức bởi những cơn rét buốt, răng run lập cập. Ông không dành nhiều tình yêu cho nước Mỹ, phần lớn vì đối với ông, một quốc gia có năng lực thiết kế máy giặt tân tiến nhất hẳn nhiên có thể dành chút sức lực để cứu rỗi nước Pháp. Ông không dùng tiếng Anh, thứ ngôn ngữ mà ông dành rất ít nỗ lực để học. Khi được hỏi tại sao, ông gầm gừ: “Tôi còn chưa học xong tiếng Pháp.” Ông có thể đoán nghĩa từ văn viết nhưng hoàn toàn không hiểu gì khi nghe mọi người nói chuyện. (Thật may vì ông diễn kịch mô phỏng thành thục.) Ông bị cấm ghé thăm, bay qua hay phát hành sách ở Pháp, nơi mà người Đức đã cấm vận cuốn sách Flight to Arras cùng việc tái bản những tác phẩm trước đó của Saint-Exupéry. Thỉnh thoảng ông mới nhận được tin tức từ bạn bè và người nhà. Ông bị giày vò bởi vợ mình, người tự đặt làm một căn hộ biệt lập ngay dưới nhà ông và cũng chẳng thường xuyên về nhà. Ông thức nhiều đêm để viết và gửi những lá thư đầy giận dữ. Có một bận, cứ mỗi mười phút mà ông dành để đi đi lại lại trong phòng, ông sẽ đánh một dấu trên đầu trang giấy. Trên trang bản thảo Flight to Arras dính những vết cháy xém của thuốc lá và vết ố màu của cà phê, câu mở đầu nguyên bản là: “Càng ngày càng trở nên khó sống.”

Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu. Trên trang lề của bản thảo Flight to Arras có một bóng hình đang nhảy nhót – từ lâu đã trở nên quen thuộc với những người thân thiết với Saint-Exupéry. Từ những năm 1930 ông đã phác họa các phiên bản anh em của cậu nhân vật chính hay dỗi lên những lá thư, khăn trải bàn, thực đơn, hóa đơn, thùng giấy giặt khô. Trong các phiên bản tạo hình ban đầu, nhân vật này trông giống một chú búp bê kewpie, một con chim hải âu rụt cổ con, hay diễn viên người Pháp Jean-Louis Barrault. Thỉnh thoảng ông vẽ thêm đôi cánh. Cặp lông mày đến rồi lại đi. Một thành viên trong phi đội không quân Pháp thắc mắc tại sao ông lại thường xuyên vẽ nhân vật đuổi theo bươm bướm. Ông đáp rằng chàng trai nhỏ ấy cống hiến chính mình vì sự theo đuổi một “lý tưởng thực tiễn.”

“Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu.

Elizabeth Reynal – người vợ đáng yêu và nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ của một chủ biên của Saint-Exupéry – hỏi rằng ông ấy có hay không bị phân tâm nếu viết một câu chuyện thiếu nhi về “petit bonhomme” (chàng trai nhỏ) của ông ấy. Ngay sau đó, Saint-Exupéry tự đi mua một bộ màu nước trẻ em tại tiệm thuốc địa phương và bắt đầu làm việc. Cốt truyện ra đời với hình hài đầy đủ, nhưng ông trở nên ám ảnh trong việc hoàn thiện chi tiết. Ban đầu, ông không định để chi tiết con trăn tiêu hóa con voi mở đầu câu chuyện, mà là hình vẽ con thuyền làm một người bạn hiểu nhầm là củ khoai tây, như bằng chứng rằng ông thật sự không có năng khiếu nghệ thuật. Ông lược bỏ cuộc gặp gỡ của Hoàng tử bé với một người say mê ô chữ đang đi tìm từ đồng nghĩa với từ “súc miệng”. Ông từ bỏ việc cho nhân vật chính có một khu vườn sum suê những củ cải, cà chua và đậu. Phần lớn những khuây khỏa ông nhận được ở Mỹ đều đến từ những trang sách này.

Cuộc phiêu lưu của Hoàng tử bé có vẻ ngoại lai: Cậu rời bỏ Tiểu tinh cầu của mình vì hiểu lầm với một bông hồng rắc rối. Cậu hình thành một bản thống kê tốc hành về logic của người lớn thông qua sáu dịp viếng thăm các tinh cầu láng giềng, mỗi nơi được cai trị bởi một người đàn ông lố bịch hơn cả người trước. Cậu đáp xuống sa mạc Sahara, nơi cậu gặp một phi công đóng vai trò dẫn chuyện cho cuốn sách, và cũng là nơi mà cậu học được vài bài học cốt yếu từ một con cáo, trước khi tan biến vĩnh viễn. Tuy nhiên về phía Saint-Exupéry, cuốn sách không hề đại diện cho một sự đổi hướng. Ông đã viết về những khu vườn bí mật, hoa hồng, và hoàng tử cổ tích trong nhiều năm. Thiền triết học của ông, cuốn sách The Wisdom of the Sands, thể hiện đầy đủ những mối bận tâm đến ngụ ngôn trẻ em. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, một chiếc máy bay có cùng số hiệu với tiểu hành tinh của Hoàng tử bé. Vào những năm 30, ông đã nhờ một người bạn ngoại giao ở Mát-xcơ-va vẽ một chú cừu; chính ông cũng đã “rơi xuống” mặt đất nhiều lần. Ông nhắc về việc chạy trốn và thay đổi hành tinh sống trong nhiều năm. Trong một bài luận ra mắt năm 1937, ông viết rằng những điều thiết yếu vĩnh viễn là vô hình, dẫu vậy chúng ta vẫn căng mắt ra kiếm tìm người đưa thư có thể mang theo điều ấy.

Saint-Exupéry cho nhân vật chính “mượn” hành trình của mình, nhưng loại bỏ New York ra khỏi cuốn sách. (Thành phố xuất hiện trong bản thảo đầu nhưng bị thay thế bởi “một hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương.”) Những nhân vật phụ của Hoàng tử bé cũng đã đi với ông trong nhiều năm: Họ là những người họ hàng, người quản lí và những kẻ quan liêu chối bỏ những phương thức không chính thống nhưng chất lượng của ông – là rào cản giữa việc một phi công trở thành nhà văn, việc một người phi công xao nhãng lưu lại trên không, việc một phi công xuất chúng không muốn đưa ra lập trường chính trị. Ông cũng vay mượn từ những cuốn sách ông từng đọc, từ Hans Christian Andersen và từ Patachou: Petit Garcon, tuyển tập sách thiếu nhi của Tristan Derème năm 1929.

Saint-Exupéry giống nhân vật chính của ông ấy bao nhiêu? Vài năm trước khi ý tưởng cuốn sách thành hình, một người bạn từng nói với ông: “Cậu là người ngoài hành tinh.” “Đúng, đúng, điều đó là sự thật, tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,” Saint-Exupéry vừa cười vừa thừa nhận. Vào năm 1939, khi cố gắng miêu tả về ông, một chủ biên đã nói rằng căn bản thì ông là “một tâm hồn cô đơn nhưng vô cùng thân thiện, lịch thiệp nhưng lại rất trẻ thơ.” Nét duyên dáng của ông bao gồm những phần bằng nhau của sự rụt rè và độc đoán. Giọng điệu của cuốn sách giống hệt một phi công đang trấn an một quý bà vừa rùng mình trước viễn cảnh đặt chân lên máy bay: “Thưa Phu nhân, cũng không phải chưa từng có cái tiền lệ máy bay sẽ cất cánh mà chẳng hạ cánh.”

“…tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,

Một phi công lực lưỡng và đang hói dần – theo lời một phóng viên là giống “một chú gấu Teddy có chút bị vùi dập” – cùng một cậu bé ngoài hành tinh bảnh bao với những lọn tóc vàng óng tạo thành một cặp đôi kỳ lạ. Trong khi Hoàng tử bé là người kỷ luật hạng nhất, đều đặn chăm sóc hành tinh mình, thì cha đẻ của cậu lại là vua trì hoãn. Cậu nhân vật chính trẻ thơ của chúng ta là một người đi bộ quả quyết. Còn Saint-Exupéry – được hoan nghênh bởi mọi tài xế taxi ở Paris – dị ứng với việc rèn luyện thể lực. Hoàng tử bé phô diễn khả năng ghi nhớ thời gian của cậu. Còn qua sáu năm hôn nhân, Saint-Exupéry vẫn không thể nhớ rõ ngày cưới. Ông cảm thấy thiên nhiên chẳng hữu dụng gì mấy. Thế nhưng hai người vẫn dây dưa với nhau, như đôi song sinh thơ ngây rơi xuống từ bầu trời. Saint-Exupéry hẳn không thể nào đoán được rằng, bằng cách nào đó, ông sẽ hòa làm một với Hoàng tử bé, giống như việc ông không thể nào đoán được mình sẽ chịu chung số phận với J.M. Barrie –  sự nghiệp đồ sộ của ông bị lu mờ bởi cái bóng quá lớn của Peter Pan.

Saint-Exupéry viết Hoàng tử bé trong căn hộ Park Avenue của cô bạn gái dễ mến Sylvia Reinhardt; trong căn hộ ở Central Park South; trong một căn nhà thuê ở Northport, Long Island. Ông cười ra tiếng khi làm việc, phấn khích chia sẻ những bức vẽ của mình, đánh thức những vị khách trọ để tham khảo ý kiến. Ông dỗ ngọt bạn mình tạo dáng. Một con búp bê trong căn hộ của Sylvia được lấy làm mẫu vẽ Hoàng tử bé, còn con chó poodle của cô được dùng để tạo hình chú cừu. Cùng lúc ấy, Saint-Exupéry viết với cái nhìn văn hóa, ngôn ngữ và cảm xúc của một miền đất không chủ quyền, bày tỏ những xúc cảm cháy bỏng với thế giới thực dụng. Như cách ông giải thích với Sylvia: “Anh đang tuyệt vọng vì những chuyến tàu bị lỡ, những cuộc hẹn lộn xộn, những địa chỉ thất lạc, những hóa đơn, những cuộc gọi không được trả lời, những lời trách móc, những cuộc hòa giải khó khăn, những người bạn bị tổn thương, những cơn đau đầu vào thời điểm cần nói chuyện, cạn ý tưởng khi cần viết, ba cuộc hẹn dùng bữa trong cùng một đêm.” Ông sống nhờ thuốc giảm đau, viết với những cơn dai dẳng giữa đêm muộn, nhiên liệu là cà phê và thuốc lá để lại những dấu vết lớn hiển hiện trên bản thảo. Ông trút những tin nhắn thống khổ về phía bạn bè. Ông ao ước một cuộc viếng thăm từ tổng lãnh thiên thần.

Xuyên suốt dự án, Sylvia Reinhardt chăm sóc ông với gin-và-cola, trứng chiên và bánh muffin Anh phục vụ cạnh ánh nến. Cô cũng là cảm hứng cho vài câu nói nổi tiếng trong tác phẩm. Khi cô phàn nàn về thói trễ hẹn không ngớt của ông, ông đã chùn bước. Vài tiếng đồng hồ thì có thể làm ra sự khác biệt gì? “Trái tim của em bắt đầu nhảy múa khi em biết anh sắp đến,” Sylvia giải thích. Câu này cũng chính xác khi áp dụng với chủ biên của ông – Saint-Exupéry đã hứa sẽ hoàn thành Hoàng tử bé vào tháng Mười Một năm 1942. Cuối cùng, ông bắt tay làm việc vào tháng Mười Hai, đồng ý sẽ giao nộp bản thảo vào tháng Một. Kỳ Nghỉ Năm Mới đến rồi lại đi. Được ấn định là tựa sách tháng Hai năm 1942, từng trang sách được chắt ép từ ông, vừa kịp để phát hành trong tháng Tư.

Reynal và Hitchcock biết rằng một câu truyện cổ tích hấp dẫn không hẳn là điều độc giả mong muốn từ vị nhà văn rắn rỏi của Flight to Arras. Trong chiến dịch quảng bá, họ đã dùng một lối thoát khôn ngoan: “Những nhà phê bình sách sẽ có hẳn một ngày để sung sướng giải thích với bạn liệu cuốn sách này thuộc thể loại nào,” họ tuyên bố. “Chúng tôi thì chỉ quan tâm rằng đây là cuốn sách mới của Saint-Exupéry.” Rất ít người xem Hoàng tử bé là truyện cổ tích dành cho trẻ nhỏ và không phải ai cũng gợi ý nó cho người lớn. Nhìn chung, phía phê bình cảm thấy bối rối hơn là ấn tượng. Cuốn sách có vẻ mới mẻ tột bậc khi so sánh với dòng văn học thiếu nhi; suy cho cùng thì trong những trang sách của mình, Saint-Exupéry ném từng quả lựu đạn một vào người lớn. Người dẫn chuyện đã giật mình khi Hoàng tử bé buộc tội anh nói chuyện giống như người lớn dù trước đó đã tự xác nhận mình là thành viên danh dự của liên minh này.

Reynal & Hitchcock đã ranh mãnh tận dụng sự bối rối trên. Trong những mẩu quảng cáo, họ khoe khoang về những phê bình không đồng nhất về Hoàng từ bé, đưa ra những câu trích dẫn để cảnh báo rằng “Đây không phải là một cuốn sách dành cho trẻ em,” rồi đến những tin “Người lớn sẽ chẳng thích cuốn sách này, nhưng ai thèm quan tâm chứ.” Trong số ít người ngay lập tức đón nhận cuốn tiểu thuyết có P.L. Travers, tác giả của Mary Poppins và bản thân cô cũng là tác giả của Reynal & Hitchcock. Cô ngưỡng mộ sự trớ trêu, lời thú nhận của cốt lõi nỗi cô đơn, “một ánh sáng lập lòe bên lề.” Cô không hề quan tâm đến việc cuốn sách sẽ thu hút những ai, ranh giới giữa trẻ con và người lớn theo cô là “ảo ảnh như đường xích đạo.”

Hầu như mọi nhà phê bình đều cho rằng người dẫn chuyện chính là Saint-Exupéry và viết về hai người họ như thể họ là một. (Ông từng phác thảo người phi công-dẫn chuyện vài lần nhưng đã chọn không thêm hình vẽ nhân vật trong bản thảo chính thức.) Reynal & Hitchcock chẳng làm gì nhiều để xóa bỏ định kiến này. Không lâu trước khi phát hành, kì diệu thay, Saint-Exupéry đã quay lại tiền tuyến, tái tham gia phi đội ở Algeria. Chủ biên của ông thông báo sự ra đi này trong một cuộc họp báo, nói thêm rằng: “Mặc dù ông đang ở tại khu vực lân cận nơi ông lần đầu gặp gỡ Hoàng tử bé, ông vẫn chưa gặp lại cậu ấy.” Ở Bắc Phi, Saint-Exupéry tự hào phe phẩy cuốn sách qua lại, như thể đang trao một bản tuyên ngôn cá nhân hay ảnh chụp của ông; khi so sánh với hình ảnh người đàn ông – giống như người dẫn chuyện – cảm thấy rằng mình “sống cuộc đời cô độc và không có ai để thực sự chuyện trò,” ông luôn trong tình trạng đòi hỏi không ngừng một dàn khán thính giả. Miễn cưỡng lắm ông mới chấp nhận để cuốn sách khỏi tầm mắt trong khoảng 24 giờ, thường với điều kiện là sách được trả về cùng một bài phê bình viết tay. Ông cầu xin nhà xuất bản gửi cho ông tin tức về cuốn sách.

Doanh thu vẫn rất đáng thất vọng – cuốn sách chỉ đứng trên bảng xếp hạng sách bán chạy đúng một tuần – dù Saint-Exupéry không bao giờ biết được điều này. Ông cũng không được chứng kiến việc Hoàng từ bé phát hành tại Pháp. Năm 1944, ông lặng lẽ biến mất, hệt như cách cậu bé tóc vàng óng – phiên bản cái tôi khác của ông – đã từng biến mất trên sa mạc. Sau khi trở về Corsica từ một nhiệm vụ trinh sát ngày 31 tháng Bảy, Saint-Exupéry đâm thẳng xuống biển Địa Trung Hải với tốc độ cao. 25 ngày sau, Paris được giải phóng. Chỉ tới năm 2004 máy bay của ông mới được khai quật; nguyên nhân của vụ tai nạn không rõ ràng.

Hoàng tử bé nhận được cái nhìn khác khi phát hành ở Pháp năm 1945. Một tác phẩm ra mắt sau khi tác giả đã qua đời, một cách kỳ lạ nó dường như dự đoán trước cái chết của nhà văn. Phải khá lâu cuốn sách mới tìm đến được đối tượng độc giả phù hợp. Một phần vì cuốn sách có vẻ ra đời từ một thời đại ngây thơ hơn, hẳn nhiên là thế. Nhưng đồng thời, hình chẳng có gì đổi thay. Tồn tại đầy lý do vì sao tác phẩm tiếp tục bán chạy hơn mọi cuốn sách khác, ngoại trừ Kinh Thánh. Ngày nay bạn có thể đọc Hoàng tử bé thông qua 270 ngôn ngữ, kể cả những ngôn ngữ không có từ “hoàng tử” hoặc khái niệm “buồn chán”; nó được in ra bằng 26 bảng chữ cái. Sau cùng, cũng chẳng có gì lạc hậu trong việc một thương nhân bán thuốc chống khát để chúng ta có thể tiết kiệm 53 phút lãng phí hàng ngày vào việc uống nước. Nhân vật chính của cuốn sách tiếp tục phơi bày những gã đàn ông ẩn sau tấm rèm, để phát ra âm thanh mềm mại mà đáng lo ngại của lương tri. Giữa loài người, lúc nào cũng cô đơn. Qua 84 trang giấy kết tinh, nhờ một chú cáo khôn ngoan, Hoàng tử bé đã học được ý nghĩa của từ “sớm nở tối tàn”, trong khi chúng ta cũng chỉ nhìn thoáng qua vĩnh hằng. Người dẫn chuyện của Hoàng tử bé trấn an rằng mình không có ý định trở thành nhà đạo đức học. Nhưng ông cũng không muốn bị coi nhẹ. Ông thành công ở hai việc trên. Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn – hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

“Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

Hết.

Lalijade dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Stacy Schiff, đăng tại Literary Hub

Xem tất cả những bài viết của Lalijade tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Hoàng tử bé


Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Cafe sáng