Trà chiều

7 cú lừa đảo ngoạn mục trong lịch sử

Published

on

P.T. Barnum, Anna Delvey, Elizabeth Holmes,…. câu chuyện về các tay lừa đảo xảo quyệt luôn có sức hấp dẫn lạ lùng với công chúng. Các mánh lới vĩ đại nhất không đơn giản là trò hên xui may rủi xuất phát từ lòng tham vô đáy của một cá nhân bất tài; chúng là kết quả của trí óc tài hoa nhưng lầm lỗi, khả năng phát hiện lỗ hổng pháp luật và đào khoét vào điểm mù tâm lý của nạn nhân để trục lợi và thỏa mãn cái tôi thổi phồng.

Ngày Cá tháng Tư là dịp lý tưởng để tìm hiểu về 7 phi vụ lừa đảo đáng nhớ trong lịch sử. Từ y học, xây dựng, điêu khắc đến xuất bản,… lĩnh vực nào cũng là mảnh đất béo bở để những “ảo thuật gia tâm lý” này ra tay kiếm chác. Và ngoạn mục nhất là, không phải ai cũng phải vào khám ngồi chơi xơi nước – những kẻ khôn ngoan nhất ôm lợi về tay nhưng vẫn bình an vô sự.

*

1. Ả y tá giả mạo trục lợi từ dịch bệnh

Ngay cả theo tiêu chuẩn đạo đức thấp lè tè của lừa đảo, Julia Lyons vẫn nổi bật là kẻ tàn nhẫn hạng nhất. Trong đại dịch cúm năm 1918, Lyons (dưới tên giả) “tình nguyện” đến Chicago làm y tá để chăm sóc các bệnh nhân mắc bệnh nan y tại nhà. Mặc dù được đào tạo bài bản trong lĩnh vực đánh cắp séc và đổi thành tiền mặt, ả hoàn toàn khiếm khuyết kiến thức y khoa. Ả tin chắc rằng, vì đất nước đang rơi vào cảnh hiểm nghèo và cần sự trợ giúp cấp thiết của nhân viên y tế, chẳng ai có thời gian tra xét kĩ càng. Linh tính của ả chính xác.

Nhân viên tình nguyện làm việc trong đại dịch cúm năm 1918 | Ảnh: Library of Congress/Reuters

Lyons chẳng mấy quan tâm đến việc điều trị bệnh nhân; ả tập trung hết thời gian và công sức để bòn rút tài khoản của họ. Bên cạnh việc đánh cắp tiền mặt và các vật giá trị, cô nàng còn mua đơn thuốc rẻ tiền và đội giá lên, điển hình là một bệnh nhân phải chi 100 đô-la chỉ để có được bình ô-xy trị giá vỏn vẹn 5 đô-la. Cuối cùng thì ả cũng bị tống vào tù, dù đã khăng khăng biện hộ rằng hoàn cảnh đưa đẩy mình vào con đường phạm tội.

2. Gã đàn ông “sale” cả tháp Eiffel

Đến bây giờ, chúng ta vẫn không biết nhiều về cuộc đời của Victor Lustig, kể cả tên thật của hắn ta. Lustig là tay làm hàng giả khét tiếng, nhưng cú lừa đỉnh cao của hắn diễn ra vào năm 1925, khi hắn làm giả giấy tờ chứng mình rằng mình là “Phó Tổng giám của Ministère de Postes et Télégraphes (Bộ Bưu chính và Điện báo Pháp)”. Tiền đề cực đơn giản: Lustig hẹn gặp nhiều đơn vị buôn sắt vụn và bảo họ rằng Tháp Eiffel – bấy giờ đang tình trạng xuống cấp trầm trọng – sẽ bị dỡ bỏ và vật liệu sắt sẽ được bán cho bên trả giá cao nhất.

Ai cũng cho đây là món hời, nhưng Lustig đặc biệt chú ý đến André Poisson, thỏ thẻ đề nghị Poisson “hối lộ” mình để nhận được vụ giao dịch này. Sau khi cầm được tiền trên tay, Lustig bỏ trốn khỏi Pháp nhưng chẳng mấy chốc mà quay về cố hương để lặp lại trò lừa đảo trên. (Hắn ta đoán chính xác rằng, Poisson vì quá xấu hổ nên chẳng dám kể cho ai về vụ này.)

Ai mua tháp Eiffel không? | Ảnh: Huy Phan

3. Stanley Kubrick, hàng nhái

Nếu bạn định mạo danh một đạo diễn phim lừng lẫy, Stanley Kubrick là lựa chọn tuyệt vời. Thời điểm còn sống, tuy được đánh giá cao qua các tác phẩm The ShiningFull Metal Jacket, Kubrick vẫn sống ẩn dật – gương mặt của ông không được công chúng biết đến và ghi nhớ nhiều như Steven Spielberg hay Martin Scorsese. Điều đó mở ra cơ hội để Alan Conway (tên khai sinh là Eddie Alan Jablowsky) liên tục xạo sự.

Trong giai đoạn đầu những năm 1990, Conway lang thang khắp nước Anh, mạo nhận là Kubrick và khai thác được một đại dương khán thính giả, nhà phê bình sân khấu, diễn viên và nhân viên trong ngành giải trí sẵn lòng nghe hắn diễn thuyết. Chiến lợi phẩm của gã ta chẳng nhiều nhặn gì – vài bữa tối miễn phí và quyền lui tới hậu trường (mặc dù vợ của Kubrick tố cáo Conway đã “dùng mồi nhử vai diễn để gạ gẫm các cậu trai”), Conway xoay sở mánh lời này trong nhiều năm dài. Điều lạ lùng nhất là thời điểm mất của cả Conway và đạo diễn Kubrick thật chỉ cách nhau vài tháng.

Stanley Kubrick hàng thật giá thật | Ảnh: Britannica

4. Nhật ký của Hitler

Đây là phi vụ báo chí thế kỷ: năm 1983, tờ The Sunday Times London xuất bản nhiều trang nhật ký được cho là do chính tay kẻ khét tiếng nhất thế kỷ XX – Adolf Hitler – viết. Biên tập viên của tờ báo, Frank Giles, đã cẩn trọng hợp tác với nhiều sử gia uy tín để xác thực và đi đến kết luận chúng là hàng thật. Phũ phàng thay, đống nhật ký trên là tác phẩm của một thợ rèn người Đức tên Konrad Kujau, người đã kiếm chác được từ phí xuất bản tại Đức và các quốc gia khác. (Kujau đã bán 60 tập nhật ký giả cho nhà xuất bản Stern với giá 4,8 triệu đô-la.) Vào phút chót, tờ Sunday Times đã nhận được thông tin này, nhưng chủ biên tờ báo – Rupert Murdoch – ra lệnh tiếp tục in. Kujau sau đó bị kết tội lừa đảo và ngồi tù ba năm.

Sau khi được thả, hắn vẫn gặp rắc rối khi sở hữu vũ khí không có giấy phép. Một thẩm phán người Đức bảo Kujau “rành rành là một gã u mê những thứ trái pháp luật.”

Konrad Kujau và “kiệt tác” của mình | Ảnh: Alchetron

5. Nàng công chúa kỳ bí

Năm 1817, cư dân ngôi làng nhỏ ở Almondsbury (Anh Quốc) bắt đầu đồn thổi về một vị khách lạ trong thị trấn. Tên nàng là Caraboo. Bằng một thứ ngôn ngữ ngoại lai, nàng thuật lại với thông dịch viên rằng mình là công chúa xuất thân từ hòn đảo Javasu ở Ấn Độ Dương, và nàng đang trốn chạy khỏi bọn cướp biển. Thị trấn nhỏ bé lấy làm vinh dự khi được diện kiến một thành viên hoàng tộc, và ngay sau đó quan chức địa phương bắt đầu tổ chức những bữa tiệc đắt đỏ và xa hoa để khoản đãi nàng.

Nhưng Javasu chỉ tồn tại trong hư cấu, và Công chúa Caraboo cũng không có chút dính líu gì với hai chữ “hoàng gia”. Cô ta tên thật là Mary Baker, con gái của một thợ săn. Sau khi một chủ nhà trọ nhận ra Baker từ mô tả trên báo, sự nghi ngờ ngày càng tăng. Lời đồn đến tai bà Worrall, vợ của thẩm phán Samuel Worrall. Lấy cớ mời Caraboo đến làm người mẫu tranh chân dung, bà dụ ả đến Bristol để người chủ trọ kia nhận diện. Baker nhận tội, rằng đây là giải phải thoát nghèo bằng cách “fake it till you make it” (theo đúng nghĩa đen).

Chân dung “công chúa Caraboo” | Ảnh: Wikipedia Commons

6. Phi vụ lừa đảo đồ gốm thời tiền-Colombia

Năm 1974, Brígido Lara nằm trong băng nhóm bị bắt và buộc tội cướp phá tạo tác đồ gốm thời tiền Colombia. Nhưng Lara kiên quyết phủ nhận tội danh vì – gã khăng khăng – đây toàn hàng giả! Lara thừa nhận mình đã dùng đất sét để tạo ra các mẫu hàng nhái, mô phỏng tác phẩm từ nền văn minh Mesoamerican và bán chúng. Mặc dù gã khẳng định mình “chưa bao giờ quảng cáo đây là hàng thật”, gã thừa biết rất nhiều đối tác của mình sau đó sẽ bán lại cho người khác như thể đây thực sự là tác phẩm của thời cổ.

Đối mặt với bản án 10 năm tù giam vì tội cướp phá di sản văn hóa, Lara thuyết phục cai ngục cung cấp đất sét và dụng cụ để chứng minh mình “vô tội”. Sau khi được thả, anh được bảo tàng Museo de Antropología de Xalapa thuê về làm việc. Dù Lara đã trở về chính đạo, đồ giả của anh vẫn thi thoảng xuất hiện tại nhiều bảo tàng và buổi đấu giá trên thế giới, dẫn đến việc Lara phải xuất đầu lộ diện để làm sáng tỏ.

Brígido Lara | Ảnh: Jesse Lerner

7. Tòa nhà chọc trời… lùn nhất thế giới

Chắc chẳng mấy ai coi một tòa nhà cao 12 mét là “chọc trời”. Người dân địa phương vẫn truyền tai nhau rằng, vào năm 1919, một tòa nhà ở Wichita Falls (Texas, Mỹ) xuất hiện sau khi chủ đầu tư tên J.D. McMahon thuyết phục cư dân rằng hắn sẽ xây dựng một cơ ngơi khổng lồ vươn thẳng lên chín tầng mây cao. Sau khi nhét túi 200.000 đô-la, hắn ta dựng lên một tòa nhà chỉ cao 4 tầng (40 feet) — thì ra số đo trong giấy tờ được tính theo đơn vị inch chứ không phải feet, một chi tiết quan trọng không ai nhận ra.

McMahon bình an vô sự, còn dân địa phương thì muốn độn thổ sau khi biệt danh “tòa nhà chọc trời lùn nhất thế giới” ra đời.

“Tòa nhà chọc trời” Newby–McMahon | Ảnh: The Bluebeam Blog

Hết.

Mèo Heo lược dịch.

Bài viết gốc 21 of the Wildest Cons in History đăng tại Mental Floss.

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng