Phía sau trang sách

Cách một tác phẩm văn học thiếu nhi thân thương chào đời từ sự tuyệt vọng

Khi Saint-Exupéry và “The Little Prince” (Hoàng tử bé) chuyển nhà tới thành phố New York.

Published

on

HOW A BELOVED CHILDREN’S BOOK WAS BORN OF DESPAIR
Stacy Schiff

Hoàng tử bé đến từ nơi nao? Nếu bạn hỏi cậu ấy, thì cậu ấy đáp xuống từ Tiểu hành tinh B-612, nơi chẳng to hơn một ngôi nhà bao nhiêu – điều này đồng thời đặt ra câu hỏi về địa điểm cậu ấy cất giữ cái tủ quần áo to rộng của mình. Cha đẻ của cậu khăng khăng rằng vào một ngày nọ, ông nhìn xuống tờ giấy trắng và phát hiện ra một thân ảnh nhỏ. “Tôi hỏi cậu ấy là ai,” Saint-Exupéry kể lại. Vị khách trả lời, “Tôi là Hoàng tử bé.” Còn câu chuyện về sự ra đời của bản thân cuốn sách thì có chút phức tạp hơn thế.

Sáu tháng sau khi Pháp rơi vào tay người Đức, Saint-Exupéry vượt khơi tới New York. Ông đến nơi vào ngày cuối cùng trong năm 1940. Với tư cách là tác giả sách bán chạy, ông nhận được những lời đón chào hân hoan. Trong vòng vài tuần, ông đã nhận giải National Book Award 1939 cho tác phẩm Wind, Sand and Stars (Tạm dịch: Gió, cát và những vì sao, phát hành tại Việt Nam với tựa đề Xứ con người), là một bản tường thuật trữ tình về cuộc phiêu lưu vượt qua Bắc Phi và Nam Mỹ. Vì ông dành cả mùa đông để thực hiện các nhiệm vụ trinh sát cảm tử với Lực lượng Không quân Pháp, ông đành bỏ lỡ buổi trao giải một năm. Ông tin rằng mình sẽ lưu lại Mỹ tầm một tháng. Cuối cùng, ông đã ở lại đây hơn hai năm.

Eugene Reynal và Curtis Hitchcock – hai chủ biên của Saint-Exupéry – đã nhờ vợ mình trang hoàng một căn hộ tại địa chỉ 240 Central Park South, chất đầy quầy bar và lắp đặt thiết bị tại nhà bếp. Trước mắt, Saint-Exupéry chưa có dự án mới. Sau nhiều phen thuyết phục, ông chấp nhận viết một cuốn sách về sự bại trận của Pháp. Chủ biên của ông và nhóm dịch giả nghiêm khắc dưới trướng họ thúc ép ông viết từng trang từng trang một. Cuối cùng, sự trì hoãn đã được đền đáp: Flight to Arras (Phi công thời chiến) xuất hiện ở nhà sách chỉ hai tháng sau sự kiện Trân Châu Cảng. Nhận được những lời đánh giá nồng nhiệt, cuốn sách trở thành tựa có tốc độ tiêu thụ nhanh nhất trong lịch sử Reynal & Hitchcock.

Saint-Exupéry cảm nhận một niềm vui thơ trẻ khi nhìn những cuốn Flight to Arras chất thành chồng cao qua khung cửa sổ Bloomingdale, thế nhưng, đặc biệt khi chuyến trọ của ông kéo dài ra, ông trở nên vỡ mộng và cảm thấy mình mất đi tiếng nói. Cộng đồng Pháp ly hương chia rẽ thành nhiều bè cánh; là một người theo trường phái hành động, Saint-Exupéry không có nhiều kiên nhẫn cho các bài phát biểu hay các điệu bộ chính trị. Ông từ chối liên minh với bất cứ phe cánh nào, vì lí do đó ông bị tất cả các phe lăng mạ và phản đối kịch liệt. (Thời điểm Hoàng tử bé ra mắt, danh sách buộc tội xuất hiện thêm tội danh rằng ông là người theo phe cánh bảo hoàng.)

Qua nhiều lần suýt mất mạng vì tai nạn máy bay hai thập kỷ vừa qua, sức khỏe của ông không ở trạng thái tốt, ông phải chịu đựng những cơn sốt cao – một đặc điểm mà sau này ông thêm vào cho cậu nhóc gai góc ngoài hành tinh của mình. Ông thường loạng choạng giữa bữa tối. Hằng đêm, ông bị đánh thức bởi những cơn rét buốt, răng run lập cập. Ông không dành nhiều tình yêu cho nước Mỹ, phần lớn vì đối với ông, một quốc gia có năng lực thiết kế máy giặt tân tiến nhất hẳn nhiên có thể dành chút sức lực để cứu rỗi nước Pháp. Ông không dùng tiếng Anh, thứ ngôn ngữ mà ông dành rất ít nỗ lực để học. Khi được hỏi tại sao, ông gầm gừ: “Tôi còn chưa học xong tiếng Pháp.” Ông có thể đoán nghĩa từ văn viết nhưng hoàn toàn không hiểu gì khi nghe mọi người nói chuyện. (Thật may vì ông diễn kịch mô phỏng thành thục.) Ông bị cấm ghé thăm, bay qua hay phát hành sách ở Pháp, nơi mà người Đức đã cấm vận cuốn sách Flight to Arras cùng việc tái bản những tác phẩm trước đó của Saint-Exupéry. Thỉnh thoảng ông mới nhận được tin tức từ bạn bè và người nhà. Ông bị giày vò bởi vợ mình, người tự đặt làm một căn hộ biệt lập ngay dưới nhà ông và cũng chẳng thường xuyên về nhà. Ông thức nhiều đêm để viết và gửi những lá thư đầy giận dữ. Có một bận, cứ mỗi mười phút mà ông dành để đi đi lại lại trong phòng, ông sẽ đánh một dấu trên đầu trang giấy. Trên trang bản thảo Flight to Arras dính những vết cháy xém của thuốc lá và vết ố màu của cà phê, câu mở đầu nguyên bản là: “Càng ngày càng trở nên khó sống.”

Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu. Trên trang lề của bản thảo Flight to Arras có một bóng hình đang nhảy nhót – từ lâu đã trở nên quen thuộc với những người thân thiết với Saint-Exupéry. Từ những năm 1930 ông đã phác họa các phiên bản anh em của cậu nhân vật chính hay dỗi lên những lá thư, khăn trải bàn, thực đơn, hóa đơn, thùng giấy giặt khô. Trong các phiên bản tạo hình ban đầu, nhân vật này trông giống một chú búp bê kewpie, một con chim hải âu rụt cổ con, hay diễn viên người Pháp Jean-Louis Barrault. Thỉnh thoảng ông vẽ thêm đôi cánh. Cặp lông mày đến rồi lại đi. Một thành viên trong phi đội không quân Pháp thắc mắc tại sao ông lại thường xuyên vẽ nhân vật đuổi theo bươm bướm. Ông đáp rằng chàng trai nhỏ ấy cống hiến chính mình vì sự theo đuổi một “lý tưởng thực tiễn.”

“Giữa cơn tuyệt vọng, Hoàng tử bé đến, đóng vai trò như một phương thức trị liệu.

Elizabeth Reynal – người vợ đáng yêu và nói tiếng Pháp như tiếng mẹ đẻ của một chủ biên của Saint-Exupéry – hỏi rằng ông ấy có hay không bị phân tâm nếu viết một câu chuyện thiếu nhi về “petit bonhomme” (chàng trai nhỏ) của ông ấy. Ngay sau đó, Saint-Exupéry tự đi mua một bộ màu nước trẻ em tại tiệm thuốc địa phương và bắt đầu làm việc. Cốt truyện ra đời với hình hài đầy đủ, nhưng ông trở nên ám ảnh trong việc hoàn thiện chi tiết. Ban đầu, ông không định để chi tiết con trăn tiêu hóa con voi mở đầu câu chuyện, mà là hình vẽ con thuyền làm một người bạn hiểu nhầm là củ khoai tây, như bằng chứng rằng ông thật sự không có năng khiếu nghệ thuật. Ông lược bỏ cuộc gặp gỡ của Hoàng tử bé với một người say mê ô chữ đang đi tìm từ đồng nghĩa với từ “súc miệng”. Ông từ bỏ việc cho nhân vật chính có một khu vườn sum suê những củ cải, cà chua và đậu. Phần lớn những khuây khỏa ông nhận được ở Mỹ đều đến từ những trang sách này.

Cuộc phiêu lưu của Hoàng tử bé có vẻ ngoại lai: Cậu rời bỏ Tiểu tinh cầu của mình vì hiểu lầm với một bông hồng rắc rối. Cậu hình thành một bản thống kê tốc hành về logic của người lớn thông qua sáu dịp viếng thăm các tinh cầu láng giềng, mỗi nơi được cai trị bởi một người đàn ông lố bịch hơn cả người trước. Cậu đáp xuống sa mạc Sahara, nơi cậu gặp một phi công đóng vai trò dẫn chuyện cho cuốn sách, và cũng là nơi mà cậu học được vài bài học cốt yếu từ một con cáo, trước khi tan biến vĩnh viễn. Tuy nhiên về phía Saint-Exupéry, cuốn sách không hề đại diện cho một sự đổi hướng. Ông đã viết về những khu vườn bí mật, hoa hồng, và hoàng tử cổ tích trong nhiều năm. Thiền triết học của ông, cuốn sách The Wisdom of the Sands, thể hiện đầy đủ những mối bận tâm đến ngụ ngôn trẻ em. Trong cuốn tiểu thuyết đầu tiên của ông, một chiếc máy bay có cùng số hiệu với tiểu hành tinh của Hoàng tử bé. Vào những năm 30, ông đã nhờ một người bạn ngoại giao ở Mát-xcơ-va vẽ một chú cừu; chính ông cũng đã “rơi xuống” mặt đất nhiều lần. Ông nhắc về việc chạy trốn và thay đổi hành tinh sống trong nhiều năm. Trong một bài luận ra mắt năm 1937, ông viết rằng những điều thiết yếu vĩnh viễn là vô hình, dẫu vậy chúng ta vẫn căng mắt ra kiếm tìm người đưa thư có thể mang theo điều ấy.

Saint-Exupéry cho nhân vật chính “mượn” hành trình của mình, nhưng loại bỏ New York ra khỏi cuốn sách. (Thành phố xuất hiện trong bản thảo đầu nhưng bị thay thế bởi “một hòn đảo nhỏ ở Thái Bình Dương.”) Những nhân vật phụ của Hoàng tử bé cũng đã đi với ông trong nhiều năm: Họ là những người họ hàng, người quản lí và những kẻ quan liêu chối bỏ những phương thức không chính thống nhưng chất lượng của ông – là rào cản giữa việc một phi công trở thành nhà văn, việc một người phi công xao nhãng lưu lại trên không, việc một phi công xuất chúng không muốn đưa ra lập trường chính trị. Ông cũng vay mượn từ những cuốn sách ông từng đọc, từ Hans Christian Andersen và từ Patachou: Petit Garcon, tuyển tập sách thiếu nhi của Tristan Derème năm 1929.

Saint-Exupéry giống nhân vật chính của ông ấy bao nhiêu? Vài năm trước khi ý tưởng cuốn sách thành hình, một người bạn từng nói với ông: “Cậu là người ngoài hành tinh.” “Đúng, đúng, điều đó là sự thật, tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,” Saint-Exupéry vừa cười vừa thừa nhận. Vào năm 1939, khi cố gắng miêu tả về ông, một chủ biên đã nói rằng căn bản thì ông là “một tâm hồn cô đơn nhưng vô cùng thân thiện, lịch thiệp nhưng lại rất trẻ thơ.” Nét duyên dáng của ông bao gồm những phần bằng nhau của sự rụt rè và độc đoán. Giọng điệu của cuốn sách giống hệt một phi công đang trấn an một quý bà vừa rùng mình trước viễn cảnh đặt chân lên máy bay: “Thưa Phu nhân, cũng không phải chưa từng có cái tiền lệ máy bay sẽ cất cánh mà chẳng hạ cánh.”

“…tôi thỉnh thoảng đi dạo giữa những vì sao,

Một phi công lực lưỡng và đang hói dần – theo lời một phóng viên là giống “một chú gấu Teddy có chút bị vùi dập” – cùng một cậu bé ngoài hành tinh bảnh bao với những lọn tóc vàng óng tạo thành một cặp đôi kỳ lạ. Trong khi Hoàng tử bé là người kỷ luật hạng nhất, đều đặn chăm sóc hành tinh mình, thì cha đẻ của cậu lại là vua trì hoãn. Cậu nhân vật chính trẻ thơ của chúng ta là một người đi bộ quả quyết. Còn Saint-Exupéry – được hoan nghênh bởi mọi tài xế taxi ở Paris – dị ứng với việc rèn luyện thể lực. Hoàng tử bé phô diễn khả năng ghi nhớ thời gian của cậu. Còn qua sáu năm hôn nhân, Saint-Exupéry vẫn không thể nhớ rõ ngày cưới. Ông cảm thấy thiên nhiên chẳng hữu dụng gì mấy. Thế nhưng hai người vẫn dây dưa với nhau, như đôi song sinh thơ ngây rơi xuống từ bầu trời. Saint-Exupéry hẳn không thể nào đoán được rằng, bằng cách nào đó, ông sẽ hòa làm một với Hoàng tử bé, giống như việc ông không thể nào đoán được mình sẽ chịu chung số phận với J.M. Barrie –  sự nghiệp đồ sộ của ông bị lu mờ bởi cái bóng quá lớn của Peter Pan.

Saint-Exupéry viết Hoàng tử bé trong căn hộ Park Avenue của cô bạn gái dễ mến Sylvia Reinhardt; trong căn hộ ở Central Park South; trong một căn nhà thuê ở Northport, Long Island. Ông cười ra tiếng khi làm việc, phấn khích chia sẻ những bức vẽ của mình, đánh thức những vị khách trọ để tham khảo ý kiến. Ông dỗ ngọt bạn mình tạo dáng. Một con búp bê trong căn hộ của Sylvia được lấy làm mẫu vẽ Hoàng tử bé, còn con chó poodle của cô được dùng để tạo hình chú cừu. Cùng lúc ấy, Saint-Exupéry viết với cái nhìn văn hóa, ngôn ngữ và cảm xúc của một miền đất không chủ quyền, bày tỏ những xúc cảm cháy bỏng với thế giới thực dụng. Như cách ông giải thích với Sylvia: “Anh đang tuyệt vọng vì những chuyến tàu bị lỡ, những cuộc hẹn lộn xộn, những địa chỉ thất lạc, những hóa đơn, những cuộc gọi không được trả lời, những lời trách móc, những cuộc hòa giải khó khăn, những người bạn bị tổn thương, những cơn đau đầu vào thời điểm cần nói chuyện, cạn ý tưởng khi cần viết, ba cuộc hẹn dùng bữa trong cùng một đêm.” Ông sống nhờ thuốc giảm đau, viết với những cơn dai dẳng giữa đêm muộn, nhiên liệu là cà phê và thuốc lá để lại những dấu vết lớn hiển hiện trên bản thảo. Ông trút những tin nhắn thống khổ về phía bạn bè. Ông ao ước một cuộc viếng thăm từ tổng lãnh thiên thần.

Xuyên suốt dự án, Sylvia Reinhardt chăm sóc ông với gin-và-cola, trứng chiên và bánh muffin Anh phục vụ cạnh ánh nến. Cô cũng là cảm hứng cho vài câu nói nổi tiếng trong tác phẩm. Khi cô phàn nàn về thói trễ hẹn không ngớt của ông, ông đã chùn bước. Vài tiếng đồng hồ thì có thể làm ra sự khác biệt gì? “Trái tim của em bắt đầu nhảy múa khi em biết anh sắp đến,” Sylvia giải thích. Câu này cũng chính xác khi áp dụng với chủ biên của ông – Saint-Exupéry đã hứa sẽ hoàn thành Hoàng tử bé vào tháng Mười Một năm 1942. Cuối cùng, ông bắt tay làm việc vào tháng Mười Hai, đồng ý sẽ giao nộp bản thảo vào tháng Một. Kỳ Nghỉ Năm Mới đến rồi lại đi. Được ấn định là tựa sách tháng Hai năm 1942, từng trang sách được chắt ép từ ông, vừa kịp để phát hành trong tháng Tư.

Reynal và Hitchcock biết rằng một câu truyện cổ tích hấp dẫn không hẳn là điều độc giả mong muốn từ vị nhà văn rắn rỏi của Flight to Arras. Trong chiến dịch quảng bá, họ đã dùng một lối thoát khôn ngoan: “Những nhà phê bình sách sẽ có hẳn một ngày để sung sướng giải thích với bạn liệu cuốn sách này thuộc thể loại nào,” họ tuyên bố. “Chúng tôi thì chỉ quan tâm rằng đây là cuốn sách mới của Saint-Exupéry.” Rất ít người xem Hoàng tử bé là truyện cổ tích dành cho trẻ nhỏ và không phải ai cũng gợi ý nó cho người lớn. Nhìn chung, phía phê bình cảm thấy bối rối hơn là ấn tượng. Cuốn sách có vẻ mới mẻ tột bậc khi so sánh với dòng văn học thiếu nhi; suy cho cùng thì trong những trang sách của mình, Saint-Exupéry ném từng quả lựu đạn một vào người lớn. Người dẫn chuyện đã giật mình khi Hoàng tử bé buộc tội anh nói chuyện giống như người lớn dù trước đó đã tự xác nhận mình là thành viên danh dự của liên minh này.

Reynal & Hitchcock đã ranh mãnh tận dụng sự bối rối trên. Trong những mẩu quảng cáo, họ khoe khoang về những phê bình không đồng nhất về Hoàng từ bé, đưa ra những câu trích dẫn để cảnh báo rằng “Đây không phải là một cuốn sách dành cho trẻ em,” rồi đến những tin “Người lớn sẽ chẳng thích cuốn sách này, nhưng ai thèm quan tâm chứ.” Trong số ít người ngay lập tức đón nhận cuốn tiểu thuyết có P.L. Travers, tác giả của Mary Poppins và bản thân cô cũng là tác giả của Reynal & Hitchcock. Cô ngưỡng mộ sự trớ trêu, lời thú nhận của cốt lõi nỗi cô đơn, “một ánh sáng lập lòe bên lề.” Cô không hề quan tâm đến việc cuốn sách sẽ thu hút những ai, ranh giới giữa trẻ con và người lớn theo cô là “ảo ảnh như đường xích đạo.”

Hầu như mọi nhà phê bình đều cho rằng người dẫn chuyện chính là Saint-Exupéry và viết về hai người họ như thể họ là một. (Ông từng phác thảo người phi công-dẫn chuyện vài lần nhưng đã chọn không thêm hình vẽ nhân vật trong bản thảo chính thức.) Reynal & Hitchcock chẳng làm gì nhiều để xóa bỏ định kiến này. Không lâu trước khi phát hành, kì diệu thay, Saint-Exupéry đã quay lại tiền tuyến, tái tham gia phi đội ở Algeria. Chủ biên của ông thông báo sự ra đi này trong một cuộc họp báo, nói thêm rằng: “Mặc dù ông đang ở tại khu vực lân cận nơi ông lần đầu gặp gỡ Hoàng tử bé, ông vẫn chưa gặp lại cậu ấy.” Ở Bắc Phi, Saint-Exupéry tự hào phe phẩy cuốn sách qua lại, như thể đang trao một bản tuyên ngôn cá nhân hay ảnh chụp của ông; khi so sánh với hình ảnh người đàn ông – giống như người dẫn chuyện – cảm thấy rằng mình “sống cuộc đời cô độc và không có ai để thực sự chuyện trò,” ông luôn trong tình trạng đòi hỏi không ngừng một dàn khán thính giả. Miễn cưỡng lắm ông mới chấp nhận để cuốn sách khỏi tầm mắt trong khoảng 24 giờ, thường với điều kiện là sách được trả về cùng một bài phê bình viết tay. Ông cầu xin nhà xuất bản gửi cho ông tin tức về cuốn sách.

Doanh thu vẫn rất đáng thất vọng – cuốn sách chỉ đứng trên bảng xếp hạng sách bán chạy đúng một tuần – dù Saint-Exupéry không bao giờ biết được điều này. Ông cũng không được chứng kiến việc Hoàng từ bé phát hành tại Pháp. Năm 1944, ông lặng lẽ biến mất, hệt như cách cậu bé tóc vàng óng – phiên bản cái tôi khác của ông – đã từng biến mất trên sa mạc. Sau khi trở về Corsica từ một nhiệm vụ trinh sát ngày 31 tháng Bảy, Saint-Exupéry đâm thẳng xuống biển Địa Trung Hải với tốc độ cao. 25 ngày sau, Paris được giải phóng. Chỉ tới năm 2004 máy bay của ông mới được khai quật; nguyên nhân của vụ tai nạn không rõ ràng.

Hoàng tử bé nhận được cái nhìn khác khi phát hành ở Pháp năm 1945. Một tác phẩm ra mắt sau khi tác giả đã qua đời, một cách kỳ lạ nó dường như dự đoán trước cái chết của nhà văn. Phải khá lâu cuốn sách mới tìm đến được đối tượng độc giả phù hợp. Một phần vì cuốn sách có vẻ ra đời từ một thời đại ngây thơ hơn, hẳn nhiên là thế. Nhưng đồng thời, hình chẳng có gì đổi thay. Tồn tại đầy lý do vì sao tác phẩm tiếp tục bán chạy hơn mọi cuốn sách khác, ngoại trừ Kinh Thánh. Ngày nay bạn có thể đọc Hoàng tử bé thông qua 270 ngôn ngữ, kể cả những ngôn ngữ không có từ “hoàng tử” hoặc khái niệm “buồn chán”; nó được in ra bằng 26 bảng chữ cái. Sau cùng, cũng chẳng có gì lạc hậu trong việc một thương nhân bán thuốc chống khát để chúng ta có thể tiết kiệm 53 phút lãng phí hàng ngày vào việc uống nước. Nhân vật chính của cuốn sách tiếp tục phơi bày những gã đàn ông ẩn sau tấm rèm, để phát ra âm thanh mềm mại mà đáng lo ngại của lương tri. Giữa loài người, lúc nào cũng cô đơn. Qua 84 trang giấy kết tinh, nhờ một chú cáo khôn ngoan, Hoàng tử bé đã học được ý nghĩa của từ “sớm nở tối tàn”, trong khi chúng ta cũng chỉ nhìn thoáng qua vĩnh hằng. Người dẫn chuyện của Hoàng tử bé trấn an rằng mình không có ý định trở thành nhà đạo đức học. Nhưng ông cũng không muốn bị coi nhẹ. Ông thành công ở hai việc trên. Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn – hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

“Chắt lọc những giá trị cốt yếu từ một cuộc đời đơn lẻ và bất hạnh, Saint-Exupéry dịu dàng gấp nó giữa những câu từ, nơi mà nó vĩnh viễn hệt như tất cả tác phẩm kinh điển – vô hình với đôi mắt.

Hết.

Lalijade dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Stacy Schiff, đăng tại Literary Hub

Xem tất cả những bài viết của Lalijade tại đây.


Tìm hiểu thêm về tác phẩm Hoàng tử bé


Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng