Phía sau trang sách

1Q84 – Aomame và Haruki, người thật tuyệt vời

Thật là một người con gái đặc biệt. Dù biết tất cả chỉ là ảo ảnh, nhưng Aomame đã khiến tôi mỉm cười và lo lắng cho nàng. Như vậy thôi cũng đã xua tan một chút nỗi buồn của tôi trong cuộc sống. Như vậy thôi tinh thần tôi cũng đã bình ổn hơn một chút.

Published

on

“Em muốn anh xua đi cái lạnh tận sâu trong cơ thể, sau đó tiến vào trong em, thỏa sức khuấy trộn, như người ta dùng thìa khuấy ca cao, chầm chậm, tiến sâu xuống tận cùng. Nếu anh có thể làm thế với em thì dù có chết ngay tại đó em cũng không hối tiếc. Thật đó.”

Aomame, 1Q84 tập 2

Lúc đọc đoạn này, tôi đã đọc chầm chậm. Từng câu chữ làm tôi xúc động. Nếu chỉ trích dẫn nó ra riêng như vậy, có lẽ trông nó cũng chẳng khác gì với một tiểu thuyết diễm tình bình thường của Trung Quốc. Nhưng nếu đặt trong không khí của 1Q84, đặt trong hoàn cảnh của Aomame, tôi lại thấy nó đặc biệt. Người con gái đó đã luôn lạnh lùng, điềm tĩnh lí trí. Không ai biết sâu trong nàng là gì. Điều gì có thể khiến cho nàng giữ vững sự mạnh mẽ như vậy. Chỉ mình nàng biết rằng đó chính là Tengo. Là người nàng đã yêu, và dù chỉ nắm tay một lần, dù không có bất cứ cuộc trò chuyện nào, nàng vẫn luôn chờ đợi người ấy suốt 20 năm trời. 20 năm, một khoảng thời gian quá dài. Vậy mà nàng vẫn yêu và sẵn sàng chết vì người đó. Thế nhưng…

“Cô không hề có ý định tự mình tiến tới với anh ta phải không?”

Aomame lắc đầu. “Đối với tôi, quan trọng nhất là sự thực rằng tôi cần anh ấy từ tận đáy lòng”

Thật kiên định, thật dứt khoát. Đó là lí do tại sao tôi rất thích Aomame. Lâu lắm rồi không có nhân vật nào khiến tôi thích nhiều đến như vậy. Thích đến mức tôi nghĩ là nàng có tồn tại đâu đó trên cuộc đời với tình yêu lặng thầm của mình, với những suy nghĩ mạnh mẽ và dứt khoát đó. Tôi thật sự… rất rất thích Aomame. Trong 1Q84 có rất nhiều nhân vật thú vị. Tengo tôi cũng thích. Fukaeri cũng thích. Nhưng rồi đến một thời điểm nào đó, tôi nhận ra, người mình thích nhất là Aomame. Đến thời điểm này thì tôi đọc 1Q84 mà gần như chỉ quan tâm đến nàng. Khoảng thời gian đọc hết 1Q84 tập 1 và chờ sang tập 2, tôi nhớ Aomame kinh khủng. Nhiều lúc tôi muốn đọc bản tiếng Anh luôn nhưng lúc đó tôi không có thời gian… Ba tháng đó trôi qua thật dài và buồn. Trước giờ, ngoài Naoko ra, tôi chưa thích một nhân vật nào của Haruki đến như vậy! Tôi thích nhiều truyện của Haruki nhưng chỉ là thích cốt truyện chung, không khí chung, văn phong và nhân vật thì phải đặt ngay trong bối cảnh đó tôi mới thích. Nhưng bây giờ tôi thích Aomame quá. Thích đến mức tôi không mấy quan tâm đến nội dung của 1Q84 khi đọc nữa.

“Nếu tiếp tục mượn hình ảnh máu để so sánh, mình là một phế vật đã hoàn thành sứ mệnh, không lâu sau sẽ bị thu hồi về tĩnh mạch rồi nhanh chóng bị đào thải ra khỏi cơ thể. Đây là quy tắc của hệ thống cơ thể con người. Không có cách nào thoát khỏi số mệnh ấy. Nhưng thế thì có sao? Aomame nghĩ. Lúc này mình đang ở bên trong Tengo, được bao bọc trong hơi ấm của anh, được nhịp đập trái tim anh dẫn lối, nghe theo logic của anh, qui tắc của anh, có lẽ còn cả những câu chữ anh đang viết ra nữa. Thật tuyệt vời biết bao! Ở bên trong anh, được anh bao bọc như thế này!”

Aomame, 1Q84 tập 2

Những suy nghĩ và hình ảnh về mạch máu trong cơ thể người yêu này làm tôi nhớ đến một người…

Aomame, nàng thật tuyệt vời…

Tôi đã dành cả buổi chiều để suy nghĩ thêm về lí do vì sao tôi thích Aomame nhiều như thế, rốt cuộc tôi chỉ hiểu ra thêm vài lí do nho nhỏ.

Lí do tôi muốn nêu ra ở đây chính là: nghề nghiệp của nàng. Nếu như ở những truyện trước của Haruki, bây giờ khi tôi hình dung lại, các nhân vật nữ làm nghề gì, hầu như tôi không ấn tượng với ai cả ngoại trừ Sumire làm nhà văn trong Người tình Sputnik. Nghĩ lại thì thậm chí Naoko có làm nghề gì đâu, nàng chỉ mới là một sinh viên. Không ngờ, chi tiết về nghề nghiệp lại ảnh hưởng đến sự yêu thích của tôi đến như vậy. Trên thực tế, nghề nghiệp đâu chỉ đơn thuần là công việc người ta làm để chọn kế sinh nhai, nó còn biểu lộ tính cách, hoài bão, lí tưởng của họ. Và Aomame, nàng đã chọn một nghề thật đặc biệt: chuyên gia về việc kích hoạt sự vận động những cơ bắp trong cơ thể người. Cách nàng giết những người đàn ông bằng việc đâm vào một điểm đặc biệt đằng sau gáy họ bằng chiếc dùi đục đá thật hay. Hóa ra là như thế nữa. Bên cạnh tình yêu nàng dành cho Tengo, tôi cũng thích cả cách nàng suy nghĩ về giới tính và những tình cảm nàng dành cho các bạn nữ. Thật là một người con gái đặc biệt. Dù biết tất cả chỉ là ảo ảnh, nhưng Aomame đã khiến tôi mỉm cười và lo lắng cho nàng. Như vậy thôi cũng đã xua tan một chút nỗi buồn của tôi trong cuộc sống. Như vậy thôi tinh thần tôi cũng đã bình ổn hơn một chút.

Đó là về phần cảm xúc.

Bây giờ tôi sẽ nói đến 1Q84 ở góc độ cảm nhận mang hướng lí tính hơn.

Quả thực là 1Q84 không có quá nhiều cái mới, khác biệt so với những truyện trước đây của Haruki. Phong cách kể chuyện đan xen các chương giữa hai nhân vật, hai tuyến truyện song song rồi đến một điểm nào đó giao nhau đã có ở Kafka bên bờ biển. Hơn nữa, nhiều chi tiết trong 1Q84 lại giống hệt những chi tiết trong các truyện trước đây của ông. Chẳng hạn như cái chết của Ayumi phần nào giống cái chết của May trong Nhảy, nhảy, nhảy. Dù vậy, Haruki giúp tôi nhận ra, tình tiết có thể lặp lại giống nhau nhưng nếu đặt nó trong một bối cảnh khác, một không khí khác thì nó sẽ mang một ý nghĩa khác. Tôi nói nó lặp lại không phải để chê Haruki lặp lại vì sự lặp lại đó không hề khiến tôi cảm thấy nhàm chán. Có lẽ do tôi thích Aomame quá rồi, thích không khí của 1Q84 quá rồi nên gặp đoạn nào lặp lại tôi chỉ đơn thuần là đọc nhanh để tiếp tục theo mạch câu chuyện.

1Q84 là một tiểu thuyết tập hợp nhiều thể loại. Có thể thấy rất nhiều chủ đề trong tác phẩm này từ hiện thực huyền ảo, trinh thám, hành động, chính trị, tình yêu, đấu tranh cho nữ quyền, đồng tính… Một món ăn nhiều khẩu vị nhưng cái hay của Haruki là làm cho nó thống nhất với nhau. Độc giả biết nó nhiều khẩu vị nhưng không thể trách ông, không thể nói nó là cái nồi lẩu thập cẩm. Thường khi người ta cố nhét quá nhiều thứ vào trong một thứ sẽ dễ dẫn đến tình trạng đó. Nhưng Haruki thì khác. Khi người ta nói truyện của ông có quá nhiều thể loại pha lẫn, đối với 1Q84, đó không phải là một lời chê mà là một lời khen. Nhiều người nói 1Q84 chẳng có gì mới, Haruki khi viết dài quá thì loãng, 1Q84 thị trường quá v.v… Xét cho cùng, cũng không phải là sai hay không có căn cứ. Bản thân tôi cũng nhiều lần vì những lời nhận xét đó mà trước đây đã ngần ngại khi quyết định đọc 1Q84 vì tôi sợ phải thất vọng về Haruki! Tôi muốn giữ lại hình ảnh đẹp về ông nên cố gắng không đọc những tác phẩm sau này ông viết nữa. Có lẽ vì khi đọc nhiều quá, khi có thể đoán trước được truyện của ông sẽ đi theo hướng nào rồi, tôi sợ mình sẽ chán không phải vì ông không viết hay nữa mà vì chính bản thân đã quá quen thuộc với thế giới và văn phong đó. Nhưng rồi cuối cùng, tôi đã đọc 1Q84 và sau đó đọc hết những tác phẩm khác của ông đã xuất bản ở Việt Nam.

Và… tôi không hề có cảm giác thất vọng sau khi đọc hai tập 1Q84.

Dù thế, tôi không phủ nhận mình đã có chút hụt hẫng khi đọc truyện. Nhiều đoạn tôi có cảm giác Haruki hơi tham lam kể lể một chút, nhiều đoạn lặp lại, nhiều đoạn có xu hướng thị trường quá v.v… Nhưng rồi bên cạnh đó, vẫn có những đoạn thật sâu, và dưới lớp thị trường đó, vẫn có một điều gì đó chạm vào tôi. Mặc dù tôi từng nghĩ có lẽ nó cũng không sâu lắm đâu. Nhưng thực tế nó đã tác động đáng kể với tôi. Và thứ đó, vẫn khiến tôi xúc động, buộc tôi phải suy nghĩ…

1Q84, tôi nhận thấy Haruki không viết câu văn dài giống như tác phẩm trước đây nữa. Sự ngẫu hứng trong truyện dường như cũng không có. Nếu những truyện trước đây của Haruki được ví giống như những âm điệu ảnh hưởng từ jazz vì đem lại cho người đọc cảm giác ngẫu hứng (dù tôi nghĩ có lẽ khi viết ông cũng tính toán để ra sự ngẫu hứng đó chứ không phải chỉ đơn thuần viết ngẫu hứng mà được), nhưng ở 1Q84, tôi không cảm nhận được sự ngẫu hứng, phóng khoáng đó nữa. Tất cả là một sự tính toán tỉ mỉ, chỉn chu. Đôi khi nó cho tôi cảm giác khó thở trong thế giới ấy. Thật là lạ. Thế giới 1Q84 mà Haruki xây dựng đôi lúc cho tôi cảm giác nó thật rộng lớn, nhưng đôi lúc tôi lại thấy nó nhỏ bé chật hẹp cho dù ông có xây dựng nhiều nhân vật đến đâu, bàn về nhiều vấn đề đến đâu. Tập 1 tôi thấy nó rộng lớn. Đến tập 2 tôi thấy nó thật nhỏ bé, từng nhân vật chen chúc nhau sống trong bầu không khí quánh đặc sự cô đơn và kì dị đó. Nói thế cũng không phải là trách móc ông. Ý tôi muốn nhấn mạnh ở đây là cảm giác thay đổi về thế giới. Haruki đã làm được điều đó. Thường khi đọc tiểu thuyết, cảm giác của tôi về thế giới được miêu tả rất nhất quán. Nếu ngay từ đầu, tôi cảm thấy nó là một thế giới rộng lớn, nó sẽ là một thế giới rộng lớn cho đến khi kết thúc. Nếu tôi cảm thấy nó nhỏ bé, nó sẽ luôn nhỏ bé. Nhưng, 1Q84 lúc thì rộng, lúc thì nhỏ. Giống như tôi vừa đọc vừa cảm nhận được sự thay đổi tỉ lệ của nó, như thể tôi đang xem một bức hình trên máy tính cứ bấm zoom in, zoom out liên tục. Khi zoom in ta thấy thế giới nhỏ và chi tiết cận cảnh từng điểm mà ta muốn thấy. Khi zoom out, ta thấy được toàn cảnh và nhiều thứ, cả những thứ ta không chú tâm lắm cũng sẽ trong tầm nhìn của ta. 1Q84 cũng giống như động tác đó. Nó cho ta trải nghiệm cả cảm giác khi đặt mình trong một thế giới chung rộng lớn đang thay đổi lẫn cảm giác mình chỉ là một cá thể nhỏ bé trong đó.

tumblr_n0b1ohR7M71qjd1kgo1_1280

1Q84, Haruki chủ yếu dùng những câu văn ngắn gọn, mạnh mẽ, dứt khoát. Lối kể chuyện của 1Q84 theo cách trực tiếp, không đi vòng vo ẩn dụ nhiều như những truyện trước dù vẫn theo lối quen thuộc của ông là đưa ra nhiều câu hỏi và rất ít câu trả lời cho một vấn đề. Nhưng tôi vẫn phải nói, ở 1Q84, Haruki dường như đã đi một con đường trực tiếp đến vấn đề cốt lõi mà ông muốn nói, từng bước từng bước một, không còn là gián tiếp như những tác phẩm trước đây. Chính vì thế, 1Q84 dễ cho người khác cảm giác thị trường. Ở những tác phẩm trước, Haruki luôn tạo nhiều khoảng trống, nói ít hơn những điều cần nói; còn 1Q84, tuy vẫn có những khoảng trống nhưng ít hơn, nhiều đoạn cảm giác như ông nói thẳng, nói ra hết vấn đề cần nói, không úp mở nữa, vấn đề nào đã qua là qua. Vậy nên ngay ở những trường đoạn mang không khí mơ hồ, 1Q84 cũng không tạo được nhiều sự luyến tiếc vì nhân vật dường như đã gần giải mã được ý nghĩa của vấn đề sau đó. Như cái chết của Ayumi chẳng hạn. Ban đầu tôi ngạc nhiên không hiểu vì sao cô ấy phải chết. Sau đó, tôi không phải đợi lâu khi Aomame gặp Lãnh Tụ và ông đã giải thích cho Aomame. Bản thân Aomame cũng cảm nhận được điều đó. Nguyên nhân là do bản chất Ayumi đã luôn tự sinh ra khao khát muốn hủy diệt mình trong vô thức nên lúc nào cô cũng tự dẫn mình đi đến chỗ nguy hiểm. Đó cũng là một ý nghĩa sâu xa. Nhưng giá như, Haruki đừng giải thích nhiều quá có lẽ sẽ hay hơn. Lạ lùng là một người kiệm lời như Haruki, trước đây thường rất ít giải thích những biến cố khó hiểu mà các nhân vật trải qua thì giờ đây ở 1Q84, ông lại giải thích quá nhiều. Chính vì thế, cảm giác loãng là điều tất yếu.

Đọc 1Q84, tôi nhớ quay quắt đến điên cuồng những câu văn dài ngày xưa của Haruki từng làm mình mê mẩn. Đặc biệt là những câu văn dài trong Rừng Na Uy. Ở 1Q84, tất cả đều gọn ghẽ như một con dao sắc, hiệu quả. Tôi không còn tìm thấy vẻ đẹp, sự tinh tế vì những hình ảnh so sánh lạ, thú vị, cảm giác phóng khoáng khi đọc những câu văn dài như các tác phẩm trước nữa. Nhưng lại một lần nữa, nói thế không phải để chê Haruki mà tôi chỉ nói như một sự nhìn nhận khách quan. Vì thật sự, tôi hiểu tại sao Haruki lại chọn cách viết như thế. Đó là do không khí của 1Q84 cần phải như thế. Đơn giản thôi. Tuy nhân vật chính là Tengo và Aomame nhưng thật ra cả câu chuyện mấu chốt bắt đầu từ Nhộng không khí của Fukaeri. Và Fukaeri lại là một người mắc chứng khó đọc, lời nói giản lược nên cách cô kể chuyện cũng ngắn gọn. Toàn bộ 1Q84 thực ra giống như một bản phóng lớn thế giới của Nhộng không khí. Vì thế, câu văn ngắn gọn như vậy lại rất phù hợp. Đương nhiên 1Q84 cũng có những câu văn dài xen kẽ nhưng nếu so với các tác phẩm khác, có thể thấy câu văn dài trong 1Q84 ít hơn. Sự thay đổi này của Haruki làm tôi nhận ra, khi con người ta càng có tuổi thì càng thích sự giản đơn và hiệu quả.

Hết.

Kodaki


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Cafe sáng