Phía sau trang sách

1Q84 – Aomame và Haruki, người thật tuyệt vời

Thật là một người con gái đặc biệt. Dù biết tất cả chỉ là ảo ảnh, nhưng Aomame đã khiến tôi mỉm cười và lo lắng cho nàng. Như vậy thôi cũng đã xua tan một chút nỗi buồn của tôi trong cuộc sống. Như vậy thôi tinh thần tôi cũng đã bình ổn hơn một chút.

Published

on

“Em muốn anh xua đi cái lạnh tận sâu trong cơ thể, sau đó tiến vào trong em, thỏa sức khuấy trộn, như người ta dùng thìa khuấy ca cao, chầm chậm, tiến sâu xuống tận cùng. Nếu anh có thể làm thế với em thì dù có chết ngay tại đó em cũng không hối tiếc. Thật đó.”

Aomame, 1Q84 tập 2

Lúc đọc đoạn này, tôi đã đọc chầm chậm. Từng câu chữ làm tôi xúc động. Nếu chỉ trích dẫn nó ra riêng như vậy, có lẽ trông nó cũng chẳng khác gì với một tiểu thuyết diễm tình bình thường của Trung Quốc. Nhưng nếu đặt trong không khí của 1Q84, đặt trong hoàn cảnh của Aomame, tôi lại thấy nó đặc biệt. Người con gái đó đã luôn lạnh lùng, điềm tĩnh lí trí. Không ai biết sâu trong nàng là gì. Điều gì có thể khiến cho nàng giữ vững sự mạnh mẽ như vậy. Chỉ mình nàng biết rằng đó chính là Tengo. Là người nàng đã yêu, và dù chỉ nắm tay một lần, dù không có bất cứ cuộc trò chuyện nào, nàng vẫn luôn chờ đợi người ấy suốt 20 năm trời. 20 năm, một khoảng thời gian quá dài. Vậy mà nàng vẫn yêu và sẵn sàng chết vì người đó. Thế nhưng…

“Cô không hề có ý định tự mình tiến tới với anh ta phải không?”

Aomame lắc đầu. “Đối với tôi, quan trọng nhất là sự thực rằng tôi cần anh ấy từ tận đáy lòng”

Thật kiên định, thật dứt khoát. Đó là lí do tại sao tôi rất thích Aomame. Lâu lắm rồi không có nhân vật nào khiến tôi thích nhiều đến như vậy. Thích đến mức tôi nghĩ là nàng có tồn tại đâu đó trên cuộc đời với tình yêu lặng thầm của mình, với những suy nghĩ mạnh mẽ và dứt khoát đó. Tôi thật sự… rất rất thích Aomame. Trong 1Q84 có rất nhiều nhân vật thú vị. Tengo tôi cũng thích. Fukaeri cũng thích. Nhưng rồi đến một thời điểm nào đó, tôi nhận ra, người mình thích nhất là Aomame. Đến thời điểm này thì tôi đọc 1Q84 mà gần như chỉ quan tâm đến nàng. Khoảng thời gian đọc hết 1Q84 tập 1 và chờ sang tập 2, tôi nhớ Aomame kinh khủng. Nhiều lúc tôi muốn đọc bản tiếng Anh luôn nhưng lúc đó tôi không có thời gian… Ba tháng đó trôi qua thật dài và buồn. Trước giờ, ngoài Naoko ra, tôi chưa thích một nhân vật nào của Haruki đến như vậy! Tôi thích nhiều truyện của Haruki nhưng chỉ là thích cốt truyện chung, không khí chung, văn phong và nhân vật thì phải đặt ngay trong bối cảnh đó tôi mới thích. Nhưng bây giờ tôi thích Aomame quá. Thích đến mức tôi không mấy quan tâm đến nội dung của 1Q84 khi đọc nữa.

“Nếu tiếp tục mượn hình ảnh máu để so sánh, mình là một phế vật đã hoàn thành sứ mệnh, không lâu sau sẽ bị thu hồi về tĩnh mạch rồi nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cơ thể. Đây là quy tắc của hệ thống cơ thể con người. Không có cách nào thoát khỏi số mệnh ấy. Nhưng thế thì có sao? Aomame nghĩ. Lúc này mình đang ở bên trong Tengo, được bao bọc trong hơi ấm của anh, được nhịp đập trái tim anh dẫn lối, nghe theo logic của anh, qui tắc của anh, có lẽ còn cả những câu chữ anh đang viết ra nữa. Thật tuyệt vời biết bao! Ở bên trong anh, được anh bao bọc như thế này!”

Aomame, 1Q84 tập 2

Những suy nghĩ và hình ảnh về mạch máu trong cơ thể người yêu này làm tôi nhớ đến một người…

Aomame, nàng thật tuyệt vời…

Tôi đã dành cả buổi chiều để suy nghĩ thêm về lí do vì sao tôi thích Aomame nhiều như thế, rốt cuộc tôi chỉ hiểu ra thêm vài lí do nho nhỏ.

Lí do tôi muốn nêu ra ở đây chính là: nghề nghiệp của nàng. Nếu như ở những truyện trước của Haruki, bây giờ khi tôi hình dung lại, các nhân vật nữ làm nghề gì, hầu như tôi không ấn tượng với ai cả ngoại trừ Sumire làm nhà văn trong Người tình Sputnik. Nghĩ lại thì thậm chí Naoko có làm nghề gì đâu, nàng chỉ mới là một sinh viên. Không ngờ, chi tiết về nghề nghiệp lại ảnh hưởng đến sự yêu thích của tôi đến như vậy. Trên thực tế, nghề nghiệp đâu chỉ đơn thuần là công việc người ta làm để chọn kế sinh nhai, nó còn biểu lộ tính cách, hoài bão, lí tưởng của họ. Và Aomame, nàng đã chọn một nghề thật đặc biệt: chuyên gia về việc kích hoạt sự vận động những cơ bắp trong cơ thể người. Cách nàng giết những người đàn ông bằng việc đâm vào một điểm đặc biệt đằng sau gáy họ bằng chiếc dùi đục đá thật hay. Hóa ra là như thế nữa. Bên cạnh tình yêu nàng dành cho Tengo, tôi cũng thích cả cách nàng suy nghĩ về giới tính và những tình cảm nàng dành cho các bạn nữ. Thật là một người con gái đặc biệt. Dù biết tất cả chỉ là ảo ảnh, nhưng Aomame đã khiến tôi mỉm cười và lo lắng cho nàng. Như vậy thôi cũng đã xua tan một chút nỗi buồn của tôi trong cuộc sống. Như vậy thôi tinh thần tôi cũng đã bình ổn hơn một chút.

Đó là về phần cảm xúc.

Bây giờ tôi sẽ nói đến 1Q84 ở góc độ cảm nhận mang hướng lí tính hơn.

Quả thực là 1Q84 không có quá nhiều cái mới, khác biệt so với những truyện trước đây của Haruki. Phong cách kể chuyện đan xen các chương giữa hai nhân vật, hai tuyến truyện song song rồi đến một điểm nào đó giao nhau đã có ở Kafka bên bờ biển. Hơn nữa, nhiều chi tiết trong 1Q84 lại giống hệt những chi tiết trong các truyện trước đây của ông. Chẳng hạn như cái chết của Ayumi phần nào giống cái chết của May trong Nhảy, nhảy, nhảy. Dù vậy, Haruki giúp tôi nhận ra, tình tiết có thể lặp lại giống nhau nhưng nếu đặt nó trong một bối cảnh khác, một không khí khác thì nó sẽ mang một ý nghĩa khác. Tôi nói nó lặp lại không phải để chê Haruki lặp lại vì sự lặp lại đó không hề khiến tôi cảm thấy nhàm chán. Có lẽ do tôi thích Aomame quá rồi, thích không khí của 1Q84 quá rồi nên gặp đoạn nào lặp lại tôi chỉ đơn thuần là đọc nhanh để tiếp tục theo mạch câu chuyện.

1Q84 là một tiểu thuyết tập hợp nhiều thể loại. Có thể thấy rất nhiều chủ đề trong tác phẩm này từ hiện thực huyền ảo, trinh thám, hành động, chính trị, tình yêu, đấu tranh cho nữ quyền, đồng tính… Một món ăn nhiều khẩu vị nhưng cái hay của Haruki là làm cho nó thống nhất với nhau. Độc giả biết nó nhiều khẩu vị nhưng không thể trách ông, không thể nói nó là cái nồi lẩu thập cẩm. Thường khi người ta cố nhét quá nhiều thứ vào trong một thứ sẽ dễ dẫn đến tình trạng đó. Nhưng Haruki thì khác. Khi người ta nói truyện của ông có quá nhiều thể loại pha lẫn, đối với 1Q84, đó không phải là một lời chê mà là một lời khen. Nhiều người nói 1Q84 chẳng có gì mới, Haruki khi viết dài quá thì loãng, 1Q84 thị trường quá v.v… Xét cho cùng, cũng không phải là sai hay không có căn cứ. Bản thân tôi cũng nhiều lần vì những lời nhận xét đó mà trước đây đã ngần ngại khi quyết định đọc 1Q84 vì tôi sợ phải thất vọng về Haruki! Tôi muốn giữ lại hình ảnh đẹp về ông nên cố gắng không đọc những tác phẩm sau này ông viết nữa. Có lẽ vì khi đọc nhiều quá, khi có thể đoán trước được truyện của ông sẽ đi theo hướng nào rồi, tôi sợ mình sẽ chán không phải vì ông không viết hay nữa mà vì chính bản thân đã quá quen thuộc với thế giới và văn phong đó. Nhưng rồi cuối cùng, tôi đã đọc 1Q84 và sau đó đọc hết những tác phẩm khác của ông đã xuất bản ở Việt Nam.

Và… tôi không hề có cảm giác thất vọng sau khi đọc hai tập 1Q84.

Dù thế, tôi không phủ nhận mình đã có chút hụt hẫng khi đọc truyện. Nhiều đoạn tôi có cảm giác Haruki hơi tham lam kể lể một chút, nhiều đoạn lặp lại, nhiều đoạn có xu hướng thị trường quá v.v… Nhưng rồi bên cạnh đó, vẫn có những đoạn thật sâu, và dưới lớp thị trường đó, vẫn có một điều gì đó chạm vào tôi. Mặc dù tôi từng nghĩ có lẽ nó cũng không sâu lắm đâu. Nhưng thực tế nó đã tác động đáng kể với tôi. Và thứ đó, vẫn khiến tôi xúc động, buộc tôi phải suy nghĩ…

1Q84, tôi nhận thấy Haruki không viết câu văn dài giống như tác phẩm trước đây nữa. Sự ngẫu hứng trong truyện dường như cũng không có. Nếu những truyện trước đây của Haruki được ví giống như những âm điệu ảnh hưởng từ jazz vì đem lại cho người đọc cảm giác ngẫu hứng (dù tôi nghĩ có lẽ khi viết ông cũng tính toán để ra sự ngẫu hứng đó chứ không phải chỉ đơn thuần viết ngẫu hứng mà được), nhưng ở 1Q84, tôi không cảm nhận được sự ngẫu hứng, phóng khoáng đó nữa. Tất cả là một sự tính toán tỉ mỉ, chỉn chu. Đôi khi nó cho tôi cảm giác khó thở trong thế giới ấy. Thật là lạ. Thế giới 1Q84 mà Haruki xây dựng đôi lúc cho tôi cảm giác nó thật rộng lớn, nhưng đôi lúc tôi lại thấy nó nhỏ bé chật hẹp cho dù ông có xây dựng nhiều nhân vật đến đâu, bàn về nhiều vấn đề đến đâu. Tập 1 tôi thấy nó rộng lớn. Đến tập 2 tôi thấy nó thật nhỏ bé, từng nhân vật chen chúc nhau sống trong bầu không khí quánh đặc sự cô đơn và kì dị đó. Nói thế cũng không phải là trách móc ông. Ý tôi muốn nhấn mạnh ở đây là cảm giác thay đổi về thế giới. Haruki đã làm được điều đó. Thường khi đọc tiểu thuyết, cảm giác của tôi về thế giới được miêu tả rất nhất quán. Nếu ngay từ đầu, tôi cảm thấy nó là một thế giới rộng lớn, nó sẽ là một thế giới rộng lớn cho đến khi kết thúc. Nếu tôi cảm thấy nó nhỏ bé, nó sẽ luôn nhỏ bé. Nhưng, 1Q84 lúc thì rộng, lúc thì nhỏ. Giống như tôi vừa đọc vừa cảm nhận được sự thay đổi tỉ lệ của nó, như thể tôi đang xem một bức hình trên máy tính cứ bấm zoom in, zoom out liên tục. Khi zoom in ta thấy thế giới nhỏ và chi tiết cận cảnh từng điểm mà ta muốn thấy. Khi zoom out, ta thấy được toàn cảnh và nhiều thứ, cả những thứ ta không chú tâm lắm cũng sẽ trong tầm nhìn của ta. 1Q84 cũng giống như động tác đó. Nó cho ta trải nghiệm cả cảm giác khi đặt mình trong một thế giới chung rộng lớn đang thay đổi lẫn cảm giác mình chỉ là một cá thể nhỏ bé trong đó.

tumblr_n0b1ohR7M71qjd1kgo1_1280

1Q84, Haruki chủ yếu dùng những câu văn ngắn gọn, mạnh mẽ, dứt khoát. Lối kể chuyện của 1Q84 theo cách trực tiếp, không đi vòng vo ẩn dụ nhiều như những truyện trước dù vẫn theo lối quen thuộc của ông là đưa ra nhiều câu hỏi và rất ít câu trả lời cho một vấn đề. Nhưng tôi vẫn phải nói, ở 1Q84, Haruki dường như đã đi một con đường trực tiếp đến vấn đề cốt lõi mà ông muốn nói, từng bước từng bước một, không còn là gián tiếp như những tác phẩm trước đây. Chính vì thế, 1Q84 dễ cho người khác cảm giác thị trường. Ở những tác phẩm trước, Haruki luôn tạo nhiều khoảng trống, nói ít hơn những điều cần nói; còn 1Q84, tuy vẫn có những khoảng trống nhưng ít hơn, nhiều đoạn cảm giác như ông nói thẳng, nói ra hết vấn đề cần nói, không úp mở nữa, vấn đề nào đã qua là qua. Vậy nên ngay ở những trường đoạn mang không khí mơ hồ, 1Q84 cũng không tạo được nhiều sự luyến tiếc vì nhân vật dường như đã gần giải mã được ý nghĩa của vấn đề sau đó. Như cái chết của Ayumi chẳng hạn. Ban đầu tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao cô ấy phải chết. Sau đó, tôi không phải đợi lâu khi Aomame gặp Lãnh Tụ và ông đã giải thích cho Aomame. Bản thân Aomame cũng cảm nhận được điều đó. Nguyên nhân là do bản chất Ayumi đã luôn tự sinh ra khao khát muốn hủy diệt mình trong vô thức nên lúc nào cô cũng tự dẫn mình đi đến chỗ nguy hiểm. Đó cũng là một ý nghĩa sâu xa. Nhưng giá như, Haruki đừng giải thích nhiều quá có lẽ sẽ hay hơn. Lạ lùng là một người kiệm lời như Haruki, trước đây thường rất ít giải thích những biến cố khó hiểu mà các nhân vật trải qua thì giờ đây ở 1Q84, ông lại giải thích quá nhiều. Chính vì thế, cảm giác loãng là điều tất yếu.

Đọc 1Q84, tôi nhớ quay quắt đến điên cuồng những câu văn dài ngày xưa của Haruki từng làm mình mê mẩn. Đặc biệt là những câu văn dài trong Rừng Na Uy. Ở 1Q84, tất cả đều gọn ghẽ như một con dao sắc, hiệu quả. Tôi không còn tìm thấy vẻ đẹp, sự tinh tế vì những hình ảnh so sánh lạ, thú vị, cảm giác phóng khoáng khi đọc những câu văn dài như các tác phẩm trước nữa. Nhưng lại một lần nữa, nói thế không phải để chê Haruki mà tôi chỉ nói như một sự nhìn nhận khách quan. Vì thật sự, tôi hiểu tại sao Haruki lại chọn cách viết như thế. Đó là do không khí của 1Q84 cần phải như thế. Đơn giản thôi. Tuy nhân vật chính là Tengo và Aomame nhưng thật ra cả câu chuyện mấu chốt bắt đầu từ Nhộng không khí của Fukaeri. Và Fukaeri lại là một người mắc chứng khó đọc, lời nói giản lược nên cách cô kể chuyện cũng ngắn gọn. Toàn bộ 1Q84 thực ra giống như một bản phóng lớn thế giới của Nhộng không khí. Vì thế, câu văn ngắn gọn như vậy lại rất phù hợp. Đương nhiên 1Q84 cũng có những câu văn dài xen kẽ nhưng nếu so với các tác phẩm khác, có thể thấy câu văn dài trong 1Q84 ít hơn. Sự thay đổi này của Haruki làm tôi nhận ra, khi con người ta càng có tuổi thì càng thích sự giản đơn và hiệu quả.

Hết.

Kodaki


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng