Trà chiều

8 câu chuyện đáng nhớ về đội ngũ y tế trong đại dịch COVID-19

Published

on

Ba năm qua, lần đầu tiên thế hệ chúng ta chứng kiến một dịch bệnh có quy mô, tầm ảnh hưởng và sức tàn phá lớn đến thế. SARS-COV-2 lần đầu tiên xuất hiện tại thành phố Vũ Hán, cướp đi tính mạng của bác sĩ Lý Văn Lượng – người đầu tiên cảnh báo về dịch viêm phổi cấp gây ra do virus. Những năm tiếp theo, các biến chủng và biến chứng của dịch bệnh dường như luôn đặt loài người vào tình thế bị động. Ở tiền phương cuộc chiến, đội ngũ y tế, chuyên viên nghiên cứu khoa học và các tình nguyện viên là những người đánh cược mạng sống và sức khỏe của mình để nghiên cứu, áp dụng phương pháp chữa và phòng dịch để bảo vệ sức khỏe và tính mạng của hàng tỷ người trên thế giới.

Đối phó với đại dịch có tỷ lệ tử vong cao, họ mang trên mình gánh nặng thể xác và tinh thần khôn tả. Bên cạnh đó, số lượng lớn các y bác sĩ được chuyển đến điều trị COVID-19 cũng đặt áp lực lớn cho những người ở lại, phải đảm bảo bệnh viện vận hành bình thường và chữa trị cho những căn bệnh khác. Năm 2020 và 2021 đã thử thách tính kiên cường và dẻo dai của hệ thống chăm sóc sức khỏe, chứng kiến sự vất vả, kiên trì của đội ngũ y tế Việt Nam nói riêng và thế giới nói chung.

Nhân kỷ niệm 67 năm ngày thầy thuốc Việt Nam (27.02.1955 – 27.02.2022), Bookish xin điểm lại 8 câu chuyện vui buồn, đủ các sắc thái tình cảm của những con người bình thường mà phi thường; đã, đang và sẽ chiến đấu với dịch bệnh mỗi ngày.

Bức tranh của em Nguyễn Hồng Hoài Diệp, gửi đến dì Đinh Thị Trí Hên, hiện đang công tác tại bệnh viện Nhân dân 115 – giải Nhất cuộc thi vẽ “Con thương chiếc áo Blouse” do CHIR và Nhà Sách Phương Nam phối hợp tổ chức.

*

Hà Nội, Việt Nam

Bác sĩ Nguyễn Văn Tập (giữa) và các cán bộ y tế cùng đơn vị | VOV

“Một cuộc điện thoại. Một ngày để gói ghém hành lý. Một khoảnh khắc cuối cùng nhìn lại cuộc sống bên ngoài, để rồi sau đó dành hàng tuần hoặc hàng tháng tiếp theo ở một nơi mà nhiều người đang đứng trước cánh cửa tử. Mỗi bước chân tôi đi, lòng tôi chưa bao giờ cảm thấy buồn sâu sắc đến thế. Với tôi, bước vào cơ sở điều trị COVID-19 hệt như bước đến mép vực sâu, và nhảy ùm xuống”.

“Hoang mang và lo ngại. Chúng tôi chưa bao giờ tiếp xúc gần với một bệnh nhân COVID, huống gì là chăm sóc họ. Nói theo cách nào đó, chúng tôi hoàn toàn lạc lối. Nhiều người trong số chúng tôi đến 2 giờ sáng vẫn không thể chợp mắt được”.

Bác sĩ Đinh Văn Tập và điều dưỡng viên Nguyễn Thị Thu Hương nhớ lại cái ngày định mệnh ấy, khi họ nhận lệnh về điều trị tại khoa COVID-19 của bệnh viện Thanh Nhàn, Hà Nội. Đây là trải nghiệm hoàn toàn mới toanh với họ – những người có gần 20 năm kinh nghiệm trong ngành y. Với cảm xúc hỗn độn, cả hai cùng bước vào chiến trường chống lại COVID-19 – căn bệnh đã giết chết hàng triệu người trên toàn thế giới.

*

Bangalore, Ấn Độ

Khi bác sĩ trẻ Sriram Sunil bắt đầu ca làm việc tại một bệnh viện công ở Bangalore, việc đầu tiên anh làm là kiểm tra xem bệnh nhân nào sống sót qua đêm.

Là bác sĩ thực tập đang làm việc năm đầu tiên, phần lớn khối lượng công việc đổ dồn lên anh và các đồng nghiệp cùng trang lứa vì phần lớn bác sĩ cấp cao vẫn lo ngại về việc nhiễm virus. Anh cho biết, vào giữa tháng 9.2020, thường có hơn 500 bệnh nhân COVID-19 nhập viện cùng lúc, với ít nhất 50 ca trong số đó cần chăm sóc đặc biệt. Nhiều bệnh nhân đến từ các vùng quê nghèo lân cận.

Các nhân viên y tế tại Ấn Độ phàn nàn rằng họ không đủ trang thiết bị để ứng phó với đại dịch. Riêng bệnh viện của Sunil có sở hữu một số trang phục bảo hộ cá nhân, chẳng hạn như áo choàng y tế, nhưng không phải loại tiêu chuẩn. Cực chẳng đã, anh thường phải mặc nhiều lớp áo scrub (bộ đồ vải sử dụng trong phẫu thuật) chồng lên nhau. Có lần, các lớp vải này khiến anh cảm thấy ngột ngạt và nóng nực đến mức dường như anh sắp ngất đi khi đang ép ngực cho một bệnh nhân đang hấp hối.

*

Houston, Mỹ

Khoảng 2 giờ sáng trong đêm hè oi ả, trong phòng ngủ tại nhà riêng, bác sĩ Orlando Garner thức giấc vì một tiếng động mạnh. Anh nhảy ra khỏi giường và thấy vợ mình, Gabriela, đã ngất xỉu, trán nóng bừng vì sốt – cơn sốt mà chỉ vài giờ trước đó đã tấn công anh và con trai, bé Orlando Jr. mới 3 tuổi. Hai ngày sau, cơn sốt lây lan đến cô con gái sơ sinh của họ, Veronica.

Gần năm tháng sau, bác sĩ Garner – công tác tại đơn vị Chăm sóc tích cực (ICU) tại Đại học Y khoa Baylor – vẫn còn ám ảnh bởi những gì xảy đến với gia đình mình vào mùa hè năm ngoái: Anh đã vô tình mang virus corona về nhà và khiến vợ cùng các con trải qua cơn bệnh nặng.

“Tôi cảm thấy tội lỗi vô cùng,” anh nói, “Đây là công việc của tôi, những gì tôi muốn làm. Và nó suýt nữa là giết chết con tôi, suýt nữa giết chết vợ tôi – tất cả chỉ vì tôi.”

*

Wales, Vương quốc Anh

Maria Driscoll là Chuyên viên Phân tích Dữ Liệu tại Siemens Healthineers (công ty công nghệ y tế hàng đầu thế giới có trụ sử tại Đức). Công việc chính của cô là thu thập, xử lý và thực hiện các phân tích dữ liệu thống kê để giúp Siemens Healthineers cải thiện sản phẩm và giải pháp y tế. Cô cảm thấy hài lòng với công việc, nhưng vẫn muốn đóng góp nhiều hơn nữa trong thời điểm khó khăn này. May mắn là, Siemens Healthineers cho phép nhân viên tại chi nhánh Vương quốc Anh và Ireland tạm nghỉ phép để làm tình nguyện viên cho Dịch vụ Y tế Quốc gia (NHS).

Maria nắm bắt ngay cơ hội và nhanh chóng gọi điện cho bố của cô, người đang công tác tại bộ phận nhân sự, Ban Y Tế Đại học Cardiff and The Vale – nơi có trách nhiệm điều phối nhân sự và dịch vụ cho các cơ sở y tế địa phương. Maria nhớ lại rằng, “Khối lượng công việc của họ tăng lên theo cấp số nhân, họ phải thuê thêm hơn 1.000 nhân viên để hỗ trợ các bệnh viện điều trị COVID-19. Tôi hỏi bố mình: bố có cần con giúp không? Ông nói có, con có thể đến đây ngay lập tức chứ?”

*

Boston, Mỹ

Điều dưỡng viên Aformia Bekele, công tác tại bệnh viện Brigham & Women, Boston | The Harvard Gazette

“Bình thường tôi làm việc ở khu nội trú, khoa Phẫu thuật ung thư; nhưng trong thời kỳ đại dịch, toàn bộ tầng này đã được chuyển đổi thành đơn vị điều trị COVID-19. Chăm sóc cho các bệnh nhân này mang đến những thách thức phi thường. Đầu tiên, tôi đã trải qua những cơn lo lắng và sợ hãi cùng cực khi tiếp xúc với virus và lỡ đâu mang nó về nhà, lây bệnh cho gia đình tôi. Bên cạnh đó, công việc này vắt kiệt sức bạn. Các điều dưỡng viên phải liên tục xoay vần giữa các nhiệm vụ khác nhau để giảm thiểu số lượng thiết bị bảo hộ được dùng. Chúng tôi giúp bệnh nhân ăn uống, dọn dẹp vệ sinh cá nhân, gọi điện và video cho người thân của họ. Dành nhiều thời gian và công sức đến thế, để rồi nhìn sức khỏe họ trở nên xấu đi, buộc phải trao đổi với gia đình bệnh nhân về những tình huống đau lòng nhất – đủ loại cung bậc cảm xúc. Các bệnh nhân thường có nồng độ oxy thấp và có thể đột ngột trở nặng.

Dĩ nhiên, chứng kiến những bệnh nhân của mình khổ sở chưa bao giờ là chuyện dễ dàng, nhưng tôi sẽ không bao giờ từ bỏ ai trong số họ. Tôi nuôi dưỡng hy vọng và nguyện cầu rằng, mỗi người trong họ đều sẽ sống sót. Tôi hân hoan khi có ai đó xuất viện, tôi mỉm cười khi họ có thể đoàn tụ với gia đình. Hơn hết, tôi biết ơn sự hỗ trợ của gia đình tôi. Điều đó đã khích lệ tôi bước tiếp.”

– Điều dưỡng viên Aformia Bekele, công tác tại bệnh viện Brigham & Women, Boston

*

Barcelona, Tây Ban Nha

BBC Instagram

Từ tháng 3.2020, Bệnh viện del Mar đã chữa trị cho số lượng lớn các bệnh nhân COVID-19 – nhiều người phải nằm trong khu Chăm sóc đặc biệt. Một trong số đó là ông Isidre Correa, và hôm nay ông đã bắt đầu hồi phục. Lần đầu tiên sau một thời gian dài, ông lại được chiêm ngưỡng cảnh biển Barcelona – với sự hỗ trợ tận tình của đội ngũ y bác sĩ nơi đây. Quả là chẳng có gì tuyệt vời bằng không khí trong lành của biển cả ??

*

Durham, Mỹ

Cuộc thi làm thơ Haiku về trải nghiệm của cán bộ y tế trong dịch bệnh COVID-19

Bạn giúp tôi cắt tóc.
“Chết bỏ”, nàng nói và cười to.
Thôi thì sẽ mọc lại.

– Blair Chesnut, Lập trình viên Phân tích cao cấp – Sinh lý học phân tử


Nâng cao chiếc iPad.
Qua màn hình, gia đình tạm biệt.
Cầu nguyện, hơi thở cuối.

– Ashley Acken, Giáo sĩ Hành chính Lâm sàng Cao cấp, Bệnh viện Đại học Duke


Cháu mình vừa ra đời
Không thể gặp; cũng chẳng thể ôm
Hy vọng, vẫn hy vọng

– Lesley Stanford, Chuyên gia Dinh dưỡng Lâm sàng, Dịch vụ dinh dưỡng


Hằng ngày kính mờ sương
Miễn phí cho nhân viên y tế
Đã tiêm vắc-xin, yay!

– Chelsea Walsh, Y tá lâm sàng, Trung tâm Sức khỏe Trẻ em Duke


Một con virus mới,
Nhanh chóng đánh chiếm thế giới này,
Y tế ta sẽ thắng.

– Nathan Wise, Chuyên viên Phân tích tài chính, Bệnh viện Duke Raleigh.

*

Tp. Hồ Chí Minh, Việt Nam

Lá thư từ em Nguyễn Đông Nghi, gửi đến ba là chú Nguyễn Phi Long, hiện đang công tác tại Bệnh viện Quân Y TP. Hồ Chí Minh.

“Ba ơi? Thế là đã mấy tuần ba đi trực liên tục ở cơ quan không về, mẹ cũng đi làm nhưng thật may mắn khi không phải ở lại. Vì thế con vẫn còn có bờ vai để cảm thấy bình yên bên mình. Chưa bao giờ con từng chứng kiến một dịch bệnh khủng khiếp thế này! Hàng ngày đọc báo, con thấy các cô chú bác sĩ phải gồng mình để cứu chữa bệnh nhân, động viên, giúp đưa mọi người đi cách ly bất kể lúc nào. Các cô chú mặc đồ bảo hộ suốt ngày chắc nóng lắm ba nhỉ? Rồi con thấy một em bé hai tuổi ở nhà khóc mếu máo khi thấy mẹ xuất hiện trên tivi. Con thương em đó quá ba ơi!

Vì cộng đồng, vì nhân dân phục vụ mà có những nhân viên y tế thậm chí đã sáu bảy mươi ngày rồi vẫn chưa được gặp lại gia đình đó ba. Chao ôi! Giá mà không có dịch bệnh thì cuộc sống của mọi người đều bình an và không bị đảo lộn. Con vẫn luôn tự hào về ba, người luôn cố gắng để điều trị cho bệnh nhân. Và cứ thế mỗi ngày ba vẫn luôn gắn bó với công việc chữa trị cho bệnh nhân, đi trực theo lịch phân công của bệnh viện. Con vẫn luôn tự hào có ba làm nghề cứu bệnh giúp đời. Ba cứ yên tâm chữa bệnh cho tất cả mọi người đều khỏe mạnh để họ còn được về bên gia đình. Đó là niềm vui hạnh phúc của người làm nghề Y, phải không Ba?”

*

Nhân ngày thầy thuốc Việt Nam, Bookish.vn và Nhà Sách Phương Nam xin gửi lời cảm ơn sâu sắc gửi đến các cán bộ y tế, đội ngũ nghiên cứu và tình nguyện viên – những chiến sĩ áo trắng phi thường, những người đồng hành và ân nhân của những trái tim Việt, là người truyền động lực cho chúng học cách “không từ bỏ”. Đi qua đại dịch, chúng ta rồi sẽ ổn thôi.

Bức tranh của em Trần Hạ Minh Khuê, gửi đến bác sĩ Trần Công Chính, hiện đang công tác tại Bệnh viện Đa khoa Vĩnh Đức, tỉnh Quảng Nam.

Vững tin vào một Việt Nam hồi phục và khỏe mạnh!

Hết.

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng