Phía sau trang sách

Cách một tác phẩm văn học thiếu nhi thân thương chào đời từ sự tuyệt vọng

Khi Saint-Exupéry và “The Little Prince” (Hoàng tử bé) chuyển nhà tới thành phố New York.

Published

on

HOW A BELOVED CHILDREN’S BOOK WAS BORN OF DESPAIR
Stacy Schiff

Hoàng tử bé đến từ nơi nao? Nếu bạn hỏi cậu ấy, thì cậu ấy đáp xuống từ Tiểu hành tinh B-612, nơi chẳng to hơn một ngôi nhà bao nhiêu – điều này đồng thời đặt ra câu hỏi về địa điểm cậu ấy cất giữ cái tủ quần áo to rộng của mình. Cha đẻ của cậu khăng khăng rằng vào một ngày nọ, ông nhìn xuống tờ giấy trắng và phát hiện ra một thân ảnh nhỏ. “Tôi hỏi cậu ấy là ai,” Saint-Exupéry kể lại. Vị khách trả lời, “Tôi là Hoàng tử bé.” Còn câu chuyện về sự ra đời của bản thân cuốn sách thì có chút phức tạp hơn thế.

Sáu tháng sau khi Pháp rơi vào tay người Đức, Saint-Exupéry vượt khơi tới New York. Ông đến nơi vào ngày cuối cùng trong năm 1940. Với tư cách là tác giả sách bán chạy, ông nhận được những lời đón chào hân hoan. Trong vòng vài tuần, ông đã nhận giải National Book Award 1939 cho tác phẩm Wind, Sand and Stars (Tạm dịch: Gió, cát và những vì sao, phát hành tại Việt Nam với tựa đề Xứ con người), là một bản tường thuật trữ tình về cuộc phiêu lưu vượt qua Bắc Phi và Nam Mỹ. Vì ông dành cả mùa đông để thực hiện các nhiệm vụ trinh sát cảm tử với Lực lượng Không quân Pháp, ông đành bỏ lỡ buổi trao giải một năm. Ông tin rằng mình sẽ lưu lại Mỹ tầm một tháng. Cuối cùng, ông đã ở lại đây hơn hai năm.

Eugene Reynal và Curtis Hitchcock – hai chủ biên của Saint-Exupéry – đã nhờ vợ mình trang hoàng một căn hộ tại địa chỉ 240 Central Park South, chất đầy quầy bar và lắp đặt thiết bị tại nhà bếp. Trước mắt, Saint-Exupéry chưa có dự án mới. Sau nhiều phen thuyết phục, ông chấp nhận viết một cuốn sách về sự bại trận của Pháp. Chủ biên của ông và nhóm dịch giả nghiêm khắc dưới trướng họ thúc ép ông viết từng trang từng trang một. Cuối cùng, sự trì hoãn đã được đền đáp: Flight to Arras (Phi công thời chiến) xuất hiện ở nhà sách chỉ hai tháng sau sự kiện Trân Châu Cảng. Nhận được những lời đánh giá nồng nhiệt, cuốn sách trở thành tựa có tốc độ tiêu thụ nhanh nhất trong lịch sử Reynal & Hitchcock.

Saint-Exupéry cảm nhận một niềm vui thơ trẻ khi nhìn những cuốn Flight to Arras chất thành chồng cao qua khung cửa sổ Bloomingdale, thế nhưng, đặc biệt khi chuyến trọ của ông kéo dài ra, ông trở nên vỡ mộng và cảm thấy mình mất đi tiếng nói. Cộng đồng Pháp ly hương chia rẽ thành nhiều bè cánh; là một người theo trường phái hành động, Saint-Exupéry không có nhiều kiên nhẫn cho các bài phát biểu hay các điệu bộ chính trị. Ông từ chối liên minh với bất cứ phe cánh nào, vì lí do đó ông bị tất cả các phe lăng mạ và phản đối kịch liệt. (Thời điểm Hoàng tử bé ra mắt, danh sách buộc tội xuất hiện thêm tội danh rằng ông là người theo phe cánh bảo hoàng.)

Qua nhiều lần suýt mất mạng vì tai nạn máy bay hai thập kỷ vừa qua, sức khỏe của ông không ở trạng thái tốt, ông phải chịu đựng những cơn sốt cao – một đặc điểm mà sau này ông thêm vào cho cậu nhóc gai góc ngoài hành tinh của mình. Ông thường loạng choạng giữa bữa tối. Hằng đêm, ông bị đánh thức bởi những cơn rét buốt, răng run lập cập. Ông không dành nhiều tình yêu cho nước Mỹ, phần lớn vì đối với ông, một quốc gia có năng lực thiết kế máy giặt tân tiến nhất hẳn nhiên có thể dành chút sức lực để cứu rỗi nước Pháp. Ông không dùng tiếng Anh, thứ ngôn ngữ mà ông dành rất ít nỗ lực để học. Khi được hỏi tại sao, ông gầm gừ: “Tôi còn chưa học xong tiếng Pháp.” Ông có thể đoán nghĩa từ văn viết nhưng hoàn toàn không hiểu gì khi nghe mọi người nói chuyện. (Thật may vì ông diễn kịch mô phỏng thành thục.) Ông bị cấm ghé thăm, bay qua hay phát hành sách ở Pháp, nơi mà người Đức đã cấm vận cuốn sách Flight to Arras cùng việc tái bản những tác phẩm trước đó của Saint-Exupéry. Thỉnh thoảng ông mới nhận được tin tức từ bạn bè và người nhà. Ông bị giày vò bởi vợ mình, người tự đặt làm một căn hộ biệt lập ngay dưới nhà ông và cũng chẳng thường xuyên về nhà. Ông thức nhiều đêm để viết và gửi những lá thư đầy giận dữ. Có một bận, cứ mỗi mười phút mà ông dành để đi đi lại lại trong phòng, ông sẽ đánh một dấu trên đầu trang giấy. Trên trang bản thảo Flight to Arras dính những vết cháy xém của thuốc lá và vết ố màu của cà phê, câu mở đầu nguyên bản là: “Càng ngày càng trở nên khó sống.”

Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu. Trên trang lề của bản thảo Flight to Arras có một bóng hình đang nhảy nhót – từ lâu đã trở nên quen thuộc với những người thân thiết với Saint-Exupéry. Từ những năm 1930 ông đã phác họa các phiên bản anh em của cậu nhân vật chính hay dỗi lên những lá thư, khăn trải bàn, thực đơn, hóa đơn, thùng giấy giặt khô. Trong các phiên bản tạo hình ban đầu, nhân vật này trông giống một chú búp bê kewpie, một con chim hải âu rụt cổ con, hay diễn viên người Pháp Jean-Louis Barrault. Thỉnh thoảng ông vẽ thêm đôi cánh. Cặp lông mày đến rồi lại đi. Một thành viên trong phi đội không quân Pháp thắc mắc tại sao ông lại thường xuyên vẽ nhân vật đuổi theo bươm bướm. Ông đáp rằng chàng trai nhỏ ấy cống hiến chính mình vì sự theo đuổi một “lý tưởng thực tiễn.”

“Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu.

Elizabeth Reynal – người vợ đáng yêu và nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ của một chủ biên của Saint-Exupéry – hỏi rằng ông ấy có hay không bị phân tâm nếu viết một câu chuyện thiếu nhi về “petit bonhomme” (chàng trai nhỏ) của ông ấy. Ngay sau đó, Saint-Exupéry tự đi mua một bộ màu nước trẻ em tại tiệm thuốc địa phương và bắt đầu làm việc. Cốt truyện ra đời với hình hài đầy đủ, nhưng ông trở nên ám ảnh trong việc hoàn thiện chi tiết. Ban đầu, ông không định để chi tiết con trăn tiêu hóa con voi mở đầu câu chuyện, mà là hình vẽ con thuyền làm một người bạn hiểu nhầm là củ khoai tây, như bằng chứng rằng ông thật sự không có năng khiếu nghệ thuật. Ông lược bỏ cuộc gặp gỡ của Hoàng tử bé với một người say mê ô chữ đang đi tìm từ đồng nghĩa với từ “súc miệng”. Ông từ bỏ việc cho nhân vật chính có một khu vườn sum suê những củ cải, cà chua và đậu. Phần lớn những khuây khỏa ông nhận được ở Mỹ đều đến từ những trang sách này.

Cuộc phiêu lưu của Hoàng tử bé có vẻ ngoại lai: Cậu rời bỏ Tiểu tinh cầu của mình vì hiểu lầm với một bông hồng rắc rối. Cậu hình thành một bản thống kê tốc hành về logic của người lớn thông qua sáu dịp viếng thăm các tinh cầu láng giềng, mỗi nơi được cai trị bởi một người đàn ông lố bịch hơn cả người trước. Cậu đáp xuống sa mạc Sahara, nơi cậu gặp một phi công đóng vai trò dẫn chuyện cho cuốn sách, và cũng là nơi mà cậu học được vài bài học cốt yếu từ một con cáo, trước khi tan biến vĩnh viễn. Tuy nhiên về phía Saint-Exupéry, cuốn sách không hề đại diện cho một sự đổi hướng. Ông đã viết về những khu vườn bí mật, hoa hồng, và hoàng tử cổ tích trong nhiều năm. Thiền triết học của ông, cuốn sách The Wisdom of the Sands, thể hiện đầy đủ những mối bận tâm đến ngụ ngôn trẻ em. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, một chiếc máy bay có cùng số hiệu với tiểu hành tinh của Hoàng tử bé. Vào những năm 30, ông đã nhờ một người bạn ngoại giao ở Mát-xcơ-va vẽ một chú cừu; chính ông cũng đã “rơi xuống” mặt đất nhiều lần. Ông nhắc về việc chạy trốn và thay đổi hành tinh sống trong nhiều năm. Trong một bài luận ra mắt năm 1937, ông viết rằng những điều thiết yếu vĩnh viễn là vô hình, dẫu vậy chúng ta vẫn căng mắt ra kiếm tìm người đưa thư có thể mang theo điều ấy.

Saint-Exupéry cho nhân vật chính “mượn” hành trình của mình, nhưng loại bỏ New York ra khỏi cuốn sách. (Thành phố xuất hiện trong bản thảo đầu nhưng bị thay thế bởi “một hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương.”) Những nhân vật phụ của Hoàng tử bé cũng đã đi với ông trong nhiều năm: Họ là những người họ hàng, người quản lí và những kẻ quan liêu chối bỏ những phương thức không chính thống nhưng chất lượng của ông – là rào cản giữa việc một phi công trở thành nhà văn, việc một người phi công xao nhãng lưu lại trên không, việc một phi công xuất chúng không muốn đưa ra lập trường chính trị. Ông cũng vay mượn từ những cuốn sách ông từng đọc, từ Hans Christian Andersen và từ Patachou: Petit Garcon, tuyển tập sách thiếu nhi của Tristan Derème năm 1929.

Saint-Exupéry giống nhân vật chính của ông ấy bao nhiêu? Vài năm trước khi ý tưởng cuốn sách thành hình, một người bạn từng nói với ông: “Cậu là người ngoài hành tinh.” “Đúng, đúng, điều đó là sự thật, tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,” Saint-Exupéry vừa cười vừa thừa nhận. Vào năm 1939, khi cố gắng miêu tả về ông, một chủ biên đã nói rằng căn bản thì ông là “một tâm hồn cô đơn nhưng vô cùng thân thiện, lịch thiệp nhưng lại rất trẻ thơ.” Nét duyên dáng của ông bao gồm những phần bằng nhau của sự rụt rè và độc đoán. Giọng điệu của cuốn sách giống hệt một phi công đang trấn an một quý bà vừa rùng mình trước viễn cảnh đặt chân lên máy bay: “Thưa Phu nhân, cũng không phải chưa từng có cái tiền lệ máy bay sẽ cất cánh mà chẳng hạ cánh.”

“…tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,

Một phi công lực lưỡng và đang hói dần – theo lời một phóng viên là giống “một chú gấu Teddy có chút bị vùi dập” – cùng một cậu bé ngoài hành tinh bảnh bao với những lọn tóc vàng óng tạo thành một cặp đôi kỳ lạ. Trong khi Hoàng tử bé là người kỷ luật hạng nhất, đều đặn chăm sóc hành tinh mình, thì cha đẻ của cậu lại là vua trì hoãn. Cậu nhân vật chính trẻ thơ của chúng ta là một người đi bộ quả quyết. Còn Saint-Exupéry – được hoan nghênh bởi mọi tài xế taxi ở Paris – dị ứng với việc rèn luyện thể lực. Hoàng tử bé phô diễn khả năng ghi nhớ thời gian của cậu. Còn qua sáu năm hôn nhân, Saint-Exupéry vẫn không thể nhớ rõ ngày cưới. Ông cảm thấy thiên nhiên chẳng hữu dụng gì mấy. Thế nhưng hai người vẫn dây dưa với nhau, như đôi song sinh thơ ngây rơi xuống từ bầu trời. Saint-Exupéry hẳn không thể nào đoán được rằng, bằng cách nào đó, ông sẽ hòa làm một với Hoàng tử bé, giống như việc ông không thể nào đoán được mình sẽ chịu chung số phận với J.M. Barrie –  sự nghiệp đồ sộ của ông bị lu mờ bởi cái bóng quá lớn của Peter Pan.

Saint-Exupéry viết Hoàng tử bé trong căn hộ Park Avenue của cô bạn gái dễ mến Sylvia Reinhardt; trong căn hộ ở Central Park South; trong một căn nhà thuê ở Northport, Long Island. Ông cười ra tiếng khi làm việc, phấn khích chia sẻ những bức vẽ của mình, đánh thức những vị khách trọ để tham khảo ý kiến. Ông dỗ ngọt bạn mình tạo dáng. Một con búp bê trong căn hộ của Sylvia được lấy làm mẫu vẽ Hoàng tử bé, còn con chó poodle của cô được dùng để tạo hình chú cừu. Cùng lúc ấy, Saint-Exupéry viết với cái nhìn văn hóa, ngôn ngữ và cảm xúc của một miền đất không chủ quyền, bày tỏ những xúc cảm cháy bỏng với thế giới thực dụng. Như cách ông giải thích với Sylvia: “Anh đang tuyệt vọng vì những chuyến tàu bị lỡ, những cuộc hẹn lộn xộn, những địa chỉ thất lạc, những hóa đơn, những cuộc gọi không được trả lời, những lời trách móc, những cuộc hòa giải khó khăn, những người bạn bị tổn thương, những cơn đau đầu vào thời điểm cần nói chuyện, cạn ý tưởng khi cần viết, ba cuộc hẹn dùng bữa trong cùng một đêm.” Ông sống nhờ thuốc giảm đau, viết với những cơn dai dẳng giữa đêm muộn, nhiên liệu là cà phê và thuốc lá để lại những dấu vết lớn hiển hiện trên bản thảo. Ông trút những tin nhắn thống khổ về phía bạn bè. Ông ao ước một cuộc viếng thăm từ tổng lãnh thiên thần.

Xuyên suốt dự án, Sylvia Reinhardt chăm sóc ông với gin-và-cola, trứng chiên và bánh muffin Anh phục vụ cạnh ánh nến. Cô cũng là cảm hứng cho vài câu nói nổi tiếng trong tác phẩm. Khi cô phàn nàn về thói trễ hẹn không ngớt của ông, ông đã chùn bước. Vài tiếng đồng hồ thì có thể làm ra sự khác biệt gì? “Trái tim của em bắt đầu nhảy múa khi em biết anh sắp đến,” Sylvia giải thích. Câu này cũng chính xác khi áp dụng với chủ biên của ông – Saint-Exupéry đã hứa sẽ hoàn thành Hoàng tử bé vào tháng Mười Một năm 1942. Cuối cùng, ông bắt tay làm việc vào tháng Mười Hai, đồng ý sẽ giao nộp bản thảo vào tháng Một. Kỳ Nghỉ Năm Mới đến rồi lại đi. Được ấn định là tựa sách tháng Hai năm 1942, từng trang sách được chắt ép từ ông, vừa kịp để phát hành trong tháng Tư.

Reynal và Hitchcock biết rằng một câu truyện cổ tích hấp dẫn không hẳn là điều độc giả mong muốn từ vị nhà văn rắn rỏi của Flight to Arras. Trong chiến dịch quảng bá, họ đã dùng một lối thoát khôn ngoan: “Những nhà phê bình sách sẽ có hẳn một ngày để sung sướng giải thích với bạn liệu cuốn sách này thuộc thể loại nào,” họ tuyên bố. “Chúng tôi thì chỉ quan tâm rằng đây là cuốn sách mới của Saint-Exupéry.” Rất ít người xem Hoàng tử bé là truyện cổ tích dành cho trẻ nhỏ và không phải ai cũng gợi ý nó cho người lớn. Nhìn chung, phía phê bình cảm thấy bối rối hơn là ấn tượng. Cuốn sách có vẻ mới mẻ tột bậc khi so sánh với dòng văn học thiếu nhi; suy cho cùng thì trong những trang sách của mình, Saint-Exupéry ném từng quả lựu đạn một vào người lớn. Người dẫn chuyện đã giật mình khi Hoàng tử bé buộc tội anh nói chuyện giống như người lớn dù trước đó đã tự xác nhận mình là thành viên danh dự của liên minh này.

Reynal & Hitchcock đã ranh mãnh tận dụng sự bối rối trên. Trong những mẩu quảng cáo, họ khoe khoang về những phê bình không đồng nhất về Hoàng từ bé, đưa ra những câu trích dẫn để cảnh báo rằng “Đây không phải là một cuốn sách dành cho trẻ em,” rồi đến những tin “Người lớn sẽ chẳng thích cuốn sách này, nhưng ai thèm quan tâm chứ.” Trong số ít người ngay lập tức đón nhận cuốn tiểu thuyết có P.L. Travers, tác giả của Mary Poppins và bản thân cô cũng là tác giả của Reynal & Hitchcock. Cô ngưỡng mộ sự trớ trêu, lời thú nhận của cốt lõi nỗi cô đơn, “một ánh sáng lập lòe bên lề.” Cô không hề quan tâm đến việc cuốn sách sẽ thu hút những ai, ranh giới giữa trẻ con và người lớn theo cô là “ảo ảnh như đường xích đạo.”

Hầu như mọi nhà phê bình đều cho rằng người dẫn chuyện chính là Saint-Exupéry và viết về hai người họ như thể họ là một. (Ông từng phác thảo người phi công-dẫn chuyện vài lần nhưng đã chọn không thêm hình vẽ nhân vật trong bản thảo chính thức.) Reynal & Hitchcock chẳng làm gì nhiều để xóa bỏ định kiến này. Không lâu trước khi phát hành, kì diệu thay, Saint-Exupéry đã quay lại tiền tuyến, tái tham gia phi đội ở Algeria. Chủ biên của ông thông báo sự ra đi này trong một cuộc họp báo, nói thêm rằng: “Mặc dù ông đang ở tại khu vực lân cận nơi ông lần đầu gặp gỡ Hoàng tử bé, ông vẫn chưa gặp lại cậu ấy.” Ở Bắc Phi, Saint-Exupéry tự hào phe phẩy cuốn sách qua lại, như thể đang trao một bản tuyên ngôn cá nhân hay ảnh chụp của ông; khi so sánh với hình ảnh người đàn ông – giống như người dẫn chuyện – cảm thấy rằng mình “sống cuộc đời cô độc và không có ai để thực sự chuyện trò,” ông luôn trong tình trạng đòi hỏi không ngừng một dàn khán thính giả. Miễn cưỡng lắm ông mới chấp nhận để cuốn sách khỏi tầm mắt trong khoảng 24 giờ, thường với điều kiện là sách được trả về cùng một bài phê bình viết tay. Ông cầu xin nhà xuất bản gửi cho ông tin tức về cuốn sách.

Doanh thu vẫn rất đáng thất vọng – cuốn sách chỉ đứng trên bảng xếp hạng sách bán chạy đúng một tuần – dù Saint-Exupéry không bao giờ biết được điều này. Ông cũng không được chứng kiến việc Hoàng từ bé phát hành tại Pháp. Năm 1944, ông lặng lẽ biến mất, hệt như cách cậu bé tóc vàng óng – phiên bản cái tôi khác của ông – đã từng biến mất trên sa mạc. Sau khi trở về Corsica từ một nhiệm vụ trinh sát ngày 31 tháng Bảy, Saint-Exupéry đâm thẳng xuống biển Địa Trung Hải với tốc độ cao. 25 ngày sau, Paris được giải phóng. Chỉ tới năm 2004 máy bay của ông mới được khai quật; nguyên nhân của vụ tai nạn không rõ ràng.

Hoàng tử bé nhận được cái nhìn khác khi phát hành ở Pháp năm 1945. Một tác phẩm ra mắt sau khi tác giả đã qua đời, một cách kỳ lạ nó dường như dự đoán trước cái chết của nhà văn. Phải khá lâu cuốn sách mới tìm đến được đối tượng độc giả phù hợp. Một phần vì cuốn sách có vẻ ra đời từ một thời đại ngây thơ hơn, hẳn nhiên là thế. Nhưng đồng thời, hình chẳng có gì đổi thay. Tồn tại đầy lý do vì sao tác phẩm tiếp tục bán chạy hơn mọi cuốn sách khác, ngoại trừ Kinh Thánh. Ngày nay bạn có thể đọc Hoàng tử bé thông qua 270 ngôn ngữ, kể cả những ngôn ngữ không có từ “hoàng tử” hoặc khái niệm “buồn chán”; nó được in ra bằng 26 bảng chữ cái. Sau cùng, cũng chẳng có gì lạc hậu trong việc một thương nhân bán thuốc chống khát để chúng ta có thể tiết kiệm 53 phút lãng phí hàng ngày vào việc uống nước. Nhân vật chính của cuốn sách tiếp tục phơi bày những gã đàn ông ẩn sau tấm rèm, để phát ra âm thanh mềm mại mà đáng lo ngại của lương tri. Giữa loài người, lúc nào cũng cô đơn. Qua 84 trang giấy kết tinh, nhờ một chú cáo khôn ngoan, Hoàng tử bé đã học được ý nghĩa của từ “sớm nở tối tàn”, trong khi chúng ta cũng chỉ nhìn thoáng qua vĩnh hằng. Người dẫn chuyện của Hoàng tử bé trấn an rằng mình không có ý định trở thành nhà đạo đức học. Nhưng ông cũng không muốn bị coi nhẹ. Ông thành công ở hai việc trên. Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn – hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

“Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

Hết.

Lalijade dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Stacy Schiff, đăng tại Literary Hub

Xem tất cả những bài viết của Lalijade tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Hoàng tử bé


Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng