Trà chiều

8 câu chuyện đáng nhớ về đội ngũ y tế trong đại dịch COVID-19

Published

on

Ba năm qua, lần đầu tiên thế hệ chúng ta chứng kiến một dịch bệnh có quy mô, tầm ảnh hưởng và sức tàn phá lớn đến thế. SARS-COV-2 lần đầu tiên xuất hiện tại thành phố Vũ Hán, cướp đi tính mạng của bác sĩ Lý Văn Lượng – người đầu tiên cảnh báo về dịch viêm phổi cấp gây ra do virus. Những năm tiếp theo, các biến chủng và biến chứng của dịch bệnh dường như luôn đặt loài người vào tình thế bị động. Ở tiền phương cuộc chiến, đội ngũ y tế, chuyên viên nghiên cứu khoa học và các tình nguyện viên là những người đánh cược mạng sống và sức khỏe của mình để nghiên cứu, áp dụng phương pháp chữa và phòng dịch để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của hàng tỷ người trên thế giới.

Đối phó với đại dịch có tỷ lệ tử vong cao, họ mang trên mình gánh nặng thể xác và tinh thần khôn tả. Bên cạnh đó, số lượng lớn các y bác sĩ được chuyển đến điều trị COVID-19 cũng đặt áp lực lớn cho những người ở lại, phải đảm bảo bệnh viện vận hành bình thường và chữa trị cho những căn bệnh khác. Năm 2020 và 2021 đã thử thách tính kiên cường và dẻo dai của hệ thống chăm sóc sức khỏe, chứng kiến sự vất vả, kiên trì của đội ngũ y tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.

Nhân kỷ niệm 67 năm ngày thầy thuốc Việt Nam (27.02.1955 – 27.02.2022), Bookish xin điểm lại 8 câu chuyện vui buồn, đủ các sắc thái tình cảm của những con người bình thường mà phi thường; đã, đang và sẽ chiến đấu với dịch bệnh mỗi ngày.

Bức tranh của em Nguyễn Hồng Hoài Diệp, gửi đến dì Đinh Thị Trí Hên, hiện đang công tác tại bệnh viện Nhân dân 115 – giải Nhất cuộc thi vẽ “Con thương chiếc áo Blouse” do CHIR và Nhà Sách Phương Nam phối hợp tổ chức.

*

Hà Nội, Việt Nam

Bác sĩ Nguyễn Văn Tập (giữa) và các cán bộ y tế cùng đơn vị | VOV

“Một cuộc điện thoại. Một ngày để gói ghém hành lý. Một khoảnh khắc cuối cùng nhìn lại cuộc sống bên ngoài, để rồi sau đó dành hàng tuần hoặc hàng tháng tiếp theo ở một nơi mà nhiều người đang đứng trước cánh cửa tử. Mỗi bước chân tôi đi, lòng tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn sâu sắc đến thế. Với tôi, bước vào cơ sở điều trị COVID-19 hệt như bước đến mép vực sâu, và nhảy ùm xuống”.

“Hoang mang và lo ngại. Chúng tôi chưa bao giờ tiếp xúc gần với một bệnh nhân COVID, huống gì là chăm sóc họ. Nói theo cách nào đó, chúng tôi hoàn toàn lạc lối. Nhiều người trong số chúng tôi đến 2 giờ sáng vẫn không thể chợp mắt được”.

Bác sĩ Đinh Văn Tập và điều dưỡng viên Nguyễn Thị Thu Hương nhớ lại cái ngày định mệnh ấy, khi họ nhận lệnh về điều trị tại khoa COVID-19 của bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Đây là trải nghiệm hoàn toàn mới toanh với họ – những người có gần 20 năm kinh nghiệm trong ngành y. Với cảm xúc hỗn độn, cả hai cùng bước vào chiến trường chống lại COVID-19 – căn bệnh đã giết chết hàng triệu người trên toàn thế giới.

*

Bangalore, Ấn Độ

Khi bác sĩ trẻ Sriram Sunil bắt đầu ca làm việc tại một bệnh viện công ở Bangalore, việc đầu tiên anh làm là kiểm tra xem bệnh nhân nào sống sót qua đêm.

Là bác sĩ thực tập đang làm việc năm đầu tiên, phần lớn khối lượng công việc đổ dồn lên anh và các đồng nghiệp cùng trang lứa vì phần lớn bác sĩ cấp cao vẫn lo ngại về việc nhiễm virus. Anh cho biết, vào giữa tháng 9.2020, thường có hơn 500 bệnh nhân COVID-19 nhập viện cùng lúc, với ít nhất 50 ca trong số đó cần chăm sóc đặc biệt. Nhiều bệnh nhân đến từ các vùng quê nghèo lân cận.

Các nhân viên y tế tại Ấn Độ phàn nàn rằng họ không đủ trang thiết bị để ứng phó với đại dịch. Riêng bệnh viện của Sunil có sở hữu một số trang phục bảo hộ cá nhân, chẳng hạn như áo choàng y tế, nhưng không phải loại tiêu chuẩn. Cực chẳng đã, anh thường phải mặc nhiều lớp áo scrub (bộ đồ vải sử dụng trong phẫu thuật) chồng lên nhau. Có lần, các lớp vải này khiến anh cảm thấy ngột ngạt và nóng nực đến mức dường như anh sắp ngất đi khi đang ép ngực cho một bệnh nhân đang hấp hối.

*

Houston, Mỹ

Khoảng 2 giờ sáng trong đêm hè oi ả, trong phòng ngủ tại nhà riêng, bác sĩ Orlando Garner thức giấc vì một tiếng động mạnh. Anh nhảy ra khỏi giường và thấy vợ mình, Gabriela, đã ngất xỉu, trán nóng bừng vì sốt – cơn sốt mà chỉ vài giờ trước đó đã tấn công anh và con trai, bé Orlando Jr. mới 3 tuổi. Hai ngày sau, cơn sốt lây lan đến cô con gái sơ sinh của họ, Veronica.

Gần năm tháng sau, bác sĩ Garner – công tác tại đơn vị Chăm sóc tích cực (ICU) tại Đại học Y khoa Baylor – vẫn còn ám ảnh bởi những gì xảy đến với gia đình mình vào mùa hè năm ngoái: Anh đã vô tình mang virus corona về nhà và khiến vợ cùng các con trải qua cơn bệnh nặng.

“Tôi cảm thấy tội lỗi vô cùng,” anh nói, “Đây là công việc của tôi, những gì tôi muốn làm. Và nó suýt nữa là giết chết con tôi, suýt nữa giết chết vợ tôi – tất cả chỉ vì tôi.”

*

Wales, Vương quốc Anh

Maria Driscoll là Chuyên viên Phân tích Dữ Liệu tại Siemens Healthineers (công ty công nghệ y tế hàng đầu thế giới có trụ sử tại Đức). Công việc chính của cô là thu thập, xử lý và thực hiện các phân tích dữ liệu thống kê để giúp Siemens Healthineers cải thiện sản phẩm và giải pháp y tế. Cô cảm thấy hài lòng với công việc, nhưng vẫn muốn đóng góp nhiều hơn nữa trong thời điểm khó khăn này. May mắn là, Siemens Healthineers cho phép nhân viên tại chi nhánh Vương quốc Anh và Ireland tạm nghỉ phép để làm tình nguyện viên cho Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS).

Maria nắm bắt ngay cơ hội và nhanh chóng gọi điện cho bố của cô, người đang công tác tại bộ phận nhân sự, Ban Y Tế Đại học Cardiff and The Vale – nơi có trách nhiệm điều phối nhân sự và dịch vụ cho các cơ sở y tế địa phương. Maria nhớ lại rằng, “Khối lượng công việc của họ tăng lên theo cấp số nhân, họ phải thuê thêm hơn 1.000 nhân viên để hỗ trợ các bệnh viện điều trị COVID-19. Tôi hỏi bố mình: bố có cần con giúp không? Ông nói có, con có thể đến đây ngay lập tức chứ?”

*

Boston, Mỹ

Điều dưỡng viên Aformia Bekele, công tác tại bệnh viện Brigham & Women, Boston | The Harvard Gazette

“Bình thường tôi làm việc ở khu nội trú, khoa Phẫu thuật ung thư; nhưng trong thời kỳ đại dịch, toàn bộ tầng này đã được chuyển đổi thành đơn vị điều trị COVID-19. Chăm sóc cho các bệnh nhân này mang đến những thách thức phi thường. Đầu tiên, tôi đã trải qua những cơn lo lắng và sợ hãi cùng cực khi tiếp xúc với virus và lỡ đâu mang nó về nhà, lây bệnh cho gia đình tôi. Bên cạnh đó, công việc này vắt kiệt sức bạn. Các điều dưỡng viên phải liên tục xoay vần giữa các nhiệm vụ khác nhau để giảm thiểu số lượng thiết bị bảo hộ được dùng. Chúng tôi giúp bệnh nhân ăn uống, dọn dẹp vệ sinh cá nhân, gọi điện và video cho người thân của họ. Dành nhiều thời gian và công sức đến thế, để rồi nhìn sức khỏe họ trở nên xấu đi, buộc phải trao đổi với gia đình bệnh nhân về những tình huống đau lòng nhất – đủ loại cung bậc cảm xúc. Các bệnh nhân thường có nồng độ oxy thấp và có thể đột ngột trở nặng.

Dĩ nhiên, chứng kiến những bệnh nhân của mình khổ sở chưa bao giờ là chuyện dễ dàng, nhưng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ ai trong số họ. Tôi nuôi dưỡng hy vọng và nguyện cầu rằng, mỗi người trong họ đều sẽ sống sót. Tôi hân hoan khi có ai đó xuất viện, tôi mỉm cười khi họ có thể đoàn tụ với gia đình. Hơn hết, tôi biết ơn sự hỗ trợ của gia đình tôi. Điều đó đã khích lệ tôi bước tiếp.”

– Điều dưỡng viên Aformia Bekele, công tác tại bệnh viện Brigham & Women, Boston

*

Barcelona, Tây Ban Nha

BBC Instagram

Từ tháng 3.2020, Bệnh viện del Mar đã chữa trị cho số lượng lớn các bệnh nhân COVID-19 – nhiều người phải nằm trong khu Chăm sóc đặc biệt. Một trong số đó là ông Isidre Correa, và hôm nay ông đã bắt đầu hồi phục. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, ông lại được chiêm ngưỡng cảnh biển Barcelona – với sự hỗ trợ tận tình của đội ngũ y bác sĩ nơi đây. Quả là chẳng có gì tuyệt vời bằng không khí trong lành của biển cả ??

*

Durham, Mỹ

Cuộc thi làm thơ Haiku về trải nghiệm của cán bộ y tế trong dịch bệnh COVID-19

Bạn giúp tôi cắt tóc.
“Chết bỏ”, nàng nói và cười to.
Thôi thì sẽ mọc lại.

– Blair Chesnut, Lập trình viên Phân tích cao cấp – Sinh lý học phân tử


Nâng cao chiếc iPad.
Qua màn hình, gia đình tạm biệt.
Cầu nguyện, hơi thở cuối.

– Ashley Acken, Giáo sĩ Hành chính Lâm sàng Cao cấp, Bệnh viện Đại học Duke


Cháu mình vừa ra đời
Không thể gặp; cũng chẳng thể ôm
Hy vọng, vẫn hy vọng

– Lesley Stanford, Chuyên gia Dinh dưỡng Lâm sàng, Dịch vụ dinh dưỡng


Hằng ngày kính mờ sương
Miễn phí cho nhân viên y tế
Đã tiêm vắc-xin, yay!

– Chelsea Walsh, Y tá lâm sàng, Trung tâm Sức khỏe Trẻ em Duke


Một con virus mới,
Nhanh chóng đánh chiếm thế giới này,
Y tế ta sẽ thắng.

– Nathan Wise, Chuyên viên Phân tích tài chính, Bệnh viện Duke Raleigh.

*

Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam

Lá thư từ em Nguyễn Đông Nghi, gửi đến ba là chú Nguyễn Phi Long, hiện đang công tác tại Bệnh viện Quân Y TP. Hồ Chí Minh.

“Ba ơi? Thế là đã mấy tuần ba đi trực liên tục ở cơ quan không về, mẹ cũng đi làm nhưng thật may mắn khi không phải ở lại. Vì thế con vẫn còn có bờ vai để cảm thấy bình yên bên mình. Chưa bao giờ con từng chứng kiến một dịch bệnh khủng khiếp thế này! Hàng ngày đọc báo, con thấy các cô chú bác sĩ phải gồng mình để cứu chữa bệnh nhân, động viên, giúp đưa mọi người đi cách ly bất kể lúc nào. Các cô chú mặc đồ bảo hộ suốt ngày chắc nóng lắm ba nhỉ? Rồi con thấy một em bé hai tuổi ở nhà khóc mếu máo khi thấy mẹ xuất hiện trên tivi. Con thương em đó quá ba ơi!

Vì cộng đồng, vì nhân dân phục vụ mà có những nhân viên y tế thậm chí đã sáu bảy mươi ngày rồi vẫn chưa được gặp lại gia đình đó ba. Chao ôi! Giá mà không có dịch bệnh thì cuộc sống của mọi người đều bình an và không bị đảo lộn. Con vẫn luôn tự hào về ba, người luôn cố gắng để điều trị cho bệnh nhân. Và cứ thế mỗi ngày ba vẫn luôn gắn bó với công việc chữa trị cho bệnh nhân, đi trực theo lịch phân công của bệnh viện. Con vẫn luôn tự hào có ba làm nghề cứu bệnh giúp đời. Ba cứ yên tâm chữa bệnh cho tất cả mọi người đều khỏe mạnh để họ còn được về bên gia đình. Đó là niềm vui hạnh phúc của người làm nghề Y, phải không Ba?”

*

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam, Bookish.vn và Nhà Sách Phương Nam xin gửi lời cảm ơn sâu sắc gửi đến các cán bộ y tế, đội ngũ nghiên cứu và tình nguyện viên – những chiến sĩ áo trắng phi thường, những người đồng hành và ân nhân của những trái tim Việt, là người truyền động lực cho chúng học cách “không từ bỏ”. Đi qua đại dịch, chúng ta rồi sẽ ổn thôi.

Bức tranh của em Trần Hạ Minh Khuê, gửi đến bác sĩ Trần Công Chính, hiện đang công tác tại Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Đức, tỉnh Quảng Nam.

Vững tin vào một Việt Nam hồi phục và khỏe mạnh!

Hết.

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng