Trà chiều

7 cú lừa đảo ngoạn mục trong lịch sử

Published

on

P.T. Barnum, Anna Delvey, Elizabeth Holmes,…. câu chuyện về các tay lừa đảo xảo quyệt luôn có sức hấp dẫn lạ lùng với công chúng. Các mánh lới vĩ đại nhất không đơn giản là trò hên xui may rủi xuất phát từ lòng tham vô đáy của một cá nhân bất tài; chúng là kết quả của trí óc tài hoa nhưng lầm lỗi, khả năng phát hiện lỗ hổng pháp luật và đào khoét vào điểm mù tâm lý của nạn nhân để trục lợi và thỏa mãn cái tôi thổi phồng.

Ngày Cá tháng Tư là dịp lý tưởng để tìm hiểu về 7 phi vụ lừa đảo đáng nhớ trong lịch sử. Từ y học, xây dựng, điêu khắc đến xuất bản,… lĩnh vực nào cũng là mảnh đất béo bở để những “ảo thuật gia tâm lý” này ra tay kiếm chác. Và ngoạn mục nhất là, không phải ai cũng phải vào khám ngồi chơi xơi nước – những kẻ khôn ngoan nhất ôm lợi về tay nhưng vẫn bình an vô sự.

*

1. Ả y tá giả mạo trục lợi từ dịch bệnh

Ngay cả theo tiêu chuẩn đạo đức thấp lè tè của lừa đảo, Julia Lyons vẫn nổi bật là kẻ tàn nhẫn hạng nhất. Trong đại dịch cúm năm 1918, Lyons (dưới tên giả) “tình nguyện” đến Chicago làm y tá để chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh nan y tại nhà. Mặc dù được đào tạo bài bản trong lĩnh vực đánh cắp séc và đổi thành tiền mặt, ả hoàn toàn khiếm khuyết kiến thức y khoa. Ả tin chắc rằng, vì đất nước đang rơi vào cảnh hiểm nghèo và cần sự trợ giúp cấp thiết của nhân viên y tế, chẳng ai có thời gian tra xét kĩ càng. Linh tính của ả chính xác.

Nhân viên tình nguyện làm việc trong đại dịch cúm năm 1918 | Ảnh: Library of Congress/Reuters

Lyons chẳng mấy quan tâm đến việc điều trị bệnh nhân; ả tập trung hết thời gian và công sức để bòn rút tài khoản của họ. Bên cạnh việc đánh cắp tiền mặt và các vật giá trị, cô nàng còn mua đơn thuốc rẻ tiền và đội giá lên, điển hình là một bệnh nhân phải chi 100 đô-la chỉ để có được bình ô-xy trị giá vỏn vẹn 5 đô-la. Cuối cùng thì ả cũng bị tống vào tù, dù đã khăng khăng biện hộ rằng hoàn cảnh đưa đẩy mình vào con đường phạm tội.

2. Gã đàn ông “sale” cả tháp Eiffel

Đến bây giờ, chúng ta vẫn không biết nhiều về cuộc đời của Victor Lustig, kể cả tên thật của hắn ta. Lustig là tay làm hàng giả khét tiếng, nhưng cú lừa đỉnh cao của hắn diễn ra vào năm 1925, khi hắn làm giả giấy tờ chứng mình rằng mình là “Phó Tổng giám của Ministère de Postes et Télégraphes (Bộ Bưu chính và Điện báo Pháp)”. Tiền đề cực đơn giản: Lustig hẹn gặp nhiều đơn vị buôn sắt vụn và bảo họ rằng Tháp Eiffel – bấy giờ đang tình trạng xuống cấp trầm trọng – sẽ bị dỡ bỏ và vật liệu sắt sẽ được bán cho bên trả giá cao nhất.

Ai cũng cho đây là món hời, nhưng Lustig đặc biệt chú ý đến André Poisson, thỏ thẻ đề nghị Poisson “hối lộ” mình để nhận được vụ giao dịch này. Sau khi cầm được tiền trên tay, Lustig bỏ trốn khỏi Pháp nhưng chẳng mấy chốc mà quay về cố hương để lặp lại trò lừa đảo trên. (Hắn ta đoán chính xác rằng, Poisson vì quá xấu hổ nên chẳng dám kể cho ai về vụ này.)

Ai mua tháp Eiffel không? | Ảnh: Huy Phan

3. Stanley Kubrick, hàng nhái

Nếu bạn định mạo danh một đạo diễn phim lừng lẫy, Stanley Kubrick là lựa chọn tuyệt vời. Thời điểm còn sống, tuy được đánh giá cao qua các tác phẩm The ShiningFull Metal Jacket, Kubrick vẫn sống ẩn dật – gương mặt của ông không được công chúng biết đến và ghi nhớ nhiều như Steven Spielberg hay Martin Scorsese. Điều đó mở ra cơ hội để Alan Conway (tên khai sinh là Eddie Alan Jablowsky) liên tục xạo sự.

Trong giai đoạn đầu những năm 1990, Conway lang thang khắp nước Anh, mạo nhận là Kubrick và khai thác được một đại dương khán thính giả, nhà phê bình sân khấu, diễn viên và nhân viên trong ngành giải trí sẵn lòng nghe hắn diễn thuyết. Chiến lợi phẩm của gã ta chẳng nhiều nhặn gì – vài bữa tối miễn phí và quyền lui tới hậu trường (mặc dù vợ của Kubrick tố cáo Conway đã “dùng mồi nhử vai diễn để gạ gẫm các cậu trai”), Conway xoay sở mánh lời này trong nhiều năm dài. Điều lạ lùng nhất là thời điểm mất của cả Conway và đạo diễn Kubrick thật chỉ cách nhau vài tháng.

Stanley Kubrick hàng thật giá thật | Ảnh: Britannica

4. Nhật ký của Hitler

Đây là phi vụ báo chí thế kỷ: năm 1983, tờ The Sunday Times London xuất bản nhiều trang nhật ký được cho là do chính tay kẻ khét tiếng nhất thế kỷ XX – Adolf Hitler – viết. Biên tập viên của tờ báo, Frank Giles, đã cẩn trọng hợp tác với nhiều sử gia uy tín để xác thực và đi đến kết luận chúng là hàng thật. Phũ phàng thay, đống nhật ký trên là tác phẩm của một thợ rèn người Đức tên Konrad Kujau, người đã kiếm chác được từ phí xuất bản tại Đức và các quốc gia khác. (Kujau đã bán 60 tập nhật ký giả cho nhà xuất bản Stern với giá 4,8 triệu đô-la.) Vào phút chót, tờ Sunday Times đã nhận được thông tin này, nhưng chủ biên tờ báo – Rupert Murdoch – ra lệnh tiếp tục in. Kujau sau đó bị kết tội lừa đảo và ngồi tù ba năm.

Sau khi được thả, hắn vẫn gặp rắc rối khi sở hữu vũ khí không có giấy phép. Một thẩm phán người Đức bảo Kujau “rành rành là một gã u mê những thứ trái pháp luật.”

Konrad Kujau và “kiệt tác” của mình | Ảnh: Alchetron

5. Nàng công chúa kỳ bí

Năm 1817, cư dân ngôi làng nhỏ ở Almondsbury (Anh Quốc) bắt đầu đồn thổi về một vị khách lạ trong thị trấn. Tên nàng là Caraboo. Bằng một thứ ngôn ngữ ngoại lai, nàng thuật lại với thông dịch viên rằng mình là công chúa xuất thân từ hòn đảo Javasu ở Ấn Độ Dương, và nàng đang trốn chạy khỏi bọn cướp biển. Thị trấn nhỏ bé lấy làm vinh dự khi được diện kiến một thành viên hoàng tộc, và ngay sau đó quan chức địa phương bắt đầu tổ chức những bữa tiệc đắt đỏ và xa hoa để khoản đãi nàng.

Nhưng Javasu chỉ tồn tại trong hư cấu, và Công chúa Caraboo cũng không có chút dính líu gì với hai chữ “hoàng gia”. Cô ta tên thật là Mary Baker, con gái của một thợ săn. Sau khi một chủ nhà trọ nhận ra Baker từ mô tả trên báo, sự nghi ngờ ngày càng tăng. Lời đồn đến tai bà Worrall, vợ của thẩm phán Samuel Worrall. Lấy cớ mời Caraboo đến làm người mẫu tranh chân dung, bà dụ ả đến Bristol để người chủ trọ kia nhận diện. Baker nhận tội, rằng đây là giải phải thoát nghèo bằng cách “fake it till you make it” (theo đúng nghĩa đen).

Chân dung “công chúa Caraboo” | Ảnh: Wikipedia Commons

6. Phi vụ lừa đảo đồ gốm thời tiền-Colombia

Năm 1974, Brígido Lara nằm trong băng nhóm bị bắt và buộc tội cướp phá tạo tác đồ gốm thời tiền Colombia. Nhưng Lara kiên quyết phủ nhận tội danh vì – gã khăng khăng – đây toàn hàng giả! Lara thừa nhận mình đã dùng đất sét để tạo ra các mẫu hàng nhái, mô phỏng tác phẩm từ nền văn minh Mesoamerican và bán chúng. Mặc dù gã khẳng định mình “chưa bao giờ quảng cáo đây là hàng thật”, gã thừa biết rất nhiều đối tác của mình sau đó sẽ bán lại cho người khác như thể đây thực sự là tác phẩm của thời cổ.

Đối mặt với bản án 10 năm tù giam vì tội cướp phá di sản văn hóa, Lara thuyết phục cai ngục cung cấp đất sét và dụng cụ để chứng minh mình “vô tội”. Sau khi được thả, anh được bảo tàng Museo de Antropología de Xalapa thuê về làm việc. Dù Lara đã trở về chính đạo, đồ giả của anh vẫn thi thoảng xuất hiện tại nhiều bảo tàng và buổi đấu giá trên thế giới, dẫn đến việc Lara phải xuất đầu lộ diện để làm sáng tỏ.

Brígido Lara | Ảnh: Jesse Lerner

7. Tòa nhà chọc trời… lùn nhất thế giới

Chắc chẳng mấy ai coi một tòa nhà cao 12 mét là “chọc trời”. Người dân địa phương vẫn truyền tai nhau rằng, vào năm 1919, một tòa nhà ở Wichita Falls (Texas, Mỹ) xuất hiện sau khi chủ đầu tư tên J.D. McMahon thuyết phục cư dân rằng hắn sẽ xây dựng một cơ ngơi khổng lồ vươn thẳng lên chín tầng mây cao. Sau khi nhét túi 200.000 đô-la, hắn ta dựng lên một tòa nhà chỉ cao 4 tầng (40 feet) — thì ra số đo trong giấy tờ được tính theo đơn vị inch chứ không phải feet, một chi tiết quan trọng không ai nhận ra.

McMahon bình an vô sự, còn dân địa phương thì muốn độn thổ sau khi biệt danh “tòa nhà chọc trời lùn nhất thế giới” ra đời.

“Tòa nhà chọc trời” Newby–McMahon | Ảnh: The Bluebeam Blog

Hết.

Mèo Heo lược dịch.

Bài viết gốc 21 of the Wildest Cons in History đăng tại Mental Floss.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng