Trà chiều

Vai trò của dịch giả trong sự thành công của văn hào Mạc Ngôn

Published

on

Trước khi nhận giải Nobel văn chương 2012, Mạc Ngôn không phải là cái tên quen thuộc với độc giả Anh ngữ. Quyển Red Sorghum (Cao lương đỏ) của Mạc Ngôn xuất hiện trên thị trường sách Hoa Kỳ năm 1994, The Garlic Ballads (Cây tỏi nổi giận) năm 1995, The Republic of Wine (Tửu quốc) năm 2000, và những quyển tiếp theo không gây được tiếng vang nào. Rải rác trên báo chí Hoa Kỳ và Anh Quốc – The New York TimesThe Guardian – là vài bài điểm sách ngắn ngủi sơ sài, thường gồm chung với nhiều tác giả khác. Năm 2005, báo The New Yorker có bài phê bình của John Updike về quyển Big Breasts and Wide Hips (Báu vật của đời) phân tích cặn kẽ hơn nhưng chê nhiều hơn khen, chê cả tác giả lẫn dịch giả.

Sau khi Mạc Ngôn được giải Nobel, nhiều cuộc tranh luận sôi nổi xảy ra. Vài nhà văn nổi tiếng trên quốc tế, như Herta Muller và Salman Rushdie, phản đối mạnh mẽ vì họ cho rằng Mạc Ngôn ủng hộ chính sách ngăn cấm tự do ngôn luận và giữ im lặng khi giới văn nghệ sĩ chống chế độ độc tài bị đàn áp. Giới học thuật có Perry Link, Tiến sĩ chuyên ngành văn học văn hóa Á châu của Đại học Princeton, cho rằng Mạc Ngôn không xứng đáng được trao giải Nobel văn chương vì suốt cuộc đời Mạc Ngôn chỉ tự bảo vệ quyền lợi cá nhân bằng cách tuân theo chủ trương chính trị của nhà cầm quyền. Ngoài Perry Link còn có Jeffrey Yang và Larry Siems trong một bài báo đăng trên New York Times đã chê trách Mạc Ngôn không quan tâm bênh vực những nhà văn Trung Quốc cùng thời bị khủng bố đe dọa vì dám đòi hỏi nhân quyền chống đối chế độ. Một trong những điều người ta chế nhạo Mạc Ngôn là ông đã tham gia phong trào chép tay một văn bản của Mao Trạch Đông và được thưởng công với giá tiền chừng 150 Mỹ kim.

Bênh vực Mạc Ngôn có Pankaj Mishra của tờ báo Guardian bảo rằng Rushdie nên dè dặt hơn trong việc chê trách thái độ chính trị của Mạc Ngôn. Ông còn mang cả John Updike ra nhắc cho mọi người nhớ là Updike đã từng tích cực ủng hộ chính phủ Hoa Kỳ trong việc ném bom Hà Nội. Bênh vực Mạc Ngôn hùng hồn nhất là Howard Goldblatt, dịch giả của Mạc Ngôn. Trong khi mọi người kết tội Mạc Ngôn giữ im lặng để yên thân, Goldblatt lại nhìn thấy Mạc Ngôn ngấm ngầm chỉ trích chính quyền trong nội dung những quyển truyện ông ta đã viết. Thẳng thừng, Goldblatt đáp lại lời phê bình của Jeffrey Yang: “Nói như vậy là nông cạn, thiếu suy nghĩ, và sai lầm”“ông không thể làm như thế nếu ông muốn tiếp tục sống và viết ở Trung Quốc.”1

Sau khi Mạc Ngôn được trao giải dĩ nhiên có rất nhiều lời khen ngợi. Người ta còn gán cho ông là một nhà nữ quyền, nhưng có lẽ ông nghĩ chỉ có phụ nữ mới được làm nhà nữ quyền nên ông nhấn mạnh tuy những nhân vật của tôi là phụ nữ có cá tính mạnh nhưng tôi là đàn ông. Peter Englund, Thư ký Viện Hàn Lâm Thụy Điển, chủ giải Nobel văn học, khi được hỏi nghĩ sao về tác phẩm của Mạc Ngôn, ông ta đã khen ngợi quyển Cây tỏi nổi giận. Englund nói: “quyển này nói về tính chất cao quý của những người dân bình thường, họ đã cố gắng hết sức mình để tồn tại, cố gắng vượt bậc để gìn giữ phẩm giá của họ. Đôi khi họ thắng cuộc nhưng phần lớn là họ thua cuộc.” Ông tuyên bố như thế nhưng tôi e rằng ông ta chỉ đọc một đoạn ngắn được người nào đó soạn sẵn. Ngay cả hai nhà văn lớn Muller và Rushdie tôi cũng nghi ngờ quý vị thật sự có thì giờ để đọc những quyển truyện, mỗi quyển nặng mấy kí lô, của Mạc Ngôn. Nói càng như thế là vì thời giờ có hạn, những người quá bận bịu với chuyện viết, hay thường xuyên xuất hiện trước công chúng, lấy đâu thì giờ để đọc. Thế ban giám khảo có thì giờ để đọc tất cả những quyển sách được đề cử không? May ra thì họ đọc những bài tóm tắt mà những người đề cử soạn sẵn. Chuyện đọc, hay không đọc, những nhà văn được chọn trao giải thưởng khó có thể kiểm chứng được. Tuy nhiên có một người tuyên bố đã đọc từng lời từng chữ của Mạc Ngôn, đó là Howard Goldblatt. “Không ai đọc một văn bản kỹ cho bằng dịch giả, người phải xem xét nghĩa của từng chữ và cách nó liên hệ với những chữ khác. Tôi đã từng dịch truyện dài cũng như truyện ngắn của cả chục tác giả Hoa Lục và Đài Loan, và trong khi có nhiều nhà văn xứng đáng được đề cử cho giải Newman, Mạc Ngôn nổi bật là nhà văn thành công nhất cũng như sáng tạo nhất trong số những nhà văn cùng thời với ông.2

Không chỉ đọc và dịch tác phẩm của Mạc Ngôn, Howard Goldblatt còn là người đã đề cử, và nhờ bài đề cử này, Mạc Ngôn được trao giải Newman năm 2009. Giải Newman là giải văn chương đầu tiên của Hoa Kỳ được thành lập, dành riêng cho tác phẩm viết bằng Hoa ngữ. Giải Newman, tôi phỏng đoán, được dùng để mở đường đưa Mạc Ngôn đến với giải Nobel 2012. Có thể nói Howard Goldblatt là một trong những cánh tay đắc lực nhất đưa Mạc Ngôn lên đỉnh vinh quang.

Trong bài đề cử cho giải Newman năm 2009 có tựa đề “Mo Yan’s Novels Are Wearing Me Out” để giúp hội đồng giám khảo Hoa Kỳ có thể hình dung văn phong và cách xây dựng nhân vật của Mạc Ngôn, Goldblatt so sánh Mạc Ngôn với Rabelais, Faulkner và Márquez. Truyện của Mạc Ngôn có điểm gì tương tự với Rabelais? Theo Goldblatt, Mạc Ngôn đã chế nhạo xã hội Trung Quốc về tật mê thức ăn ngon, như thịt người và ham uống rượu. Mạc Ngôn còn được so sánh với khuynh hướng hiện thực huyền ảo cũng như Faulkner và Marquez. Sự thật thì Faulkner và Marquez đã ảnh hưởng đến Mạc Ngôn như thế nào?

Theo Shelley Chan3, trong phần giới thiệu có tiêu đề Cơn đói và cô đơn, trong bài diễn văn Mạc Ngôn đọc ở Đại học Berkley năm 2000 cho biết ông đã bắt chước Faulkner “chế” ra một địa danh là Northeast Gaomi Township. Địa danh này được dùng làm bối cảnh cho rất nhiều quyển truyện của ông, cũng như Faulkner đã tưởng tượng ra Yoknapatawpha County.  Còn Márquez? Márquez cũng có một địa danh hư cấu tên là Macondo Town trong quyển Trăm năm cô đơn.

Goldblatt nêu ra thêm một điểm đồng dạng giữa Mạc Ngôn và Márquez là cả hai đều viết truyện ăn thịt người. Trong bài phê bình “The Saturnicon Forbidden Food of Mo Yan” Goldblatt trích dẫn một đoạn ngắn trong Tửu quốc tả cảnh ăn một cái gì đó giống như một chú bé, và trong phần chú thích ông trích một đoạn ngắn trong quyển The Autumn of the Patriarch của Márquez tả cảnh ăn thịt một người đàn ông đã được nướng đặt trên mâm.

Goldblatt không phải là người đầu tiên đã so sánh Mạc Ngôn với Faulkner. Theo Shelley Chan, năm 2006, một học giả ở Hoa Lục tên Zhu Binzhong, xuất bản quyển Một cuộc đối thoại vượt thời gian và không gian: Nghiên cứu so sánh Faulkner và Mạc Ngôn. Zhu nghiên cứu, so sánh và đưa ra nhiều luận điểm quý giá nhưng cuối cùng kết luận là Mạc Ngôn thua kém Faulkner ở nhiều khía cạnh4. Bà Chan cũng nói thêm kết luận này tuy thế vẫn còn chờ được giới học giả thảo luận.

Năm 2000, M. Thomas Inge, một học giả chuyên nghiên cứu về Faulkner, trong bài tiểu luận “Mo Yan Through Western Eyes” có nêu thêm vài chi tiết nói về ảnh hưởng của Márquez và Faulkner trong quyển Cao lương đỏ. Inge cho rằng ở phần 3 của quyển Cao lương đỏ có nói về những con chó rừng kiếm sống thông minh như loài người sau chiến tranh, có thể được xem là ảnh hưởng bởi Márquez. Trong phần 5, nhân vật Passion, người bà thứ hai của người kể truyện, bị hiếp rồi bị giết, đứa bé gái bà đang mang thai bị đâm chết bằng dao găm. Linh hồn bà bị một con chồn tinh chế ngự. Inge viết: “Bất cứ nhân vật nào trong quyển truyện dài tình tiết đa dạng này đứng lên và để lại một cái bóng, như Faulkner đã có lần nói rằng đó là một trong những mục đích chính của ông trong vai trò nhà văn.

Trong bài phỏng vấn đăng trên Granta ngày 11 tháng 10 năm 2012 của John Freeman, Mạc Ngôn nói ông bắt đầu tiếp xúc với tác phẩm của Faulkner và Márquez vào năm 1984 và nhận ra cuộc đời của ông có nhiều điểm tương tự với cuộc đời của hai văn hào Nobel này. Nhưng qua những chi tiết trong truyện, chúng ta có thể nhận thấy rằng có một vài chi tiết tương đồng giữa truyện của Mạc Ngôn với truyện của Faulkner hay truyện của Márquez, nhưng ảnh hưởng thì không có. Có thể, khi tự nhận mình đã học hỏi ở hai đại văn hào nói trên, Mạc Ngôn không những chỉ tìm một vị trí thuận lợi để đứng vào hàng văn học quốc tế, ông khôn khéo tự đặt mình ngang tầm với hai văn hào của giải Nobel.

Giới nghiên cứu và phê bình văn học Á châu chú ý đến Mạc Ngôn khá sớm dù không nồng nhiệt lắm. Năm 1993, Kam Louie lúc ấy đang là Giáo sư của trường Đại học Queensland, Australia, trong bài phê bình quyển Explosions and Other Stories của Mạc Ngôn (bản dịch của Duncan Hewitt và Janice Wickeri) đã nhận xét: “Giết trẻ em và thở hổn hển là chủ đề chính của quyển Explosions, nó nói về một anh chồng bắt buộc vợ phải đi phá thai. Phần lớn câu truyện xảy ra ở bệnh viện, miêu tả một sự sinh sản, một cái chết, và một cuộc săn chồn ở bên ngoài cùng lúc với một cuộc phá thai, có nhiều thứ làm cho chúng ta nhột nhạt và chóng mặt buồn nôn. Mạc Ngôn bản thân là một người lính, dường như rất mê thích chuyện giết chóc cũng như tình dục.” Để kết thúc bài phê bình, ông Louie nói cảm tưởng của ông: “Riêng tôi, bao tử tôi không mấy cứng cáp để có thể nói tôi thích đọc những chuyện như thế này, nhưng những truyện này tương phản phong trào tiểu thuyết của Trung Quốc trong những năm 80. Quyển này là một đóng góp quý giá vào sự phát triển sách dịch văn học đương đại của Trung Quốc.”5

Năm 2005 trong bài phê bình có tên Tre đắng6, John Updike cũng có cái nhìn tương tự Louie, nhưng đến năm 2009 thì Howard Goldblatt khen ngợi Mạc Ngôn không tiếc lời: “Ông ấy là một người quán triệt nhiều loại văn phong cũng như hình thức, từ chuyện cổ tích cho đến chủ nghĩa huyền thoại hiện thực, đặc trưng hiện thực, chủ nghĩa (hậu) hiện đại, và còn nhiều thứ khác. Hình ảnh trong văn của ông rất sống động, truyện của ông rất thu hút, và nhân vật của ông rất quyến rũ. Ông ta, một cách đơn giản, là một người có một không hai.

Howard Goldblatt hầu như là người độc quyền dịch văn học tiếng Trung sang tiếng Anh. Ngoài việc chuyển ngữ tác phẩm của Mạc Ngôn, ông còn dịch hơn năm mươi tác phẩm, biên tập nhiều tuyển tập thơ văn Hoa ngữ, chiếm hầu như tất cả giải thưởng về dịch từ tiếng Hoa sang tiếng Anh. Trong bốn năm đầu tiên của giải văn học Man Asian, ba trong bốn nhà văn thắng giải là do Goldblatt dịch. Không chỉ dịch văn Mạc Ngôn, Goldblatt khéo léo giới thiệu văn của Mạc Ngôn bằng những từ ngữ quen thuộc với độc giả Hoa Kỳ. “Nếu bạn thích Poe bạn sẽ thích quyển Đàn hương hình sắp in, nếu bạn là người thích truyện Rabelais bạn sẽ thích Tửu quốc, nếu bạn là người thích truyện cổ tích bạn sẽ thích Mệt mỏi sống chết.” Goldblatt cũng là người đã đề cử Mạc Ngôn với hội đồng giám khảo giải Nobel.

Có lẽ không có gì quá đáng nếu nói rằng không có Goldblatt thì không chắc Mạc Ngôn đã được trao giải Newman và Nobel. Goldblatt am hiểu quan điểm của người Tây phương, giải thưởng Nobel văn học thường trao cho những nhà văn có khuynh hướng đấu tranh cho nhân quyền, chống áp bức độc tài, bảo vệ quyền tự do ngôn luận. Goldblatt khéo léo “đánh bóng” Mạc Ngôn như là một người tranh đấu ngầm, như một diễn viên đóng vai hài trong một đoàn xiếc và từ đó nhìn ngắm nhận xét ông chủ đoàn xiếc từ cái nhìn của người trong cuộc. Khi đề cử giải Newman 2009, Howard Goldblatt nhấn mạnh quyển Cây tỏi nổi giận chê trách chính quyền địa phương tham nhũng hà khắc với nông dân. Khi xảy ra cuộc biểu tình ở Thiên An Môn người ta phải cất giấu quyển sách này để trách khích động. Và Goldblatt đã thành công. Thêm vào đó, nếu một học giả hay phê bình gia Á châu nhiệt liệt khen ngợi và đề cử Mạc Ngôn có lẽ sẽ không được hội đồng chấm giải Newman và Nobel văn học tin tưởng bằng lời giới thiệu của Howard Goldblatt, một dịch giả Hoa Kỳ và cũng là một học giả kỳ cựu về văn chương Hoa ngữ. Không ai dám, cũng không có thì giờ, kiểm soát việc ông dịch như thế nào; vả lại những nghi ngờ về sự am hiểu văn hóa Trung Quốc, nếu có, đều bị xua đi khi nghĩ rằng Goldblatt có một sự hỗ trợ đắc lực bên cạnh là bà vợ người Đài Loan, Tiến sĩ Li-chun Lin chuyên ngành văn chương Á châu, ông mới cưới sau khi ông về hưu năm 2000.

Mạc Ngôn dùng phương ngữ, ẩn dụ, cổ tích, huyền thoại, chơi chữ và những chi tiết văn hóa mà khi dịch sang một ngôn ngữ khác sẽ bị thất thoát. Nhận biết điều này, Mạc Ngôn viết một số truyện ngắn và truyện vừa, thay đổi cách viết để Goldblatt có thể dịch văn bản dễ dàng. Goldblatt tự tay chọn một số truyện xuất bản với tựa đề Shifu, you’ll do anything for a laugh. Trong tuyển tập truyện ngắn này, độc giả Anh ngữ sẽ thấy truyện của Mạc Ngôn không tục tằn, phóng túng, và bạo động như thường thấy trong những quyển tiểu thuyết khác của Mạc Ngôn. M. Thomas Inge khen ngợi tài dịch thuật của Goldblatt đọc hay như là được viết bằng Anh ngữ. Tuy nhiên Updike chê cách diễn tả bằng Anh ngữ của Goldblatt có nhiều chỗ sáo mòn.

Dấu vết Goldblatt xoa dịu sự sống sượng trong văn của Mạc Ngôn được Ling Tun Ngai ghi nhận. Trong Cao lương đỏ, Mạc Ngôn viết và Ngai dịch: “Had Grandma become a writer, she would have stomped the shit out of many men of letters. Nôm na, nếu bà ngoại/nội là nhà văn thì bà sẽ dẫm cho đám văn sĩ vãi cứt ra. Còn Goldblatt dịch văn vẻ hơn, “Nếu bà nội/ngoại là nhà văn bà nội/ngoại sẽ làm cho văn sĩ cùng thời với bà hổ thẹn.” (If she could have become a writer, she would have put many of her literary peers to shame.)

Howard Goldblatt không chối cãi việc ông cố ý làm giảm mức độ sống sượng của văn bản chính. Khi có người đặt vấn đề dịch là phản bội, Goldblatt bảo rằng dùng chữ phản bội thì không đúng, ông nói: “Khi ông dịch một văn bản, ông lấy cái ngôn ngữ của văn bản này biến nó thành ra ngôn ngữ của ông. Tuy không phải là một sự hiếp dâm nhưng ông lấy nó và hành hạ nó. Đó là cách duy nhất mà ông có thể chuẩn bị nó cho người đọc. Dịch giả luôn luôn phải xin lỗi. Suốt cuộc đời chúng tôi phải nói ‘Tôi xin lỗi’.

Người ta có thể chê văn của Mạc Ngôn tục tĩu, nhớp nhúa, thô bạo nhưng không thể phủ nhận ông có sức tưởng tượng dồi dào và máu khôi hài đen táo bạo. Nhưng Dư Hoa cũng khôi hài và tục tĩu chẳng kém Mạc Ngôn. Còn mức sáng tạo thì Haruki Murakami cũng sung mãn chẳng kém. Truyện của Murakami được giới Tây phương đón nhận nồng ấm hơn truyện của Mạc Ngôn có lẽ vì nó “yuppie” hơn. Văn hào Nobel Kenzaburo Oe lớn tiếng ủng hộ Mạc Ngôn bảo rằng Mạc Ngôn xứng đáng được giải Nobel hơn là Murakami. Có lẽ Oe hài lòng cách Mạc Ngôn đề cao sự anh dũng của người Nhật trong cuộc chiến Trung – Nhật mà Mạc Ngôn đã dùng làm bối cảnh cho Cao lương đỏ. Tập truyện ngắn Shifu, you’ll do anything for a laugh do chính tay Howard Goldblatt tuyển chọn và “massage” cho thích hợp với khuynh hướng đọc của người Tây phương có nhiều truyện hay. Truyện ngắn Iron Child Soaring là điển hình của khuynh hướng hiện thực huyền ảo của Mạc Ngôn. Trong Iron Child, những đứa trẻ bị bỏ rơi vì đói nên ăn than và sắt rỉ rồi biến thành những con quỷ nhỏ chuyên ăn trộm đồ dùng bằng sắt để ăn. Trong Soaring, một cô gái đẹp bị bắt ép lấy một anh chồng mặt rỗ, để bù cho người anh bị mù của cô được lấy cô chị rất đẹp của anh chồng mặt rỗ. Vừa cưới xong, cô gái bỏ trốn vào ruộng cao lương đỏ. Khi bị bao vây đến hết đường chạy trốn, cô liền bay lên ngọn cây. Tác giả ngừng ở chỗ đó nên không cần phải giải thích hay tìm cách kết thúc hiện thực hợp lý. Tôi thích cách viết truyện có tính chất siêu thực của Murakami hơn. Murakami ít khi đưa truyện đến chỗ phi lý. Những sự kiện độc giả thấy phi lý thường được giải thích bằng phản ứng tâm lý hay là sự khủng hoảng tinh thần của nhân vật.

Goldblatt nói đùa rằng “dịch giả là những nhà văn bị tức bực.” Nhiều người cho rằng dịch giả chỉ là một bóng mờ đứng sau lưng tác giả. Tôi nghĩ có một kinh nghiệm mà giới dịch thuật có thể dùng để đưa nhà văn Việt Nam đến với giải Nobel: chọn một dịch giả biết nấu “Chinese food” theo khẩu vị người Mỹ.

Hết.

Nguyễn Thị Hải Hà

Ảnh đầu bài: Ulf Andersen

Chú thích:

  1. Orbach, Micheal, Mo Yan’s Jewish Interpreter. “It was shallow, knee-jerk, and wrong-headed. . . . I like Yang, but his expectations were that Mo Yan should come out and tell the officials in China that they should take a flying fuck. You don’t do that if you want to continue living and writitng in China. . . .” Link.
  2. Howard Goldblatt, Mo Yan’s Novels Are Wearing Me Out Nominating Statement for the 2009 Newman  Prize, World Literature Today, July – August 2009, p. 29
  3. Shelly W. Chan, A Subversive Voice in China – The Fictional World of Mo Yan, Cambria Press, New York, 2011
  4. Shelley Chan, chú thích số 6 của chương Introduction, Hunger and Loneliness.
  5. Kam Louie, The Australian Journal of Chinese Affair, No. 29 (Jan., 1993), pp. 195-196 published by: The University of Chicago Press on behalf of the College of Asia and the Pacific, The Australian National University.
  6. John Updike, Bitter Bamboo, The New Yorker. Link.

*

Về các tác giả văn học châu Á



Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Cafe sáng