Phía sau trang sách

Còn chút gì để nhớ: Một câu hỏi không mong cầu hồi đáp của kẻ từng yêu tha thiết

“Khi về hỏi liễu Chương đài,
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?”

Published

on

“Mong manh nhất không phải là tơ trời
Không phải nụ hồng
Không phải sương mai
Không phải là cơn mơ vừa chập chờn đã thức
Anh đã biết một điều mong manh nhất
Là tình yêu
Là tình yêu đấy em!”

Như những thiết tha vẫn còn đang âm ỉ trong lòng, với Không phải tơ trời, không phải sương mai, nhà thơ Đỗ Trung Quân đã viết nên những hoang hoải của một tình yêu mà bao gã say tình từ xưa đến nay đều cố gắng đi tìm lời hồi đáp. Có phải không, khi đôi lúc trong những nẻo đường yêu choáng chuếnh, ta cũng nhiều lần tự hỏi chính mình, và cả hỏi người, rằng điều gì là mong manh nhất trên thế gian này? Là những sợi tơ giăng ngang trời mảnh khảnh? Là cánh nụ hồng héo hắt buổi chiều tan? Là hạt sương đậu mềm trên kẽ lá, hay những cơn mơ lững thững níu giữ ánh trăng tàn? Là gì đi chăng nữa, thì với một định nghĩa rất mới trong suy nghĩ của một người đã yêu và được yêu, Đỗ Trung Quân đã thốt lên rằng, “Là tình yêu – Là tình yêu đấy em!”

Thật vậy! Tình yêu, với tôi, nó không phải là một thứ hào nhoáng chuyên bóc mình khoe mẽ những hạnh phúc ngọt ngào cho cả thế gian xem, bởi vì đằng sau nó – sau những khắc khoải và tha thiết đời thường, nó vẫn yếu mềm và mỏng manh làm sao. Nó vẫn luôn là một điều gì đó, bé nhỏ thôi, nhưng lại day dứt và ám ảnh tâm trí con người ta đến lạ. Tôi đã từng yêu và đã từng rất nhiều lần suy nghĩ về tình yêu, nhưng đó là tình yêu của tôi, của một kẻ vừa bước vào đời và chiêm nghiệm về những thứ mà mình vẫn luôn gọi là đẹp đẽ. Thế nhưng, với câu chuyện buồn mà tôi đọc được từ tác phẩm Còn chút gì để nhớ của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh – tôi biết rằng, tình yêu còn nhiều điều hơn thế. Nó vẫn luôn nằm ở đó, đợi mỗi người ghé đến và tặng cho một nét mi buồn…

Với tôi, Còn chút gì để nhớ là một bản tình ca buồn lặng lẽ, chọn cho mình kiếp sống khiêm nhường giữa vô vàn những đảo điên của tình yêu nhân thế. Tôi đọc cuốn sách này lần đầu tiên vào năm mười ba tuổi – cái tuổi vừa tròn biết mộng mơ. Những năm tháng ấy, cuốn sách đến với tôi chỉ đơn thuần như một món quà nhỏ, một món quà có giá trị hơn bao giờ hết, so với những thứ đồ chơi đắt tiền hay dăm ba món ăn vặt ngon lành thời đó. Còn bây giờ, sau gần hơn mười năm đọc lại, dĩ nhiên, nó đã chẳng phải là một món quà nữa, mà là một người bạn, một người bạn đích thực đồng hành cùng tôi trong những chặng đường mà bản thân mình đi tìm kiếm những câu trả lời về tình yêu.

Nói về cảm xúc khi đọc cuốn sách này, tôi đã không nghĩ là có một sự khác biệt lớn đến thế, dĩ nhiên! Khi tôi mười ba tuổi, tôi chỉ đọc như một cách bắt đầu khám phá về những trang sách, về những thế giới mà người lớn đã dựng xây trong những con chữ đầy ắp chân thành. Khi ấy, tôi nào hiểu nhiều đâu tình yêu của Chương dành cho Quỳnh, tôi nào hiểu nhiều đâu tình bạn đẹp của Bảo, Kim Dung và Chương, tôi cũng hiểu nhiều đâu về những nỗi đau mà chiến tranh mang đến, hằn sâu và rõ nét trong tâm khảm của những người ở lại. Còn bây giờ, bằng một trái tim biết yêu thương và biết thấu hiểu, tôi đã nghĩ, nghĩ rất nhiều, khi cuốn sách gấp lại và nước mắt vừa rơi…

Nếu như tôi là Chương, tôi nghĩ, nếu như điều đó xảy ra thật, thì tôi sẽ như thế nào? Chương yêu Quỳnh – một tình yêu hồn nhiên và thuần khiết, một tình yêu bắt đầu từ những rung cảm đầu đời, khi đôi mắt Chương tình cờ bắt gặp được ánh mắt của Quỳnh, một “ánh mắt sâu thẳm, nửa rối bời, nửa ái ngại”. Kể từ đó, tình cảm của chàng trai tỉnh lẻ mười tám tuổi dành cho cô nàng hàng xóm nhỏ nhắn, dễ thương đã mỗi ngày một lớn dần, chẳng biết khi nào lại ươm đầy những hạt mầm nhớ thương khắp cả trái tim này. Vì nhờ có Quỳnh, mà Sài Gòn dù có xa đến mấy, Chương vẫn yêu, vẫn nhớ, và vẫn xem đó như là một mảnh đất diệu kì – mảnh đất của những điều mới mẻ, trong đó có tình yêu. Như cái cách mà nhà thơ Chế Lan Viên đã từng nói:

“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến, chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương.”

Tình yêu của những kẻ đang yêu bao giờ cũng đẹp, đẹp một cách lạ kì. Tình yêu ấy có những ngày nhớ nhung trong thẹn thùng, có những ngày tặng cho nhau dăm ba thứ đồ ăn, có những ngày cùng đi xem hát, và những ngày chở nhau đến tận vùng ngoại ô xa tít rồi hái tặng nhau nhành sứ trắng bên đường. Đấy, như thế đấy, tình yêu vẫn nhẹ nhàng và đơn sơ, vẫn tinh khôi và thuần khiết như bản chất của tình yêu đã từng, dẫu lắm lúc trong những ngày yêu nhau, có người này hờn giận người kia, có những nỗi buồn vẫn vương trên khóe mắt. Nhưng tình yêu vẫn sống, sống mãnh liệt, quay quắt và điên cuồng trong trái tim của những kẻ dám sống vì tình yêu.

Suốt nhiều năm dài, và có lẽ là tận mãi về sau, tình yêu của Chương dành cho Quỳnh vẫn không thay đổi. Nó vẫn cứ ở đó, âm ỉ và nhẹ nhàng, như cái cách mà Chương mới bắt đầu chạm ngõ vào tình yêu. Có lẽ như khi biết yêu mối tình đầu, ai cũng rút cạn trái tim mình để vun bồi cho một hạnh phúc ngỡ như là mãi mãi? Để rồi khi niềm hạnh phúc vỡ tan và nỗi đau ở lại, vẫn luôn có một khoảng trống trong lòng, hoang hoải và chông chênh.

Mối tình của Chương và Quỳnh lẽ ra đã có một kết thúc tốt đẹp, nếu như mối tình ấy không nằm trong một bối cảnh xã hội rối ren và đau khổ. Cái tôi đang nói đến, chính là chiến tranh. Sự chia cắt ranh giới giữa hai miền Nam – Bắc, sự khát khao giải phóng của những người hoạt động cách mạng, sự khác biệt quan điểm của hai chế độ đã làm cho mối tình này chấm dứt, một cách ngỡ ngàng không ngờ đến. “Cháu khờ quá! Ba cháu đi học tập cải tạo, còn gia đình người ta là gia đình cách mạng, cháu hiểu không?”, dì Ba – dì của Chương đã nói như thế, chỉ nhiêu đó thôi nhưng cũng đủ làm người ta đau lòng. Ừ, không đau lòng sao được khi mà tình yêu cuối cùng rồi cũng không thể nào thắng được những định kiến của xã hội, khi mà hạnh phúc rồi cũng không thể nào vượt qua được những rào cản về thể chế chính trị, về những con người cùng là một dân tộc, một đất nước, một quê hương. Tôi thoáng nghĩ, tại sao người ta lại cố chấp bảo thủ trong suy nghĩ của mình, trong khi đó đâu phải là chính sách, đường lối và quan điểm của những cuộc cách mạng. “Cách mạng phải đem lại hạnh phúc cho con người chứ đâu có phá hoại hạnh phúc của con người!”, tôi vẫn nhớ, Trâm đã nói như thế.

Khi bác Tám – ba của Quỳnh, ra sức phản đối tình cảm của Chương và Quỳnh vì lí do như vậy, Trâm – chị gái của Quỳnh, đã không ngần ngại mà đứng lên bày tỏ quan điểm và đấu tranh cho hạnh phúc của em gái mình, dẫu cho Trâm bị cha tát nhiều lần. Tính Trâm là thế, bộp chộp và láu cá, nhưng lại rất tình cảm và chân thành. Trâm cố gắng đem lại hạnh phúc cho em mình, nhưng điều đáng nói ở đây, chính là thái độ của Quỳnh trước sự cưỡng cầu trong tình yêu. Liệu Quỳnh có thật sự xứng đáng với tình yêu của Chương không, khi mà Quỳnh chẳng mảy may nghĩ về cảm xúc của Chương, khi mà Quỳnh lại hời hợt đành an phận thủ thường, chấp nhận nghe theo sự sắp đặt của ba mẹ, chỉ vì “Em và anh Chương chưa từng nói yêu bao giờ.” Chao ôi, tình yêu có phải nhất thiết nói bằng lời, hay do trái tim Quỳnh đã đổi thay, hay là do một lí do nào khác. Nếu Quỳnh yêu Chương bằng một thứ tình cảm chân thành, nếu Quỳnh biết cùng Chương đấu tranh cho hạnh phúc của mình, tôi nghĩ, thì có lẽ mọi chuyện đã khác. Tình yêu thật sự là tình yêu vẫn sẽ sống dậy, dẫu giông bão có kéo ngang qua còn niềm tin vẫn luôn rực sáng. Tôi không hiểu là Quỳnh đang nghĩ gì. Quỳnh hiểu, chỉ có Quỳnh mới hiểu mà thôi…

Rồi có rất nhiều chuyện về sau nữa, về những cuộc đời rong ruổi trôi dài của những nhân vật trong câu chuyện. Tôi vẫn chỉ đọc, đôi khi nghĩ về họ như nghĩ về những chuyện người vẫn thường luôn luẩn quẩn trong kiếp sống này. Tôi nghĩ về Bảo, về Kim Dung – những người bạn của Chương. Sau rất nhiều biến cố xã hội và năm tháng mỏi mòn, họ vẫn gặp lại nhau và vẫn giữ liên lạc với nhau như những gì đã hứa. Có một tình bạn vẫn đẹp của những cô cậu sinh viên mang trên mình những khát khao, hoài bão, một tình bạn được gắn kết bằng những sẻ chia và giúp đỡ, bằng những chân thành và tử tế. Một tình bạn đáng được trân quý và nâng niu.

Tôi nghĩ về Trâm – người con gái biết sống tình cảm sau lớp vỏ bọc mạnh mẽ và kiên cường. Người con gái biết yêu thương và biết thấu hiểu, biết điều gì là đúng là sai, là nên làm và không nên làm. Người con gái đã để lại trong lòng Chương, và cả tôi nữa, một niềm xúc cảm mãnh liệt. Tôi vẫn mong, nếu như Trâm là một nhân vật có thật trong cuộc đời này, thì cô ấy nhất định sẽ luôn được hạnh phúc, dù là cô ấy có ở đâu trên thế gian này đi chăng nữa.

Cuốn sách khép lại, nhẹ nhàng thôi, nhưng lại chạm vào trái tim tôi bằng một thứ cảm xúc mơ hồ mà tôi cũng không biết gọi tên như thế nào. Tôi vẫn luôn cảm nhận được sự gần gũi, thân thuộc trong cái cách mà chú Nguyễn Nhật Ánh kể chuyện – lối văn phong đậm chất tự sự, đôi lúc lại dấy lên những cao trào cảm xúc trong chính những con chữ đời thường. Tôi mơ màng nghĩ về Chương, về Quỳnh, và nghĩ về chính mình. Rồi có bao giờ tôi sẽ phải đau lòng buột miệng hỏi, trong những tháng ngày mình đã từng được sống trong nhau đó, mình có còn chút gì để nhớ không?

Đừng ai trả lời, vì vốn dĩ, câu hỏi này, chẳng ai mong có một lời hồi đáp.

Chỉ vì vẫn còn nhớ, nên mới đau lòng hỏi vậy thôi…

“Khi về hỏi liễu Chương đài
Cành xuân đã bẻ cho người chuyên tay?”

Hết.

Lâm Lâm


Đọc tất cả những bài viết của Lâm Lâm.


Nếu bạn yêu tác giả Nguyễn Nhật Ánh…


Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng