Trà chiều

Bảng xếp hạng các nữ quỷ trong văn hóa dân gian Nhật Bản

Published

on

Aoko Matsuda, tác giả cuốn sách “Where the Wild Ladies Are” (tạm dịch “Ở nơi ma nữ hiện hồn”) sẽ chia sẻ về những nhân vật nữ quỷ, ma nữ đáng sợ trong những truyền thuyết mà bà yêu thích nhất.

Những linh hồn ma nữ đi chệch hướng hoàn toàn so với những chuẩn mực mà phụ nữ Nhật Bản phải tuân theo, và chính sự khác biệt đó đã thu hút tôi. Cũng như cảm giác ngạc nhiên về sự khác thường của họ, họ gợi dậy trong tôi một cảm giác thân thuộc – như thể những thứ mà họ đại diện cũng là một phần trong con người tôi. Như thể tôi có một phần ngông cuồng trong thâm tâm, như thể chính bản thân tôi cũng là một ma nữ hoang dại – những suy nghĩ này làm tôi vui sướng khi phát giác ra một điều mới mẻ. Nó cũng khiến tôi cân nhắc lại về phụ nữ Nhật Bản (bao gồm cả bản thân tôi), những người mà – miễn họ chưa chết hay không bị tráo đổi thành một dạng hình hài hoàn toàn khác – mãi chẳng thể tiết lộ bản chất thật của mình.

Những câu chuyện dân gian và cổ tích có rất nhiều điểm khác biệt vùng miền, và tồn tại nhiều dị bản được thêm bớt bởi những nghệ sĩ nhất định. Phiên bản của những câu chuyện được tôi thuật lại dưới đây là những phiên bản mà tôi đã đọc và nghe trong khoảng thời gian trải dài từ nhỏ đến lớn. Ngoài ra (dù thừa nhận điều này có thể khiến tôi gặp rắc rối với giới học thuật), tôi không phân biệt rạch ròi giữa ma, quái vật, yêu quái (yokai). Tôi thường gộp chung tất cả họ lại thành những nàng ma nữ hoang dại.

1. Nàng Okiku

Như nhân vật Kikue trong Where the Wild Ladies Are, tôi trưởng thành tại thành phố Himeji, nơi Lâu đài Himeji tọa lạc. Trong những chuyến đi thực tế của trường hoặc khi có họ hàng ghé thăm, tôi sẽ đi tới lâu đài, và bên trong khuôn viên lâu đài là Giếng Okiku.

Sau khi bị lôi kéo vào âm mưu của những gã người đàn ông bên cạnh nàng, nàng Okiku oan ức bị buộc tội làm mất một trong mười bộ đĩa quý giá của gia chủ. Nàng bị giết và ném xuống giết. Khi đã thành oan hồn, cứ mỗi đêm nàng lại nổi lên khỏi giếng với vẻ ngoài ghê rợn và đếm mãi số đĩa: “Một, hai, ba…” Đến cái thứ chín, nàng thốt lên, “Ôi, thật sự thiếu một cái!” Nhưng biết rõ sự thật rằng mình vô tội, nàng đếm lại từ đầu. Còn những kẻ âm mưu hãm hại nàng, cảnh tượng này hẳn là một nhắc nhở ray rứt về hành động của họ.

Khi bàn về những siêu năng lực, việc trở thành một con ma và đếm đĩa có vẻ tương đối nhạt nhẽo, nhưng có điều gì đó trong sự đơn giản này đã truyền tải được nỗi oán hận sâu đậm của Okiku. Sống trong một căn biệt thự vang vọng những tiếng đếm của Okiku và tiếng đĩa vỡ, những kẻ đã hủy hoại nàng sẽ không thể tránh khỏi kết thúc tồi tệ, như thể bị nuốt chửng bởi thứ lố bịch mà họ tạo ra.

Ở Nhật Bản, mùa kể chuyện ma là mùa hè, nên đó cũng là thời điểm các bộ phim chuyển thể từ truyện ma được chiếu trên TV. Tôi đã xem bộ phim truyền hình chuyển thể từ câu chuyện của Okiku lúc còn nhỏ. Khi chứng kiến Giếng Okiku – thứ thật sự tồn tại ở thành phố nơi tôi sống – được trình chiếu trên TV như một sự việc hư cấu, cảm giác của tôi rất kỳ lạ, như thể thực tế và giả tưởng đã chạm trán. Đồng thời tôi cảm thấy tự hào về Okiku. Vài năm trước, khi chắp bút Where the Wild Ladies Are, tôi đã viếng thăm Lâu đài Himeji và lại được chiêm ngưỡng Giếng Okiku sau một thập kỷ xa cách. Sau đợt tu bổ gần đây, Lâu đài Himeji với có màu trắng toát lạ thường, nhưng Giếng Okiku vẫn nguyên vẹn như trong hồi ức. Tại đó, tôi bắt gặp bóng hình một cậu bé đến tham quan cùng mẹ. Cậu nhìn xuống giếng, bắt chước giọng của Okiku và đếm đĩa: “Một, hai, ba…” Điều đó làm tôi cảm thấy vui sướng khi những di sản của nàng Okiku vẫn còn tồn tại, dẫu đã bước vào thế kỷ 21.

Okiku đã gieo vào trong tôi sự nhận thức về những điều kinh dị luôn hiện hữu quanh ta trong cuộc sống – và nó không chỉ đáng sợ, mà còn tạo ra cảm giác thân thuộc và thậm chí là sức mạnh. Trong tất cả những hồn ma sống trong tôi, Okiku sẽ luôn là số một.

2. Osakabehime

Khi trưởng thành, tôi phát hiện ra sự tồn tại của một quỷ sứ khác trong Lâu đài Himeji: Osakabehime, một yêu quái trú ngụ bên trong lâu đài. Trên thực tế, có một ngôi đền nhỏ dành riêng cho nàng ấy. Nàng cũng xuất hiện trong vở kịch Tenshu Monogatari của Izumi Kyōka. Nàng có một đoàn thuộc hạ – cũng là những linh hồn giống nàng – và họ đang bất hòa với “hạ giới” – tức là thế giới của loài người. Nàng điềm tĩnh, tàn nhẫn và hùng mạnh.

Trong Tenshu Monogatari, Zushonosuke là một nhân vật có thể di chuyển qua lại giữa hai thế giới, vươn lên đến thành quách lâu đài. Cuối cùng, anh lựa chọn thế giới có Osakabehime. Osakabehime có một người em gái tên Kamehime, và hai người họ thay phiên đến thăm nhau trong lâu đài đối phương sống. Gần đây tôi chợt nhận ra rằng họ có mối quan hệ giống Virginia Woof và Vanessa Bell, qua lại giữa Nhà Monk và nhà Charleston.

Nhìn xuống từ Lâu đài Himeji, bạn sẽ thấy chiếc Giếng Okiku ngay bên dưới. Có vẻ như Okiku và Osakabehime không thể không biết về sự tồn tại của nhau, vì vậy khi viết Where the Wild Ladies Are, tôi quyết định đưa vào một câu chuyện miêu tả tình chị em xa cách giữa hai người họ. Với những nàng quỷ sứ cả tồn tại bên trên lẫn bên dưới, tôi không thể không nghĩ rằng Lâu đài Himeji quả thật là một nơi đặc biệt.

3. Kuwazu nyobo (Người vợ biếng ăn)

Những câu chuyện cổ tích và truyện ma Nhật Bản thường xuất hiện nhiều linh hồn nữ nhân. Vì mang hình hài con người, những ma nữ này hiểu rất rõ về hình mẫu phụ nữ Nhật Bản lí tưởng: họ phải đẹp, trầm lặng, nhạy bén, chăm chỉ và tận tụy với chồng mình. Những kẻ sống cạnh “người phụ nữ lí tưởng” này khai thác những đặc điểm trên để lợi dụng và lừa dối nàng. Tuy nhiên, khi sự thật được phanh phui và ma nữ hiện nguyên hình, hóa ra nàng chẳng hề giống với hình mẫu phụ nữ lí tưởng. Sau khi đã bại lộ hoàn toàn, những linh hồn nữ nhân này sẽ lao vào con người với nanh vuốt lột trần.

Người ta miêu tả nguyên hình của họ là rất đáng sợ (và đôi khi, là một loại đáng sợ chỉ có ở phụ nữ), nhưng nếu chỉ thế thì những câu chuyện này đã không có sức mê hoặc như vậy. Công chúng muốn biết nhiều hơn về bản chất của những ma nữ này. Từ rất lâu, chúng ta đã học từ các câu chuyện rằng luôn có một mặt khác của người phụ nữ lí tưởng. Tuy nhiên, trong thế giới thật, chúng ta vẫn tiếp tục yêu cầu phụ nữ đáp ứng lí tưởng này. Tôi cảm thấy điều này ngu ngốc đến không thể tin được. Thôi nào, chúng ta đều biết rằng đó là điều thực sự không thể!

Kuwazu nyobo, hay “người vợ biếng ăn”, là một yêu quái có cái miệng thứ hai ở bên đầu. Nàng xuất hiện trước mặt một người đàn ông – kẻ luôn oang oang những lời lẽ keo kiệt và nực cười, rằng “Nếu tôi lấy vợ, tiền ăn của tôi sẽ tăng lên, nên tôi muốn một người vợ chăm chỉ và ăn ít”. Cả hai nhanh chóng kết hôn. Người vợ biếng ăn làm việc chăm chỉ và không bao giờ ăn dù chỉ một miếng khi ở trước mặt chồng, nên trong mắt người đàn ông ích kỉ này, nàng là một người phụ nữ lí tưởng. Thế nhưng, gạo và các nguyên liệu nấu ăn cứ biến mất. Hắn bắt đầu nghi ngờ vợ mình đang lén lút ăn vụng nên đã theo dõi nàng. Hắn phát hiện ra khi người vợ nghĩ rằng không có ai ở nhà, nàng sẽ nấu rất nhiều cơm, sau đó nặn thành cơm nắm và ném từng cái từng cái một vào chiếc miệng phía bên đầu của mình. Khi người đàn ông thông báo rằng hắn muốn ly dị, người phụ nữ lộ rõ bản chất thật và toan bắt cóc hắn ta. Hắn ta trốn thoát trong gang tấc bằng cách ẩn náu trong một đầm lầy mọc rất nhiều cây diên vĩ – loài cây được biết đến với sức mạnh xua đuổi tà ma.

Điều tuyệt vời ở người vợ biếng ăn là dáng vẻ điềm đạm trên khuôn mặt nàng, trong khi chiếc miệng khác của nàng đang ngấu nghiến một lượng lớn thức ăn. Tôi hoàn toàn có thể đồng cảm, và tôi chắc chắn là có rất nhiều người khác cũng thế.

4. Tsurara-onna (Băng nữ)

Đây là một yêu quái xuất hiện ở những vùng lạnh giá của đất nước vào mùa đông khi băng bắt đầu hình thành, và biến mất khi xuân đến, khi thời tiết bắt đầu trở nên ấm hơn. Nàng rất trắng trẻo và xinh đẹp.

Vào một đêm khi bão tuyết đang hoành hành, một người phụ nữ trẻ đẹp xuất hiện tại ngôi nhà của một cặp vợ chồng, xin được qua đêm vì thời tiết trở xấu nên nàng không thể về nhà. Cặp đôi chấp nhận để người phụ nữ ở lại, nhưng cơn bão cứ kéo dài và nàng cuối cùng phải ở tạm nhà của họ trong nhiều ngày. Một đêm nọ. họ mời nàng đi tắm, nhưng nàng từ chối. Tuy nhiên, cặp vợ chồng cứ khăng khăng nên cuối cùng người phụ nữ cũng đành ưng thuận. Nàng ở trong phòng tắm lâu đến nỗi cặp vợ chồng phải đi vào kiểm tra, và phát hiện ra nàng đã biến mất. Dấu vết duy nhất còn sót lại là một trụ băng treo trên trần nhà.

Trong một câu chuyện khác, một người đàn ông trở thành người tình của một phụ nữ xinh đẹp, người xuất hiện như thể từ hư không và hai người kết hôn. Nhưng khi mùa xuân đến, người phụ nữ biến mất. Tin rằng nàng đã bỏ trốn, người đàn ông lấy một người vợ khác. Nhưng khi mùa đông lại đến, người phụ nữ trở lại và giận dữ buộc tội người đàn ông, chất vấn tại sao anh ta lại lấy người khác. “Bởi vì cô đã biến mất!”, người đàn ông trả lời, “Đừng có quay lại nữa!” Nghe vậy, người phụ nữ biến thành cột băng và đâm xuyên qua ngực của anh ta, giết chết anh ngay tức khắc.

Tôi thích câu chuyện thứ hai. Qua đánh giá của con người, hành vi của người phụ nữ thoạt nhìn ích kỉ. Nhưng từ góc độ của nàng, biến mất khi mùa xuân đến là chuyện hiển nhiên, và tương tự, việc buộc tội chồng mình là vấn đề quan trọng. Dường như điều đó, với tôi, luôn rất bi kịch. Và sau đó, trong nháy mắt, nàng đã trở về với con người thật của mình và đâm người đàn ông bằng chính cơ thể mình. Trong mắt tôi, điều này đại diện cho bản chất thật của băng: đơn thuần, giản dị và tuyệt vời.

Băng nữ có thể không nổi tiếng bằng tuyết nữ (yuki-onna), nhưng có điều gì đó về sự ít phổ biến và cảm giác kiểm chế tổng thể của nàng đã thu hút tôi. Câu chuyện của nàng nhắc nhở ta rằng bất cứ thứ gì cũng có thể có một linh hồn.

5. Người phụ nữ biến thành rồng

Khi tôi còn nhỏ, tôi rất thích sách của Miyoko Matsutani Taro, the Dragon Boy (tạm dịch Taro, cậu bé rồng). Matsutani lấy cảm hứng từ một cậu chuyện dân gian: có một cậu bé trèo lên lưng rồng mẹ và san bằng ngọn núi để tạo đất trồng trọt. Sách của Matsutani mở đầu khi Taro phiêu lưu đến một cái hồ ở xa phía Bắc để tìm mẹ cậu, người đã biến thành rồng. Khi cậu cuối cùng cũng đến được với mẹ, bà kể cho cậu nghe câu chuyện về quá trình bà hóa thân thành rồng

Giống như Taro, bà cũng lớn lên trên mảnh đất cằn cỗi không phù hợp để trồng trọt lúa mạch. Sau khi mất chồng, bà phải cùng dân làng làm lụng suốt thời kì mang thai trên núi. Khi họ làm việc, bà được nhờ vả chuẩn bị thức ăn cho họ. Bà bắt được ba con cá hồi chấm hồng, nướng chúng và đợi dân làng trở lại, nhưng họ mãi chưa thấy về. Cuối cùng, không chịu nổi cơn đói nữa, bà đã ăn hết cả ba con cá và biến đổi. Bà đã quên điều mê tín cổ xưa ở địa phương, rằng ai ăn ba con cá sẽ trở thành rồng.

Khi đọc lại câu chuyện để viết bảng xếp hạng này, tôi ngạc nhiên khi bắt gặp những khắc họa sống động về khó khăn trong thời kì mang thai. Tôi đồ rằng mình không thể nhận ra những điều ấy khi còn quá nhỏ. Rõ ràng là bị ốm nghén, người phụ nữ cảm thấy buồn nôn mỗi khi ăn, ba con cá hồi nằm trước mặt là thứ đầu tiên bà thực sự thèm ăn sau một khoảng thời gian dài, và vì vậy bà đã không thể cưỡng lại cám dỗ. Sau khi biến thành một con rồng, người mẹ đã giao đứa trẻ sơ sinh cho mẹ mình chăm sóc. Con trai của bà là Taro bú bằng những viên cầu pha lê và lớn lên khỏe mạnh. Sau đó, hóa ra những viên cầu pha lê đó là mắt của mẹ cậu – bà đã chấp nhận trở thành người mù để nuôi dưỡng con trai mình, đi đến hồ phía Bắc tìm kiếm nơi sống qua ngày.

Phát hiện ra mọi chuyện, Taro không trách mẹ mình vì đã một mình ăn hết cá. Thay vì đó, cậu khẳng định vấn đề nằm ở việc lượng thực phẩm không đủ để nuôi sống dân làng. Mượn sức mạnh từ mẹ mình và những động vật, con người và ác quỷ mà cậu gặp trong suốt cuộc hành trình, cậu đã san bằng những ngọn núi, từ đó tạo ra đất đai màu mỡ để trồng trọt. Qua dòng nước mắt của cậu con trai cảm thông với mẹ mình, người phụ nữ biến thành rồng đã có thể trở lại làm người, và lấy lại được thị giác của mình.

Phiên bản hoạt hình chuyển thể từ Taro, the Dragon Boy (năm 1979).

Matsutani viết câu chuyện này khi đang cho con bú, và cốt lõi của nó tồn tại một lòng nhân ái – lòng nhân ái khi nêu lên rằng nếu một môi trường hay chế độ khiến con người bất hạnh, thì nó phải được thay đổi. Lòng nhân ái này vô cùng mạnh mẽ và có năng lực để cứu vớt – không chỉ những người phải chịu đựng nhiều khó khăn – mà cả người phụ nữ đã biến thành một sinh vật hoàn toàn khác.

Giải đặc biệt: Tomie từ tác phẩm cùng tên của Junji Ito

Tomie, nhân vật nữ được tạo ra bởi họa sĩ truyện tranh kinh dị Junji Ito, là một cô gái trẻ đẹp. Tất cả đàn ông nhìn thấy cô đều bị sắc đẹp của cô cầm tù, để rồi không thể cưỡng lại khát vọng giết chết cô. Và đúng thế, họ đã giết cô bằng nhiều phương pháp tàn nhẫn và đẫm máu (cảnh báo nội dung: truyện tranh này thật sự rất ghê rợn), nhưng cô không chết. Nếu cơ thể của cô bị phanh thây, cô sẽ nhân bản ra những thân thể mới, mỗi bộ phận đứt lìa sẽ phát triển thành một Tomie hoàn toàn mới. Cô có sức mạnh hồi phục đủ để sống sót ngay cả khi bị ngâm trong axit; bất chấp những điều xảy ra với cô, Tomie có sức mạnh để hồi sinh. Cô coi đàn ông là công cụ để lợi dụng và chỉ yêu bản thân – tới mức đôi khi có những trận đấu sinh tử giữa các phiên bản khác nhau của cô: Tomie VS. Tomie.

Tomie là nhân vật nữ được tạo ra bởi họa sĩ truyện tranh kinh dị Junji Ito.

Điều khiến Tomie trở nên độc đáo không chỉ là sức mạnh của cô, mà còn ở cách cô bộc lộ bản chất ngay từ đầu: chửi tục, khó chịu với người khác, và trung thành một cách đáng báo động với dục vọng của mình. Đối với những người xung quanh cô, đó tuyệt đối là một cơn ác mộng. Tuy nhiên, những gã đàn ông vẫn say mê Tomie, để rồi giết cô, để rồi cô lại nhân bản – chu kỳ này lặp đi lặp lại không ngừng. Tomie là một sự hiện diện hoàn toàn đặc biệt, và chân thật với bản thân đến nỗi tôi không thể không ngưỡng mộ cô.

*

Về tác giả Aoko Matsuda:

Aoko Matsuda là một nhà văn và dịch giả. Năm 2013, cuốn sách ra mắt của bà, Stackable, được đề cử giải Yukio Mishima và giải Noma Literary New Face. Cuốn tiểu thuyết ngắn, The Girl Who Is Getting Married, được xuất bản bởi Stranger’s Press ở Anh vào năm 2016. Năm 2019, truyện ngắn của bà The Woman Dies đã lọt vào danh sách rút gọn cho giải thưởng Shirley Jackson. Bà đã dịch các tác phẩm của Karen Russell, Amelia Gray, và Carmen Maria Machado sang tiếng Nhật.

Hết.

Lalijade

Bài gốc được thực hiện bởi Aoko Matsuda, đăng tại Electric Literature.

*

Có thể bạn sẽ thích



Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng