Sáng tác

Truyện ngắn: Vịnh Hanalei (Murakami Haruki)

Sachi đã mất đứa con trai 19 tuổi của cô khi thằng bé bị một con cá mập lớn tấn công trong lúc đang lướt sóng ở vịnh Hanalei. Nói đúng hơn, con cá mập không phải tác nhân chính đã giết chết nó.

Published

on

1

Sachi đã mất đứa con trai 19 tuổi của cô khi thằng bé bị một con cá mập lớn tấn công trong lúc đang lướt sóng ở vịnh Hanalei. Nói đúng hơn, con cá mập không phải tác nhân chính đã giết chết nó. Vì đơn độc, lại cách xa bờ, nên khi bị con vật rỉa vào cẳng chân phải, thằng bé đã bị kinh động rồi chết chìm. Do đó chết đuối đã trở thành nguyên nhân chính thức dẫn đến tử vong. Bọn cá mập thực chất chỉ cắn xé rách đôi tấm ván lướt của thằng bé là cùng. Cá mập không thích thịt người. Thường thì chúng chỉ cắn nhát đầu tiên rồi lại thất vọng bỏ đi. Đó là lý do trong rất nhiều trường hợp, có những người chỉ mất một cánh tay hoặc một chân nhưng vẫn sống sót, miễn là anh ta không bị kinh hãi. Tuy nhiên con trai của Sachi phải chịu đựng một cơn trụy tim, còn nuốt vào một lượng lớn nước biển, và chết chìm.

Lúc nhận thông báo từ tổng lãnh sự quán Nhật Bản ở Honolulu, Sachi đã đổ vật xuống sàn vì sốc nặng. Đầu cô trống hoác và không còn suy nghĩ được bất cứ chuyện gì khác. Tất cả những gì cô làm được là ngồi chết trân nhìn trừng trừng vào một điểm trên tường. Bao lâu đã trôi qua rồi, cô cũng không hề biết nữa. Nhưng rồi cuối cùng cô cũng cố lấy lại cảm xúc của mình, đủ để tìm số điện thoại của một hãng hàng không và đặt ngay chuyến bay đến Hawaii. Các nhân viên ở tổng lãnh sự đã giục cô đi càng sớm càng tốt để đến xác minh nạn nhân. Vẫn còn vài cơ hội để biết đâu đó không phải là con trai cô.

Do đó là kỳ nghỉ lễ, nên tất cả ghế ngồi đã được đặt kín hết cho ngày hôm ấy và cả ngày hôm sau nữa. Mọi hãng hàng không cô gọi đến đều thông báo với cô điều tương tự, nhưng khi cô giải thích hoàn cảnh mình, nhân viên phụ trách đăng ký liền nói: “Vậy chỉ cần đến phi trường càng sớm càng tốt, chúng tôi sẽ linh động tìm cho bà một chỗ ngồi.” Cô liền vội xếp vài thứ vào một cái túi nhỏ và đi ra sân bay Narita, ở đó người trưởng ca đã đưa cho cô một vé hạng thương gia. “Đây là tất cả những gì chúng tôi còn vào hôm nay, nhưng mà chúng tôi chỉ tính chị theo giá của hạng phổ thông thôi” bà nói. “Điều này quá khủng khiếp đối với chị. Xin chị hãy cố gắng chịu đựng nhé.” Sachi cảm ơn bà vì sự giúp đỡ.

Khi đặt chân đến phi trường Honolulu, Sachi nhận ra mình đã rất thất vọng vì trót quên thông báo cho lãnh sự quán Nhật Bản thời gian đến. Một thành viên của đội ngũ nhân viên lãnh sự quán được phái đi theo cô đến Kauai. Cô đành quyết định tiếp tục đến Kauai một mình còn hơn là phải đối phó với những biến chứng của việc sắp xếp muộn. Sachi thừa nhận rằng mọi thứ có khi đã xong xuôi cả một khi cô đã có mặt ở đó rồi. Vẫn còn là trước buổi trưa khi chuyến bay thứ hai đưa cô đến phi trường Lihue ở Kauai. Cô thuê một chiếc xe hơi tại quầy Avis và đi thẳng đến đồn cảnh sát gần đó. Ở đó, Sachi nói với họ rằng cô vừa mới đến từ Tokyo, sau khi nhận được tin báo con trai mình đã bị một con cá mập giết chết ở Vịnh Hanalei. Một sĩ quan cảnh sát già với cặp kính lão đưa cô đến nhà xác, giống hệt như một kho lạnh để bảo quản, và chỉ cho cô cơ thể của con trai mình với một chân bị cắn rách. Tất cả mọi thứ từ ngay trên đầu gối phải đã biến mất hoàn toàn, và chỉ có một khúc xương trắng rùng rợn nhô ra từ gốc. Đây là con trai cô – không còn gì nghi ngờ được nữa. Khuôn mặt thằng bé thực sự không còn dấu hiệu cảm xúc gì ; vẫn trông như thường lệ mỗi khi nó ngủ say. Cô làm sao tin nổi rằng thằng bé đã là người chết rồi. Hẳn đã có ai đó đã sắp xếp cho nó ra được những nét đặc trưng như thế này. Nhìn thằng bé cứ như thể chỉ cần lay mạnh vai nó, thì nó sẽ tỉnh dậy và càm ràm như kiểu nó vẫn thường làm vào mỗi buổi sáng.

Ở một căn phòng khác, Sachi đã ký một văn bản xác nhận rằng thi thể là của con trai cô. Viên cảnh sát hỏi cô về những chuyện cô dự tính làm với thi thể thằng bé. “Tôi không biết,” cô nói. “Mọi người thường làm những gì?” Họ thường hỏa táng và lấy tro về nhà nhiều nhất, ông ta nói với cô. Cô cũng có thể vận chuyển thi thể về Nhật Bản, nhưng điều này đòi hỏi một số thỏa thuận khó khăn và sẽ đắt hơn nhiều. Một khả năng khác là cô sẽ được phép chôn cất con trai mình trên đất Kauai.

“Xin hãy hỏa táng con tôi,” cô nói. “Tôi sẽ mang tro về cùng mình về lại Tokyo.” Sau tất cả, con trai của cô đã chết. Chẳng còn hy vọng gì để đưa nó quay về với cuộc sống. Là một nắm tro tàn hay một bộ xương trắng thì cũng có khác gì nhau? Cô ký văn bản cho phép hỏa táng và được nghe phổ biến về lệ phí.

“Tôi chỉ có thẻ tín dụng của American Express thôi,” cô nói. “Được thôi mà thưa bà,” viên cảnh sát đáp. Mình đang ngồi đây, và thanh toán chi phí hỏa táng cho con trai mình bằng thẻ American Express, Sachi nghĩ. Cảm giác quá vô thực với cô, vô thực như việc con trai cô đã bị giết bởi một con cá mập. Lễ hỏa táng sẽ diễn ra vào sáng hôm sau, cảnh sát nói với cô.

 “Tiếng Anh của bà rất tốt, thưa bà,” viên cảnh sát vừa nói vừa đặt các tài liệu theo thứ tự. Ông là một người Mỹ gốc Nhật tên là Sakata.

 “Hồi còn trẻ tôi có sống ở Hoa Kỳ một thời gian,” Sachi nói.

 “Tôi không có gì thắc mắc nữa,” viên cảnh sát đáp. Sau đó ông trao lại cho Sachi những món đồ thuộc về con trai cô: Quần áo, hộ chiếu, vé khứ hồi, ví tiền, máy nghe Walkman, tạp chí, kính mát, dao cạo râu. Tất cả đều được đựng vừa vặn trong một chiếc túi nhỏ hiệu Boston. Sachi phải ký một tờ giấy biên nhận liệt kê danh sách số tài sản ít ỏi này.

“Bà còn cháu nào nữa không?” Viên cảnh sát hỏi.

“Không, thằng bé là con trai duy nhất của tôi,” Sachi trả lời.

 “Chồng của bà không thể đi cùng được ư?”

 “Chồng tôi đã chết cách đây lâu lắm rồi.”

Viên cảnh sát buông ra một tiếng thở dài. “Tôi rất tiếc khi phải nghe điều đó, hãy nói cho chúng tôi biết nếu có điều gì chúng tôi làm được cho bà nhé.”

“Tôi sẽ rất biết ơn, nếu ông có thể cho tôi biết làm cách nào để đến nơi con trai tôi gặp nạn và cả chỗ thằng bé đã lưu lại. Tôi đoán là có một hóa đơn khách sạn cần thanh toán. Và tôi cũng cần phải liên lạc với tổng lãnh sự quán Nhật Bản tại Honolulu, tôi có thể mượn điện thoại của ông được không ạ?”

Ông ta đưa cho cô một tấm bản đồ, dùng bút dạ quang đánh dấu nơi con trai cô lướt ván và cả khách sạn nơi cậu bé nghỉ. Đêm đó cô đã ngủ trong một khách sạn nhỏ ở Lihue mà viên cảnh sát gợi ý.

Khi Sachi rời khỏi đồn cảnh sát, viên cảnh sát luống tuổi Sakata đã nói với cô rằng, “Tôi có cảm tính riêng để xin được đề nghị với bà. Thiên nhiên đã nắm giữ cuộc sống của con người ở ngay lúc này và cả về sau nữa. Ở đây, trên đất Kauai này. Bà có thể thấy hòn đảo này tuyệt đẹp nhưng đôi lúc nó cũng ngập tràn sự hoang dã và chết chóc. Chúng tôi đã sống ở đây với những tiềm năng ấy. Tôi rất tiếc vì sự việc của con trai bà. Tôi cũng có thể cảm nhận được nỗi niềm của bà ra sao. Nhưng tôi mong rằng bà sẽ không vì chuyện đó mà ghét hận hòn đảo của chúng tôi. Điều này nghe có vẻ quá ích kỷ với những gì mà bà đã phải trải qua. Nhưng tôi thật sự mong ý đó, từ tận đáy lòng.”

Sachi gật đầu.

“Bà biết không, thưa bà, anh trai tôi đã hy sinh trong chiến tranh năm 1944. Tại Bỉ, gần chỗ biên giới nước Đức, anh ấy là một thành viên của Đội Chiến dịch 442, và hoàn toàn là tình nguyện viên người Mỹ gốc Nhật. Họ ở đó để giải cứu Tiểu đoàn Texas bị bao vây bởi bọn phát xít khi đánh xáp lá cà, và anh bị giết chết. Chẳng còn gì ngoài tấm thẻ bài quân nhân trơ lại với vài mảnh thịt nằm vung vãi trong tuyết cả. Mẹ tôi thương anh ghê lắm, họ nói với tôi rằng bà đã giống như một con người khác sau chuyện đó. Hồi đó tôi mới là một thằng nhóc thò lò mũi xanh, vì vậy tôi chỉ nhận thức được mẹ tôi sau cơn biến động ấy. Cứ nghĩ tới là lòng lại quặn thắt.”

Viên cảnh sát Sakata lắc lắc đầu và tiếp tục:

“Bất kể là bởi “nguyên nhân cao quý” nào có liên quan, người tử trận cũng chỉ xảy ra từ sự hằn học và thù địch của đôi bên. Nhưng thiên nhiên thì không có “bên” nào cả. Tôi biết đây là một trải nghiệm đau đớn cho bà, nhưng xin bà hãy nghĩ về nó như thế này : Con trai của bà đã quay lại vòng luân hồi của Mẹ Thiên Nhiên, nó không liên quan gì đến “nguyên nhân”, tức giận hay là thù hận cả.”

Sachi làm lễ hỏa táng vào ngày hôm sau và mang tro theo cùng mình bằng một chiếc tiểu nhôm nhỏ khi lái xe đến vịnh Hanalei ở bờ phía bắc của hòn đảo. Chuyến đi xuất phát từ đồn cảnh sát Lihue chỉ mất hơn một giờ. Hầu như mọi cây cối trên đảo đã bị biến dạng bởi một trận bão lớn xảy ra vài năm trước đó. Sachi nhận thấy phần còn lại của những căn nhà gỗ cũng đã bị gió thổi tốc mái. Thậm chí nhiều ngọn núi còn có dấu hiệu biến chuyển từ cơn bão. Thiên nhiên thật quá sức khắc nghiệt trong môi trường này.

Cô tiếp tục đi qua thị trấn nhỏ yên tĩnh Hanalei để đến khu lướt sóng, nơi con trai mình bị cá mập tấn công. Dừng chân ở bãi đậu xe gần đó, cô ngồi xuống bờ biển và xem vài người lướt sóng – có thể là năm – đang cưỡi sóng. Những người kia đi xa khỏi bờ biển, cố leo lên trên ván lướt sóng của mình, cho đến khi có một đợt sóng mạnh mẽ đi qua. Rồi họ sẽ cố bắt lấy sóng, đẩy mạnh và ôm chặt lấy ván lướt, cưỡi sát lại gần bờ. Khi lực của sóng phát ra, đám ấy bèn mất thăng bằng và ngã dúi dụi cả xuống. Sau đó lại cố chụp lại những tấm ván của mình và trượt xuống dưới những con sóng khi đang nhảy ra biển, nơi toàn bộ quá trình ấy sẽ bắt đầu lại lần nữa. Sachi khó mà hiểu nổi đám người này. Những người đó không sợ cá mập à? Hay họ đã không nghe đồn rằng con trai cô đã bị một con cá mập giết chết tại nơi này vài ngày trước đó?

Sachi tiếp tục ngồi đó, thong thả nhìn cảnh này hơn một tiếng đồng hồ. Tâm trí cô không thể nắm bắt được bất kỳ điều gì nữa. Quá khứ nặng nề đã đơn thuần biến mất, và tương lai nằm rải rác đâu đó trong nỗi ảm đạm xa xôi. Ngay cả sự căng thẳng bây giờ cũng chẳng liên quan gì tới cô. Cô đang ngồi trong thứ hiện tại biến đổi liên tục, đôi mắt theo dõi cơ học một cách ngẫu nhiên từng đợt sóng vỗ và cả đám người đang lướt sóng. Có một thời điểm, một ý nghĩ chợt lóe lên trong cô: Điều mình cần nhất bây giờ chính là thời gian.

Sau đó, Sachi đến khách sạn nơi con trai cô trú lại, một nơi rất tồi tàn với mảnh vườn bị bỏ hoang. Có hai gã đàn ông da trắng tóc dài đang cởi trần ngồi trên ghế bạt và uống bia. Vài vỏ chai Rolling Rock xanh rỗng nằm lăn lóc giữa đám cỏ dại dưới chân họ. Một gã tóc vàng, gã kia tóc đen. Mặt khác, cả hai có cùng một kiểu khuôn mặt cùng vóc người thể thao với những hình xăm rối rắm chằng chịt hai cánh tay. Mùi bồ đà thoang thoảng trong không khí, trộn lẫn với cả mùi cứt chó. Khi cô lại gần tiếp cận, hai gã liền nhìn cô nghi ngờ.

“Con trai tôi từng lưu lại đây,” cô nói. “Nó đã bị một con cá mập giết chết ba ngày trước.”

 Hai gã đàn ông nhìn nhau. “Ý bà là Takashi?”

 “Phải,” Sachi nói. “Takashi.”

 “Thằng nhóc ấy là một tên rất được,” gã tóc vàng nói. “Vụ ấy tệ quá.”

Gã tóc đen giải thích bằng chất giọng rúm lại: “Buổi sáng đó vịnh tự dưng đầy rùa, bọn cá mập đi săn lũ rùa, nhưng bà biết đấy, bọn ấy thường hay tách khỏi mấy người lướt ván một mình lắm. Tụi này thì cũng chơi được với bọn chúng thôi. Nhưng tôi không chắc nữa, tôi đoán là bữa đó chắc còn nhiều loại cá mập khác…”

Sachi cho biết cô đến đây để trả hóa đơn khách sạn cho Takashi. Bởi cô đồ rằng vẫn còn một khoản tiền chưa được thanh toán cho căn phòng của thằng bé.

Gã tóc vàng cau mày và vung vẩy cái chai trong không khí. “Không đâu bà cô ạ, bà đếch hiểu gì hết, chỉ có mấy đứa ưa lướt sóng là hay ở lại khách sạn này thôi, và chúng làm chó gì có tiền. Bà phải trả trước để ở lại đây, chứ tụi này không có chuyện “số còn lại chưa thanh toán” gì đâu.

Tiếp, gã tóc đen nói, “Bà nói luôn đi, có phải bà muốn lấy lại tấm ván lướt của Takashi không? Mẹ nó, lũ cá mập đã xẻ nó ra làm hai rồi, xé nát bươm. Nó là một tấm Dick Brewer cũ thôi, bọn cớm cũng cóc buồn mang nó đi.Tôi nghĩ nó, ờ hớ, ở đâu đó quanh đây thôi… “

Sachi lắc đầu. Cô không hề muốn nhìn thấy tấm ván.

“Cứt thật,” gã đàn ông tóc vàng lặp lại như thể đó là biểu hiện duy nhất y có thể nghĩ đến.

 “Thằng nhóc thật sự là một tay rất chất,” gã tóc đen nói. “Ngon lành cành đào. Lướt sóng cũng nghệ nữa. Nghĩ thử coi, nó đã ở cạnh tụi này nguyên đêm trước đó, cùng nhậu Tequila. Má…”

Sachi đã lưu lại Hanalei trong một tuần. Cô thuê căn nhà đẹp nhất mà cô có thể tìm ra được và nấu các bữa ăn đơn giản cho mình. Bằng cách này hay cách khác, cô phải lấy lại được bản thân cũ của mình trước khi trở về Nhật Bản. Cô mua một chiếc ghế bọc vinyl, kính râm, nón và kem chống nắng, và ngồi trên bờ biển mỗi ngày để xem người ta lướt sóng. Mưa rơi nhiều lần mỗi ngày – một cách dữ dội, như thể có ai đó đang đổ một bát nước lớn ra khỏi vòm trời. Thời tiết mùa thu ở bờ phía bắc của đảo Kauai không ổn định. Khi cơn mưa bắt đầu nặng hạt, cô sẽ ngồi ở trong xe, nhìn mưa tuôn xuống. Và đến lúc trời tạnh, cô liền đi ra ngoài ngồi trên bờ cát thêm lần nữa, để ngắm biển.

Sachi bắt đầu ghé thăm Hanalei vào mùa này mỗi năm. Cô sẽ đến từ vài ngày trước ngày giỗ của con trai và ở lại ba tuần, nhìn người ta lướt sóng từ chiếc ghế bọc vinyl đặt trên bãi biển. Đó là tất cả những gì cô  làm mỗi ngày, thường ngày. Nó cứ tiếp diễn như thế trong vòng chục năm. Sẽ ở cùng một ngôi nhà và dùng bữa trong cùng một tiệm ăn, rồi đọc một quyển sách. Khi chuyến đi của cô đã trở thành một khuôn mẫu được thiết lập sẵn, cô có tìm thấy được vài người mình có thể tâm tình chuyện riêng. Nhiều người dân ở thị trấn nhỏ ấy đã quá quen mặt cô. Sachi được biết đến như mẹ của cậu trai trẻ đã chết vì bị cá mập tấn công ở gần đó.

2

Một ngày nọ, trên đường trở lại từ sân bay Lihue, nơi cô đi đổi lại chiếc xe quá khổ lỡ thuê, Sachi đã nhìn thấy hai thanh niên Nhật Bản xin được quá giang ở thị trấn Kapaa. Họ đang đứng bên ngoài nhà hàng gia đình Ono với những chiếc túi thể thao lớn đeo trên vai, đối mặt với những ngón tay cái chìa ra đầy trông đợi. Một người cao lêu nghêu và gầy như cây sậy, người còn lại thấp đậm. Cả hai đều có mái tóc dài ngang vai nhuộm màu đỏ như gỉ sắt, mặc áo thun cộc tay, quần đùi, đi dép quai hậu. Sachi lướt qua họ, nhưng nhanh chóng đổi ý và quay lại.

Hạ cửa sổ xuống, cô hỏi họ bằng tiếng Nhật, “Mấy cậu đi đến đâu đấy?”

“Hê, cô nói tiếng Nhật này!” Cao-kều thốt lên.

“Phải, dĩ nhiên rồi, tôi là người Nhật mà. Các cậu định đi đến đâu?”

“Một nơi gọi là Hanalei,” Cao-kều tiếp tục trả lời.

“Muốn quá giang không? Tôi đang trên đường về có một mình thôi.”

“Dzách lầu! Nãy giờ bọn này chỉ mong có chừng đó!” Thấp-đậm cảm thán.

Chúng đặt túi xách của mình vào cốp xe và bắt đầu leo lên băng ghế sau chiếc Neon Sachi đang lái.

“Chờ chút đã,” cô nói. “Tôi sẽ không để cả hai ngồi cả ở băng sau đâu. Rốt cuộc thì đây đâu phải là xe taxi. Một trong hai cậu phải lên ngồi ở phía trước. Đó là cách cư xử phải phép đấy.”

Cả hai quyết định Cao-kều sẽ ngồi ở phía trước, và thật rụt rè, gã ngồi xuống cạnh Sachi, cố nhét đôi chân dài lòng thòng của mình vào khoảng trống có sẵn. “Xe này thuộc dòng nào vậy?” Gã hỏi.

“Là một chiếc Dodge Neon. Của hãng Chrysler,” Sachi trả lời.

“Hừm, hình như bọn Mẽo có những chiếc xe nhỏ chật chội quá, hử? Con Corolla của bà chị cháu có khi còn rộng rãi hơn này.”

“Phải, nó không hề to nếu tất cả người Mỹ đều lái xe xung quanh một chiếc Cadillac khủng rồi.”

“Vâng, nhưng mà cái xe này thực sự là rất bé mà.”

“Cậu có thể xuống đường luôn tại đây nếu cậu không ưa nó,” Sachi đáp.

“Quào, Ý cháu đâu phải vậy!” Gã nói. “Cháu chỉ hơi ngạc nhiên vì nó nhỏ thế này, vậy thôi à. Cháu cứ tưởng là hầu hết ô-tô Mỹ hẳn phải to lắm.”

“Thôi được rồi, dù sao thì các cậu định đến Hanalei hả?” Sachi hỏi khi cô cho xe chạy dọc đường dài.

“Vâng, để lướt sóng, chỉ duy nhất việc đó thôi.”

“Thế ván lướt của các cậu đâu rồi?”

“Chúng cháu sẽ đến lấy ván ở đó,” Thấp-đậm đáp.

“Đúng đấy cô ạ, thật ê cả người khi phải lê mấy tấm ván theo vòng quanh nước Nhật, trong khi cháu nghe đồn ở đây mình có thể mua hàng second-hand với giá rẻ rề như cho”, Cao-kều chõ mồm vào nói thêm.

“Còn cô thì sao ạ, cô cũng đến đây nghỉ hè hay sao?”

“À há.”

“Một mình thôi á?”

“Một mình,” Sachi nhẹ nhàng đáp.

“Cháu không cho rằng cô đây chính là siêu sao lướt ván trong truyền thuyết phỏng ạ?”

“Đừng có mà nhăng cuội!” Sachi nói, “Dù sao thì, các cậu đã có chỗ nào trú lại ở Hanalei chưa?”

“Chưa ạ, bọn cháu đồ rằng phải vạch ra một kế hoạch tỉ mỉ khi đặt chân tới đó thôi,” Cao-kều lên tiếng.

“Chuẩn đấy, hai đứa chúng cháu nghĩ là chắc đành ngủ luôn ngoài bãi biển nếu phải đến nước đấy mất.” Thấp-đậm tiếp lời. “Với lại, bọn cháu cũng chả có nhiều tiền.”

Sachi lắc đầu: “Buổi tối ở bờ biển phía Bắc thời gian này trời đổ lạnh đủ để mặc được áo len trong nhà, nếu ngủ ở bên ngoài các cậu sẽ bị ốm đấy.”

“Ô thế không phải Hawaii lúc nào cũng là mùa hè à?” Cao-kều thắc mắc.

“Hawaii ở ngay phía Bắc bán cầu, cậu biết rồi đấy. Nó có bốn mùa, mùa hè thì nóng, và mùa đông có thể rất lạnh.”

“Ừm, thế nên bọn mình nên tìm được một mái nhà để trú chân thôi,” Thấp-đậm khoanh tay nói.

“Cô ơi, cô nói đi, liệu cô có thể giúp chúng cháu tìm lấy một mái ấm tình thương để lưu lại không ạ?” Cao-kều hỏi, “Tiếng Anh của bọn cháu như là mít đặc ấy cô ạ.”

“Phải đấy, phải đấy”, Thấp-đậm reo lên. “Chúng cháu nghe đồn là có thể sử dụng tiếng Nhật ở bất cứ nơi nào ở Hawaii, nhưng cho đến giờ vẫn có thấy có ma nào xài đâu.”

“Dĩ nhiên là không rồi!” Sachi đáp, giọng bực bội: “Nơi duy nhất các cậu có thể dùng tiếng Nhật là Oahu, và chỉ là một phần nào đấy của Waikiki thôi. Họ đón tiếp những khách du lịch Nhật Bản muốn mua túi Louis Vuitton và nước hoa Chanel No. 5 nên mới phải mướn nhân viên biết nói tiếng Nhật. Cả Hyatt và Sheraton cũng thế, nhưng ở ngoài các khách sạn người ta chỉ nói độc một thứ tiếng Anh thôi. Ý tôi là thế đấy, cuối cùng thì đây vẫn là nước Mỹ cơ mà. Chả lẽ các cậu đi đến tận xứ Kauai này mà không thủng được điều đó à?”

“Cháu có biết đâu. Mẹ cháu cứ bảo ở Hawaii ai cũng nói tiếng Nhật cả mà.”

Sachi rên rỉ.

“Dù sao đi nữa, chúng cháu có thể trú lại khách sạn rẻ nhất trong thị trấn,” Thấp-đậm nói. “Như cháu đã nói rồi đấy, chúng cháu không có tiền.”

“Những người vừa mới đến không hề muốn lưu lại khách sạn rẻ nhất ở Hanalei đâu,” Sachi cảnh báo chúng. “Có thể nguy hiểm đấy.”

“Sao thế cô?” Cao-kều hỏi.

“Chủ yếu là ma túy,” Sachi trả lời. “Một vài người trong đám lướt ván là thành phần bất hảo. Cần sa thì cũng ô kê thôi, nhưng phải xem chừng “đá”. “

 “Đá? Là cái gì vậy?”

 “Tao cũng chưa nghe về nó bao giờ”, Cao-kều đáp.

 “Hai người không biết gì cả, đúng không? Các cậu sẽ thành những con bồ câu ngon ngọt cho đám kẻ xấu đấy mất thôi. “Đá” là một loại ma túy hạng nặng, và nó nhan nhản khắp mọi nơi trong Hawaii. Tôi không biết chính xác, nhưng nó là một loại tinh thể gây phấn khích vô độ. Nó rẻ và dễ sử dụng, nó cũng khiến cho các cậu cảm thấy bốc lên, nhưng một khi các cậu đã bị mắc kẹt vào đó, thì các cậu cũng dễ đi đời nhà ma ngay.”

“Sợ vãi,” Cao-kều thốt lên.

“Ý cô bảo là cần sa thì ô kê ạ?”, Thấp-đậm hỏi.

“Tôi không biết nó có ô kê thật không, nhưng ít ra nó sẽ không giết cậu. Không giống như thuốc lá. Nó có thể làm rối loạn đầu óc của cậu một chút, nhưng các cậu sẽ không nhận thấy sự khác biệt. “

“Ể, nghe gai cả người!” Thấp-đậm nói.

Bỗng nhiên, Cao-kều quay sang hỏi Sachi, “Cô có phải là một thành viên nằm trong thế hệ boomer không ạ?”

“Ý cậu là…”

“Vâng, là một thành viên của thế hệ bùng nổ trẻ sơ sinh ấy.”

“Tôi chả phải là “thành viên” nằm trong cái tổ chức hay hội nhóm nào sất. Tôi chỉ là tôi thôi. Làm ơn đừng có đặt tôi ngồi chung chiếu với bất cứ hội nhóm nào cả.”

“Đấy! Cô rõ là một boomer còn gì!”, Thấp-đậm reo lên. “Cô lập tức nghiêm trọng hóa mọi thứ ngay tắp lự. Y xì như mẹ cháu ấy!”

“Và cũng đừng có xếp tôi cạnh những danh từ mỹ miều của cậu như là “Mẹ” đi”, Sachi buông ra câu trả lời. “Dù sao đi nữa thì vì lợi ích của chính bản thân, các cậu cũng nên ở lại một chỗ nào đó an toàn của Hanalei. Nhiều vấn đề có thể xảy ra… Đôi khi có thể là giết chóc cũng nên.”

“Ô chính xác thì nó không phải là thiên đường dịu êm như trong tưởng tượng ạ?” Thấp-đậm tò mò.

“Không đâu các ông tướng ạ,” Sachi thừa nhận. “Thời đại của Elvis đã trôi xa lâu lắm rồi.”

“Cháu thì không dám chắc về hầu hết những chuyện này”, Cao-kều góp chuyện, “Nhưng cháu biết Elvis Costello đã là một cụ Khốt già quéo từ đời nảo đời nào rồi.”

Sachi tiếp tục lái xe mà không nói thêm câu nào một lúc lâu sau đó.

Sachi nói với người quản lý ngôi nhà của cô, và người ta đã tìm cho hai cậu trai một căn phòng. Nhờ cô giới thiệu nên cả hai đã giảm được một số tiền đáng kể, nhưng vẫn còn nhiều hơn mức mà chúng đã dự toán.

“Không được đâu,” Cao-kều nói. “Chúng cháu không có nhiều tiền đến mức ấy.”

“Đúng rồi đấy cô ạ, khéo kế tiếp là sạch bách sành sanh mất,” Thấp-đậm đồng tình.

“Các cậu phải có khoản gì đó để dành trong trường hợp khẩn cấp chứ,” Sachi khăng khăng.

Cao-kều gại gại tai và thú thật, “Thì đúng thế, cháu có thẻ gia đình của Diners Club, nhưng ông bô cháu đã nói cháu hoàn toàn không được sử dụng nó ngoại trừ trường hợp-khẩn-cấp-thực -sự. Ông ấy lo một khi cháu bắt đầu xài nó thì cháu sẽ không ngưng tay được. Nếu cháu sử dụng thẻ cho bất cứ chuyện gì, dù là một vấn đề khẩn, cháu sẽ phải xơi ngay một trận tả tơi hoa lá, tàn tạ mùa đông khi cháu trở về Nhật Bản mất. “

“Đừng có ngu xuẩn thế,” Sachi nói. “Đây là trường hợp khẩn cấp. Nếu cậu còn muốn sống, thì hãy lấy thẻ đó ra ngay bây giờ. Hay là cuối cùng cậu muốn bị đám cảnh sát ném vào nhà giam và “được” một đống dân Hawaii lôi ra làm “bạn gái giải khuây” của họ? Dĩ nhiên, nếu cậu thích chơi loại hình đó thì đó là một câu chuyện khác, nhưng nó thốn lắm à nghen.”

Cao-kều lật đật tìm cái thẻ trong ví và trao nó ngay cho người quản lý. Sachi hỏi tên của một cửa tiệm có thể mua ván lướt sóng giá rẻ đã qua sử dụng. Người quản lý nói thêm với cô, “À và đến khi nào các cô rời khỏi đây, thì họ sẽ mua lại mấy tấm ván từ chỗ các cô đấy.” Hai thằng con trai liền vứt hành lý của chúng vào trong phòng và vội vã phóng luôn đến cửa hàng.

Sachi ngồi trên bãi biển, ngắm biển như thường lệ vào sáng hôm sau, khi hai cậu trai trẻ người Nhật vừa xuất hiện và bắt đầu lướt sóng. Kỹ năng lướt sóng của chúng khá vững, trái ngược với sự bất lực chúng thể hiện trên đất liền. Chúng sẽ nhìn thấy một đợt sóng mạnh mẽ, bám chặt lấy nó, và hướng những tấm ván lướt của mình về phía bờ biển với một sự điều khiển uyển chuyển mà chắc chắn. Chúng giữ chặt ván trong nhiều giờ đồng hồ không hề ngơi nghỉ. Trông cả hai thật sự sống động khi đang cưỡi sóng: đôi mắt của chúng sáng rực lên, tràn đầy tự tin. Không còn chút dấu hiệu của sự nhút nhát của ngày hôm qua. Khi quay về nhà, có lẽ cả hai đã dành cả ngày trên mặt nước, chẳng bao giờ chịu học hành gì cả – giống như đứa con trai đã mất của cô.

3

Sachi bắt đầu chơi piano ở trường trung học – một khởi đầu khá muộn cho một nghệ sĩ dương cầm. Cô chưa bao giờ chạm vào nhạc cụ này trước đây. Cô chỉ bắt đầu nghịch ngợm nó trong phòng nhạc sau mỗi giờ học, và chẳng mấy chốc đã tự mình chơi rất thuần thục. Hóa ra cô có được một độ cảm âm tuyệt đối, và đôi tai vượt xa hơn ngưỡng thông thường rất nhiều. Cô có thể chỉ nghe giai điệu nọ một lần và biến nó thành các mẫu âm trên phím đàn. Cô cũng có thể tìm thấy ngay những hợp âm chính xác cho giai điệu. Chẳng cần đến ai dạy dỗ, cô liền nhanh chóng học thạo lối di chuyển những ngón tay của mình một cách trơn tru. Rõ ràng cô đã nhận được một món quà trời phú bẩm sinh cho môn dương cầm.

Một ngày nọ, vị thầy giáo trẻ dạy âm nhạc đã vô tình nghe thấy cô chơi đàn, thầy cảm thấy rất thích tai, và giúp cô sửa một số lỗi cơ bản về ngón tay. “Em có thể chơi theo cách đó, nhưng em còn có thể tăng tốc nếu em làm như thế này này,” thầy nói, và biểu diễn cho cô xem. Cô tiếp thu nó ngay lập tức. Là một fan hâm mộ vĩ đại của nhạc Jazz, thầy đã hướng dẫn cô bằng những lý thuyết bí ẩn của nhạc Jazz sau giờ học: Sự hình thành và phát triển của các hợp âm, sử dụng bàn đạp, khái niệm ứng tác. Còn cô liền hau háu hấp thu hết mọi thứ. Rồi thầy cho cô mượn các bản thâu-âm mình có: Red Garland, Bill Evans, Wynton Kelly. Cô sẽ lắng nghe họ hết lần này đến lần khác cho đến khi cô có thể sao chép chúng một cách hoàn hảo. Một khi cô đã ám ảnh vì nó, thì nó lại càng trở nên dễ dàng hơn đối với cô. Cô có thể tái tạo lại thanh âm nhạc điệu và chơi trôi chảy liền mạch trực tiếp bằng tay mà không cần phải ghi lại bất cứ thứ gì. “Em thực sự có năng khiếu đấy,” thầy giáo bảo với cô. “Nếu em chịu khổ luyện chăm chỉ hơn nữa, em có thể trở thành nghệ sĩ chuyên nghiệp.”

Nhưng Sachi không tin lắm lời thầy. Tất cả những gì cô có thể làm được là tạo ra những bản sao bắt chước chính xác chứ không phải là âm nhạc của riêng cô. Khi được yêu cầu diễn ngẫu hứng, cô thường không biết mình phải chơi cái gì. Rồi cô sẽ lại bắt đầu ứng tác và kết thúc bằng việc nhái lại một bản solo của người khác. Đọc nhạc là một trong những chướng ngại vật của cô. Những ký hiệu chi tiết trên bảng nhạc lý khiến cô cảm thấy không thở nổi. Với cô, việc chuyển trực tiếp những gì mình nghe được qua phím đàn còn dễ hơn nhiều. Không được rồi, cô thầm nghĩ: Vô phương cho mình để có thể trở thành một dương cầm thủ chuyên nghiệp.

Thay vào đó, cô quyết định theo học nấu ăn sau khi tốt nghiệp trung học. Không phải cô quan tâm gì đến môn này, nhưng cha cô có sở hữu một nhà hàng, và căn bản vì cô cũng chẳng có gì khác đặc biệt hơn muốn làm, nên cô nghĩ mình sẽ tiếp tục nghiệp kinh doanh tiếp nối ông. Cô đã bay đến Chicago để nhập học một trường nấu ăn chuyên nghiệp. Chicago không phải là một thành phố nổi tiếng với những món ăn tinh xảo, nhưng phía gia đình lại có người thân sống ở đó đồng ý bảo trợ cho cô.

Một người bạn cùng lớp ở trường nấu ăn đã giới thiệu cô đến một quán rượu chơi Piano nhỏ ở trung tâm thành phố, và rất nhanh cô đã được nhận chơi ở đó. Lúc đầu, cô chỉ nghĩ đó là công việc bán thời gian để kiếm được một khoản tiêu vặt bỏ túi thôi. Nhưng vì khoản tiền còm giật gấu vá vai chỉ vừa đủ tiêu ở nhà gửi lên, nên cô đã rất sung sướng với khoản thu nhập kiếm thêm được này. Người chủ quán bar rất thưởng thức lối cô có thể chơi bất kỳ giai điệu nào mọi lúc. Một khi cô đã nghe được một ca khúc, cô sẽ không bao giờ quên nó, và thậm chí với một bài hát mà cô chưa bao giờ nghe trước đó, nếu có ai đó ngân nga nó cho cô nghe, cô cũng có thể chơi nó ngay tại chỗ. Không phải thuộc hàng tuyệt sắc giai nhân, nhưng cô có cái duyên thu hút người khác, và sự có mặt của cô bắt đầu đưa nhiều khách hàng hơn đến quán bar. Những món tiền boa mà họ tặng lại cho cô cũng dần dần tăng lên. Cuối cùng cô quyết định ngừng hẳn việc đến trường. Ngồi ở phía trước cây đàn Piano còn dễ chịu và vui thích hơn là phải lọc sạch một miếng thịt lợn còn nguyên tơ máu, xẻ cho bằng được tảng phó-mát cứng như đá, hay chà sạch bã cặn đen xì từ một cái chảo rán nặng trịch.

Bởi thế, khi con trai cô trở thành một đứa trẻ bỏ học trung học để thực sự dành hết thời gian cho việc lướt sóng, Sachi đành phải chấp nhận. Hồi còn trẻ mình cũng làm việc này rồi còn gì. Làm sao mình có thể đổ hết tội trạng lên đầu nó được. Cái này chắc là, con nhà tông không giống lông cũng giống cánh.

Cô đã chơi trong quán bar suốt một năm rưỡi. Khi tiếng Anh được cải thiện, Sachi xin nghỉ việc với một khoản tiền kha khá, và đã có bồ trai – một tay diễn viên đầy tham vọng người Mỹ gốc Phi. (Sau đó Sachi đã phát hiện ra anh này từng đóng vai phụ trong phần 2 phim Die Hard) Một ngày nọ, một sĩ quan quản lý nhập cư có huy hiệu trên ngực xuất hiện tại quầy bar. Cô lập tức ăn ngay một quả giật gân gây rúng động lớn. Người sĩ quan yêu cầu kiểm tra hộ chiếu của cô và bắt cô ngay tại trận vì lao động bất hợp pháp. Vài ngày sau, cô thấy mình đang ngồi trên một chiếc máy bay cỡ lớn bay về phi trường Narita – với một chiếc vé cô phải trả bằng chính khoản tiền tiết kiệm của cô. Thế là xong, kết thúc luôn cuộc sống ở Mỹ của Sachi.

Quay lại Tokyo, Sachi đêm ngày trăn trở về những khả năng mở ra cho cô suốt quãng đời còn lại của mình, nhưng chơi đàn Piano là cách duy nhất cô có thể nghĩ tới để thực hiện nó. Những cơ hội của cô đã bị giới hạn vì khuyết điểm trong việc viết nhạc, nhưng lại có những nơi mà tài năng chơi-nhạc-qua-tai cô có lại được tán thưởng nhiệt liệt – các phòng khách, hộp đêm và những quán bar Piano nữa. Cô có thể chơi theo bất cứ phong cách nào tùy theo bầu không khí của các nơi này, của mọi kiểu khách hàng, hoặc cả những lời yêu cầu được đưa đến . Sachi có thể là một “tắc kè hoa âm nhạc” chính hiệu, nhưng  bù lại, cô sẽ không bao giờ gặp phải khó khăn khi kiếm cơm.

Cô kết hôn ở tuổi 24, và hai năm sau đó đã cho ra đời một cậu con trai. Chồng cô là một tay chơi guitar Jazz trẻ hơn Sachi một tuổi. Thu nhập của gã hầu như không tồn tại. Gã nghiện ma túy, và là một tên Sở Khanh chính hiệu. Hầu hết mọi thời gian gã đều đi lang chạ bên ngoài, và khi trở về nhà, gã lại lên cơn giở trò vũ phu bạo lực. Tất cả mọi người đều phản đối gay gắt cuộc hôn nhân này, và sau đó toàn bộ số họ đều lên tiếng khuyên lơn Sachi hãy ly hôn phứt ngay tên đàn ông tệ bạc ấy đi. Dù gã không có gì đáng để mê hoặc, nhưng chồng của Sachi sở hữu một tài năng thuần túy, và trong thế giới nhạc Jazz, gã đã hấp dẫn mọi sự chú ý như một ngôi sao sắp vụt sáng chói lọi. Đây có lẽ là điều đã cuốn hút Sachi đến với gã ngay từ  lần đầu tiên. Nhưng cuộc hôn nhân này chỉ sống lắt lẻo được 5 năm. Cuối cùng gã gặp phải một cơn chấn động tim vào một buổi tối trong căn phòng của người đàn bà khác, và lăn ra ngoẻo giữa trạng thái trần truồng không mảnh vải che thân khi cả hai cố lết xác đưa gã đến bệnh viện. Có lẽ là một cơn sốc thuốc quá liều.

Chẳng lâu sau khi người chồng qua đời, Sachi mở một quán bar Piano giữa khu phố Roppongi thời thượng. Cô có một khoản tiền tiết kiệm, và cũng nhận về một món tiền bảo hiểm vốn đã bí mật tách ra khỏi cuộc sống của chồng mình. Cô cố chạy chọt để có được một khoản vay ngân hàng. Một khách hàng ở quán bar Sachi đang chơi vốn đứng đầu chi nhánh nên đã đỡ đần cho cô được vụ này. Cô bèn cho lắp đặt một cây Piano lớn ở đó, và dựng lên một quầy tính tiền theo hình dáng của nhạc cụ. Để điều hành công việc kinh doanh, cô trả lương cao cho một người quản lý kiêm bartender đầy năng lực mà cô quyết định thuê từ một quán bar khác. Cô chơi đàn mỗi đêm, nhận các yêu cầu từ khách hàng và đệm nhạc cho họ mỗi khi họ hát. Một bể cá tròn được đặt trên cây Piano để đựng tiền boa. Các nhạc sĩ xuất hiện tại các câu lạc bộ nhạc Jazz trong khu vực sẽ dừng chân lại lúc này và chơi nhanh một, hai giai điệu ngay sau đó. Quán bar rất sớm đã có khách ruột, và công việc kinh doanh trở nên khởi sắc hơn đối với Sachi. Cô đã có thể trả nợ vay đúng kỳ hạn. Vốn đã chán mớ đời với cuộc sống hôn nhân như rành rẽ sáu câu vọng cổ trước đó, cô không tái hôn, nhưng cô có qua lại với nhiều người bạn trai từ đó đến nay. Hầu hết họ đều đã lập gia đình, điều này càng dễ dàng với cô hơn. Thời gian trôi qua, cậu con trai đã lớn, rồi trở thành một tay lướt sóng, và thông báo với cô thằng bé sẽ tới Hanalei ở Kauai. Cô không mặn mà gì thứ ý tưởng này, nhưng cô đã quá mệt mỏi vì phải cãi nhau với nó và đành miễn cưỡng cho tiền. Những cuộc chiến tranh lạnh kéo dài không phải là chuyên môn của cô. Và thế đấy, trong khi chờ đợi một cơn sóng tốt, thằng con trai cô đã bị tấn công bởi một con cá mập bơi vào vịnh để đuổi theo lũ rùa, và kết thúc cuộc đời ngắn ngủi mười chín năm của nó.

Sachi làm việc cần mẫn hơn bao giờ hết khi con trai qua đời. Cô đã chơi và chơi và chỉ biết chơi nhạc trong năm đầu tiên, hầu như không để trống chút thời gian nào. Và khi mùa thu đã điểm hồi kết thúc, cô liền nghỉ ngơi ba tuần, mua vé hạng thương gia của hãng United Airlines, và đi đến Kauai. Một nghệ sĩ Piano khác đã thay thế Sachi trong lúc cô đi.

4

Thi thoảng Sachi cũng sẽ chơi đàn khi ở Hanalei. Có một nhà hàng sở hữu một cây Piano cỡ nhỏ luôn được một nhạc công Piano nghiệp dư trạc độ ngũ tuần chơi vào những dịp cuối tuần. Ông ta thường sẽ biểu diễn hầu hết những giai điệu vô thưởng vô phạt như khúc “Bali Hai” và “Blue Hawaii”. Ông không có nét gì đặc biệt như một dương cầm thủ, nhưng tính tình ấm áp dịu dàng của ông vẫn được hiển lộ qua cách ông chơi. Sachi luôn tỏ vẻ thân thiện với ông, và ngồi cạnh chơi bồi ông suốt từ đấy đến nay. Cô làm thế chỉ cho vui thôi, nên dĩ nhiên nhà hàng sẽ không trả công cho cô, nhưng chủ tiệm sẽ đãi cô uống rượu và mời cô một đĩa mì ống. Cảm xúc chỉ có thể tuyệt vời hơn khi cô đặt những ngón tay mình lên các phím đàn: Nó khiến cô mở rộng lòng mình ra. Đây không phải là một câu hỏi về tài năng, sự linh hoạt hay bất cứ thứ gì hữu ích khác. Sachi đã mường tượng ra rằng, hẳn thằng bé con trai cô cũng phải cảm thấy giống vậy khi nó đang cưỡi sóng.

Có điều, kỳ thực mà nói, Sachi chưa bao giờ thực sự thích con trai mình. Tất nhiên, là cô yêu thương nó – thằng bé là người quan trọng nhất trên đời này đối với cô – nhưng với tư cách cá nhân, cô thường xuyên phải gặp cả núi rắc rối vì nó, cô nhận ra rằng phải mất một quãng thời gian rất lâu mới có thể chạm vào được. Hẳn cô sẽ không có chút quan hệ gì với thằng bé nếu họ không chia sẻ cùng một huyết thống. Nó luôn tự coi mình là cái rốn của vũ trụ, không bao giờ thèm để ý đến bất cứ điều gì, không bao giờ chịu làm việc đến nơi đến chốn. Cô cũng không bao giờ có thể nói chuyện nghiêm túc với nó về bất cứ điều gì; thằng bé sẽ ngay lập tức bôi ra ngay một đống lời ngụy biện giả dối để tránh phải nói chuyện như vậy. Hầu như nó cũng không chịu học hành lấy một chữ, đồng nghĩa với việc điểm số của nó luôn be bét. Điều duy nhất thằng bé chịu dụng tâm làm chính là lướt sóng, và cũng khó mà nói nổi nó có thể giữ được đam mê ấy bao lâu. Là một cậu trai với gương mặt ưa nhìn, thằng bé không bao giờ thiếu bạn gái, nhưng sau khi nó đã vui vẻ với con người ta chán chê mê mỏi rồi, nó sẽ lập tức đá con bé như thảy đi một món đồ chơi cũ. Có lẽ chính mình mới là người làm hỏng nó, Sachi nghĩ. Chắc vì mình đã cho nó quá nhiều tiền. Đáng lẽ mình phải nghiêm khắc với nó hơn. Nhưng cô lại không có ý tưởng cụ thể về những gì cô phải làm để nghiêm khắc hơn với thằng bé. Công việc đã làm cô bận đến đầu tắt mặt tối, và cô không hề biết gì về đám con trai – tâm lý, hay về cơ thể của chúng.

Một buổi tối, Sachi đang chơi đàn ở nhà hàng đúng lúc hai cậu trai trẻ tìm đến ăn. Đó là ngày thứ sáu kể từ khi chúng đi đến Hanalei. Làn da cả hai hoàn toàn rám nắng, và trông chúng có vẻ rắn rỏi, thuận mắt hơn ở hiện tại.

“Á, cô chơi đàn Piano kìa!” Thấp-đậm reo lên.

“Và cô chơi hay quá – đúng thật là dân chuyên nghiệp có khác,” Cao-kều cũng hùa theo ngay.

“Tôi chỉ chơi cho vui thôi,” cô đáp.

“Cô có biết bài nào của nhóm B’z không?”

“Không nhạc trẻ nhạc trâu Nhật Bản gì đâu nhé, cảm ơn!” Sachi nói. “Nhưng này, chờ một chút, tôi cứ tưởng hai cậu đã bị phá sản rồi chứ nhỉ. Hai cậu vẫn có đủ khả năng để ăn ở một nơi như thế này à?”

“Chắc chắn rồi, cháu có thẻ Diners Card mà lị!” Cao-kều hùng hồn tuyên bố.

“À vâng, chỉ trong trường hợp khẩn cấp…”

“Ôi giồi, cháu chả lo. Ông già nhà cháu nói chuẩn phết đấy. Đã xài nó một lần là thành ra quen tay luôn. “

 “Đúng thế, nên bây giờ cậu có thể dễ thở hơn rồi đấy,” Sachi nói.

“Bọn cháu nghĩ bọn cháu nên chiêu đãi cô bữa tối,” Thấp-đậm nói. “Cảm ơn cô lắm lắm. Cô đã giúp chúng cháu rất nhiều. Với lại ngày mai bọn cháu cũng sẽ về nhà rồi. “

“Ồ Yê,” Cao-kều hô lên. “Còn bây giờ thì sao? Chúng ta gọi rượu nhé. Đây là niềm vinh hạnh của bọn cháu!”

 “Tôi đã ăn tối rồi,” Sachi nói, nhấc ly vang đỏ lên. “Và ly này mừng các cậu trở về nhà. Dù sao thì tôi cũng xin được nhận lời cảm ơn của hai cậu. Tôi đánh giá cao tình cảm lắm. “

Ngay lúc đó, một người đàn ông da trắng cao lớn tiến tới bàn của họ và đứng cạnh Sachi với một ly whisky trong tay. Anh ta khoảng bốn mươi tuổi và có mái tóc ngắn. Cánh tay anh ta nom như những cây cột điện thoại tí hin, và một bên cổ anh có một hình xăm rồng lớn nằm giữa các chữ cái “USMC”. Xét theo màu sắc đã phai mờ của nó, có lẽ hình xăm đã được lên da nhiều năm trước đó.

“Này, thưa quý cô, tôi rất thích cách cô em chơi dương cầm,” anh ta nói.

Sachi liếc mắt lên và đáp, “Cảm ơn.”

“Cô em là người Nhật đấy à?”

“Chắc chắn rồi.”

“Tôi đã từng đến Nhật một lần. Một thời gian dài trước đây rồi. Đóng quân hai năm ở Iwakuni. Lâu lắc lâu lơ từ thuở xa xưa.”

“Vâng, thế ông có biết gì không? Tôi cũng từng ở Chicago một lần suốt hai năm rồi. Cũng lâu lắc lâu lơ từ thuở xa xưa ấy. Chắc điều này sẽ san bằng tỉ số giữa chúng ta nhỉ.”

Người đàn ông suy nghĩ về câu này trong một phút, dường như anh ta cho rằng cô đang nói đùa, và bật cười.

“Chơi bản gì đó cho tôi đi. Một bài nào thật rộn ấy. Cô em có biết bài “Phía bên kia đại dương” của Bobby Darin không? Tôi muốn hát nó.”

“Tôi không có làm việc ở đây, ông biết đấy,” cô nói. “Và ngay bây giờ tôi đang bận trò chuyện với hai cậu bé này. Ông có thấy cái ông gầy gò với kiểu tóc mỏng đang ngồi gần cây đàn Piano kia không? Ông ấy mới là tay chơi dương cầm ở đây. Nhẽ ra ông nên đưa lời yêu cầu của mình cho ông ấy mới phải. Và đừng quên để lại cho ông ta một ít tiền boa.”

Người đàn ông lắc đầu. “Cái miếng bánh xốp hoa hòe hoa sói ấy chả chơi được thứ gì ra hồn ngoài ba thứ thổ tả. Tôi chỉ muốn nghe cô em chơi thôi – một bản gì đó bừng bừng khí thế lên. Xin được gửi tặng cô mười đô nhé.”

 “Có năm trăm đô bà đây cũng chả thèm chơi, nhá.”

“Vậy ra là thế này đấy hử?” Người đàn ông nói.

“Phải, là thế đó,” Sachi đáp gọn.

“Nói thử tôi nghe xem, thế tiếp theo, cô muốn cái gì? Tại sao không phải là đám người Nhật nước cô nên sẵn sàng chiến đấu để bảo vệ đất nước của họ? Tại sao bọn tôi phải đi kéo lừa của mình đến tận Iwakuni chỉ để giữ bình yên cho các cô?”

“À vì thế nên bà đây phải ngậm mồm vào và thun thút xách váy ra chơi đàn ngay lập tức chứ gì?”

“Chứ còn gì nữa,” người đàn ông trả lời. Anh ta liếc qua chỗ hai đứa con trai. “Và nhìn hai đứa tụi bây xem – một cặp ma cà bông vô công rỗi nghề Nhựt Bủn ăn ngày chỉ biết đến lướt sóng. Mau biến đến Hawaii đi – Vì lẽ quái gì? Hồi còn ở Iraq, bọn tao đã…”

“Để tôi hỏi ông anh đây một câu nhé,” Sachi xen vào. “Một câu tôi cứ băn khoăn mãi kể từ khi ông anh vác xác đến đây.”

“Chắc chắn rồi. Cô em hỏi đi.”

Khẽ vặn cần cổ, Sachi nhìn thẳng vào mặt người đàn ông. “Tôi đây đã thắc mắc suốt cả buổi đấy,” cô nói, “Làm thế nào để người ta có thể trở thành thể loại người như ông đây nhỉ? Là đẻ ra bẩm sinh ông anh đã thế, hay do ăn ở bầy hầy tệ hại như nào để phải trở thành cái dạng này? Ông anh nghĩ sao, hả? “

Người đàn ông ngẩn ngợi một lúc rồi đập mạnh cốc whisky xuống mặt bàn. “Con kia, ông cho mày xem…”

Người chủ nhà hàng đã nghe thấy giọng hét của người đàn ông và nhanh chân chạy đến. Ông ta là một người nhỏ thó, nhưng rất nhanh ông đã chụp lấy được cánh tay vạm vỡ của tay cựu thủy thủ kia và đưa anh ta ra ngoài. Rõ ràng họ là bạn bè với nhau, nên tay cựu thủy thủ không hề biểu lộ sự phản kháng nào ngoài việc cố đẩy ông ta ra một hoặc hai lần gì đó.

Người chủ quay trở lại ngay sau đó và rối rít xin lỗi Sachi. “Cậu ta không phải là một người xấu đâu, nhưng rượu vào khiến cậu ta biến tính. Xin bà đừng lo lắng, tôi sẽ giáo huấn lại cậu ta ngay. Trong lúc đó, hãy để tôi được mời bà món gì đó nhé. Xin bà hãy quên điều vừa xảy ra đi ạ. “

“Được rồi,” Sachi nói. “Tôi quen với kiểu này rồi.”

Thấp-đậm cau mày hỏi Sachi, “Lão ta nói gì thế cô?”

“Phải đấy, tao cũng chả nghe được chữ khỉ gì,” Cao-kều nói, Cao-kều nói, “ngoại trừ ‘Nhật Bản’”

“Thôi được rồi,” Sachi nói. “Đừng bận tâm làm gì. Các cậu đã có đủ thời gian vui vẻ ở Hanalei chưa? Tôi đồ rằng các cậu đã lướt sóng đến sung sướng bay cả não ấy chứ!”

“S-Ư-Ớ-N-G V-Ã-I L-I-N-H H-Ồ-N!” Thấp-đậm phấn khích.

“Chỉ có cực cực cực sướng thôi ạ,” Cao-kều nói. “Nó đã thay đổi cuộc đời cháu. Không giỡn tẹo nào luôn.”

“Tuyệt vời gớm nhỉ” Sachi nói. “Hãy tận hưởng niềm vui tẹt ga trong khi vẫn còn có thể. Người ta sẽ sớm gửi hóa đơn đến cho các cậu nhanh thôi.”

“Chuyện nhỏ,” Cao-kều nói. “Cháu có tấm thẻ hộ mệnh rồi.”

“Thế đấy,” Sachi nói, lắc đầu. “Thật tốt đẹp và dễ dàng quá nhỉ.”

Sau đó Cao-kều chợt lên tiếng, “Cháu muốn hỏi cô một chuyện này, nếu cô không để bụng.”

“Về chuyện gì?”

“Cháu chỉ tự hỏi cô đã bao giờ nhìn thấy một người Nhật cụt một chân đi lướt sóng chưa?”

“Một người Nhật cụt một chân lướt sóng?” Sachi nhìn thẳng vào mặt cậu trai với đôi mắt nheo lại. “Không, tôi chưa bao giờ thấy.”

“Bọn cháu đã nhìn thấy anh ấy hai lần. Anh đứng ở chỗ bờ biển đó cô, còn nhìn chằm chằm vào bọn cháu nữa. Anh ấy có một chiếc ván lướt đỏ hiệu Dick Brewer, và chân anh biến mất từ ​​đây xuống.” Cậu bé cúi người di ngón tay lên một vài phân trên đầu gối. “Giống như nó đã bị cắt vậy. Anh ấy biến mất khi bọn cháu ra khỏi mặt nước. Tự dưng biến mất luôn. Bọn cháu rất muốn nói chuyện với anh ta, thế nên cả hai đứa đã cố gắng đi tìm anh ấy, nhưng không thấy anh ấy ở bất cứ chỗ nào hết. Cháu đoán là anh ấy cũng trạc cỡ độ tuổi của bọn cháu thôi.”

“Chân nào đã biến mất? Chân phải hay chân còn lại? ” Sachi dồn dập hỏi.

Cậu bé Thấp-đậm suy nghĩ một lát và nói, “Cháu chắc rằng đó là chân phải. Đúng không mày?”

“Trăm phần trăm luôn. Chính xác là chân phải”, Cao-kều nói.

“Hừm…,” Sachi nói và thấm ướt môi mình bằng một ngụm rượu. Cô có thể nghe tiếng tim đập thình thịch, khô khốc trong lồng ngực. “Các cậu chắc chắn cậu ta là người Nhật? Chứ không phải là người Mỹ gốc Nhật chứ?”

“Không hề,” cậu bé Cao-kều nói. “Cô có thể thấy sự khác biệt ngay lập tức luôn. Không, anh chàng này là một người lướt sóng đến từ Nhật Bản. Giống như bọn cháu.”

Sachi cắn môi dưới, và nhìn chằm chằm vào họ trong một lúc. Sau đó, với chất giọng sượng cứng, cô bảo với họ: “Dù sao thì cũng lạ lùng thật nhỉ. Đây là một thị trấn nhỏ, mình cũng không thể bỏ lỡ việc nhìn thấy một người nào đó như thế ngay cả khi cố ý: Một người Nhật lướt sóng cụt một chân.”

“Vâng,” Thấp-đậm tiếp lời. “Cháu thừa biết điều đó thật quái dị mà. Một gã như thế ắt hẳn sẽ nổi bần bật hẳn ra như một ngón cái bị sưng ấy. Nhưng anh ấy có ở đó, cháu dám chắc chắn điều đó. Cả hai bọn cháu đều trông thấy anh ấy mà.”

Cậu trai Cao-kều nhìn Sachi và nói, “Cô vẫn luôn ngồi bên bờ biển, phỏng ạ? Anh ta thường đứng đó trên một chân, cách xa nơi cô vẫn thường ngồi. Và anh ấy nhìn thẳng vào bọn cháu, giống như để người tựa vào thân cây. Anh thường đứng ngay dưới lùm cây bằng sắt ở phía bên kia chiếc bàn ăn dã ngoại ngoài trời ấy.”

Sachi lặng lẽ nuốt cốc rượu của cô.

Thấp-đậm nói tiếp: “Cháu cũng tự thắc mắc liệu bọn cháu có thể đứng vững trên ván lướt của mình bằng một chân không? Nó đủ cứng với cả hai người. “

Mỗi ngày sau đó, từ sáng sớm đến tối mịt, Sachi đều đi dọc theo chiều dài của bờ biển trải dài khắp Hanalei, nhưng chưa bao giờ nhìn thấy dấu vết nào của một người lướt sóng cụt một chân. Cô hỏi hết những người lướt sóng địa phương, “Các bạn có bao giờ nhìn thấy một người lướt sóng cụt một chân người Nhật chưa?” Nhưng tất cả bọn họ đều nhìn cô lạ lẫm và lắc đầu nguầy nguậy. Một tay lướt sóng cụt một chân người Nhật ư? Bọn này chưa bao giờ thấy ai trông như vậy. Nếu có, bọn tôi chắc chắn sẽ nhớ ngay. Người như thế quá sức nổi bật. Nhưng làm thế nào mà có thể lướt sóng với một chân cơ chứ?

Vào đêm trước khi trở về Nhật Bản, Sachi đã đóng gói hành lý xong và nằm lên giường. Giữa tiếng kêu của lũ tắc kè hòa lẫn với tiếng lướt sóng. Chẳng bao lâu, cô nhận ra rằng gối mình đã ướt đẫm: cô đang khóc. Tại sao mình không thể nhìn thấy được thằng bé? cô băn khoăn. Tại sao nó lại hiện ra với hai đứa trẻ lướt sóng đó – những người dưng khác máu tanh lòng với nó – mà lại không phải với mình? Thật không công bằng! Cô tự hình dung lại hình ảnh thi thể của con trai mình trong nhà xác. Giá như có thể, chắc cô sẽ lắc mạnh vai thằng bé cho đến khi nó tỉnh dậy, và cô sẽ hét vào mặt nó -Nói cho mẹ biết tại sao! Sao mày có thể làm như thế với mẹ?

Sachi vùi mặt vào chiếc gối ướt đẫm của mình một lúc lâu, nức nở nghẹn ngào. Hay chỉ là do mình không có đủ khả năng nhìn thấy nó? Cô vẫn tự hỏi, nhưng lại không biết câu trả lời cho câu hỏi của cô. Tất cả những gì cô biết chắc là vậy, bất cứ điều gì cô có thể làm, là cô phải chấp nhận hòn đảo này. Như viên cảnh sát Nhật Bản với giọng nói hiền từ đã gợi ý cho cô, cô phải chấp nhận mọi thứ trên hòn đảo này như nó vốn thế. Như nó vốn vẫn vậy: Công bằng hoặc không công bằng, đủ khả năng hay không đủ khả năng, điều đó không còn quan trọng nữa. Sachi tỉnh dậy vào sáng hôm sau với tư cách là một người phụ nữ trung niên khỏe khoắn. Cô đặt vali vào ghế sau của chiếc Dodge và rời khỏi Vịnh Hanalei.

5

Sachi đã quay về Nhật Bản được tám tháng khi cô gặp lại cậu bé Thấp-đậm giữa Tokyo. Để tránh cơn mưa tầm tã, cô bèn tạt vào uống cà phê ở quán Starbucks gần nhà ga tàu điện ngầm Roppongi. Thấp-đậm đang ngồi ở một cái bàn gần đó. Cậu ta ăn vận rất bảnh, khoác lên mình chiếc áo sơ-mi hiệu Ralph Lauren được là thẳng thớm và mặc quần tây mới coóng, ngồi bên cạnh cậu còn có một cô nàng nhỏ nhắn xinh xinh.

“Trùng hợp quá kìa!” Cậu ta kêu lên khi tiến đến chỗ bàn cô với một nụ cười toe toét.

“Bấy lâu nay cậu khỏe chứ?” Cô hỏi. “Nhìn mái tóc ngắn gọn gàng của cậu kìa!”

“À, cháu vừa mới tốt nghiệp đại học đấy ạ,” cậu ta đáp.

“Tôi không tin đâu! Cậu ấy hả?”

“À há. Ít ra là cháu đã cố gắng tự kiểm soát bản thân ghê lắm đấy “, cậu ta nói, kéo ghế ra ngồi đối diện với cô.

“Cậu đã bỏ lướt sóng chưa?”

“Vài cuối tuần cháu lại đi một lần, nhưng cũng không được lâu nữa đâu: đang đến mùa tuyển dụng rồi.”

“Còn cái cậu nhóc ốm nhom cao như cây sậy kia thì sao?”

“Ồi, nó còn dễ hơn cháu. Thằng đấy thì chả phải lo gì về công ăn việc làm cả. Ông bô của nó có một cửa hàng bánh ngọt kiểu Tây hoành tráng ở Akasaka, nhà nó còn hứa hẹn là họ sẽ mua cho nó một con BMW nếu nó chịu kế thừa công việc kinh doanh của gia đình. Thằng đấy số đỏ lắm!”

Sachi liếc nhìn ra ngoài. Những cơn mưa rào mùa hạ lướt qua đã thấm đen mọi con đường. Giao thông trở nên tắc nghẽn, và một tay lái xe taxi thiếu kiên nhẫn bắt đầu nhấn còi inh ỏi.

“Cô bé kia là bồ của cậu hử?” Sachi hỏi.

“À há … cháu cũng cho là thế. Thực ra bọn cháu đang thử tìm hiểu nhau, “cậu ta nói, gãi gãi đầu.

“Cô bé rất xinh. Quá thừa dễ thương đối với cậu đấy. Nhưng có thể cô nàng sẽ không cho cậu những gì cậu muốn đâu. “

Mắt cậu ta ngước lên trần nhà. “Quào! Cháu thấy cô vẫn luôn nói chính xác những gì cô suy nghĩ. Cô nói đúng rồi đấy. Cô có lời khuyên nào hay ho dành cho cháu không? Để cầu được ước thấy ấy, ý cháu là…”

“Chỉ có ba cách để có thể hòa hợp với một cô gái: Một, ngậm miệng vào và luôn lắng nghe những gì cô nàng nói; Hai, hãy khen cô nàng là cậu thích mê những gì cô ta diện lên người; và Ba, đối xử với cô ấy như những món cao lương mỹ vị. Dễ dàng quá, hửm? Còn nếu cậu đã làm tất cả điều đó mà vẫn không nhận được kết quả mong muốn, thì tốt hơn hết là bỏ cuộc đi. “

“Nghe tuyệt hay cô ạ: Đơn giản và thiết thực. Cô có bận tâm không nếu cháu chép lại nó trong sổ tay của cháu?”

“Tất nhiên là không rồi. Nhưng ý cậu nói là cậu không thể nhớ được nhiều à? “

“Hê, cháu giống như một con gà vậy: Đến ba bước tiến hành, và tâm trí của cháu như một khoảng trống ấy. Thế nên cháu phải viết hết mọi thứ vào. Cháu nghe đồn ông Einstein đã từng làm như vậy. “

“Ồ, hẳn là Einstein mới chịu.”

“Cháu không bận tâm nếu lỡ có quên mất đâu,” cậu ta nói. “Cháu vẫn thường quên sạch sành sanh những thứ cháu không thích mà.”

“Cứ làm theo ý cậu đi,” Sachi nói.

Thấp-đậm rút cuốn sổ tay của mình ra và viết vào đó những gì cô đã nói.

“Cô vẫn luôn cho cháu những lời khuyên bổ ích. Đa tạ cô thêm lần nữa ạ. “

“Tôi chỉ hy vọng nó sẽ hữu dụng thật.”

“Cháu sẽ áp dụng nó bằng tất cả sức trẻ trai lai láng của mình luôn,” cậu ta nói, và đứng lên để trở lại bàn của mình. Sau một vài giây suy nghĩ, cậu chìa tay ra. “Cô cũng thế, cô nhé,” cậu nói. “Hãy cố gắng bằng hết sức mình.”

Sachi nắm lấy tay cậu. “Tôi rất mừng vì bọn cá mập đã không ăn thịt cậu khi ở Vịnh Hanalei,” cô cười nói.

“Ý cô là có cá mập ở đó á? Cô nghiêm túc chứ ạ?”

“À há” cô đáp. “Nghiêm túc.”

Sachi ngồi bên bàn phím vào mỗi đêm, gần như tự động lướt những ngón tay của mình và không nghĩ gì khác. Chỉ có âm thanh của phím dương cầm trôi qua tâm trí cô – vào trong cánh cửa này và đi qua mặt cửa phía bên kia. Khi cô không chơi đàn, cô thường nghĩ về ba tuần lễ mình sẽ ở Hanalei vào cuối thu. Cô nghĩ về âm thanh của những đợt sóng đến và tiếng thở dài từ những bụi cây sắt. Về những đám mây trôi theo từng cơn gió mậu dịch, về những con hải âu bay ngang qua bầu trời, sải rộng những đôi cánh khổng lồ trên lưng. Và cô lại nghĩ về những điều chắc chắn phải chờ đợi cô ở đó. Đó là tất cả những gì cô có thể nghĩ đến lúc này. Vịnh Hanalei.

Hết.

(*) Baby boom:  Những người sinh ra vào Thời kì bùng nổ trẻ sơ sinh được gọi là Baby Boomer. Một người được gọi là Baby Boomer khi người đó sinh vào khoảng thời gian từ năm 1946 – 1964 ở Anh, Mỹ, Canada và Australia. Sau Chiến tranh thế giới thứ II, những nước này chứng kiến sự gia tăng đội ngột trong tỉ lệ sinh đẻ, vì vậy hiện tượng này được đặt tên là Thời kì bùng nổ trẻ sơ sinh. Có khoảng 76 triệu trẻ con Mỹ sinh ra trong thời kì 1945 – 1964. Vào năm 2007, thuật ngữ này dùng để chỉ những người có độ tuổi từ 43-62. Những người sinh ra ở thời kì Baby Boom chiếm gần 28% dân số Mỹ. Thuật ngữ Thế Hệ Sandwich đã được đưa ra vào những năm 1980 để chỉ những người thuộc thế hệ Baby Boom phải chăm sóc cả con cái lẫn bố mẹ của mình.

(**) B’Z:  (ビーズ Bīzu) cách phát âm khác Beez là một nhóm hard Rock chỉ hai thành viên của Nhật được thành lập bởi Tak Matsumoto (松本孝弘 Matsumoto Takahiro, sáng tác, guitar) và Koshi Inaba (稲葉 浩志 Inaba Kōshi, lời bài hát, giọng ca chính). Nhiệt liệt đề cử bài “Callin’ (nhạc phim “Mặt nạ thủy tinh”) cho các bạn nghe.

Truyện ngắn Vịnh Hanalei (Hanarei Bei) được in lần đầu tiên trong tuyển tập truyện ngắn Cây liễu mù và cô gái ngủ (Mekurayanagi to, nemuru onna) xuất bản năm 1991. Sau đó được chọn vào tập truyện ngắn Hợp tuyển bí ẩn Tokyo (Tokyo Kitanshu) phát hành năm 2005.

Nguyễn Thảo Trang
dịch từ bản tiếng Anh của Jay Rubin

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Truyện ngắn | Đành Tâm Chối Bỏ – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

ĐÀNH TÂM CHỐI BỎ

Dazai Osamu

Khi đó, hai người đã bàn bạc với nhau.

“Được rồi. Chúng ta sẽ hoàn thành chuyện này nào. Ngay từ đầu em đã quyết ý rồi. Thật đấy anh ạ”, Kazue thì thầm bằng giọng khác lạ.

“Không thể được. Chuyện em quyết ý thì anh hiểu. Anh không phải là định chết một mình mà nghĩ đến chuyện là tự buông xuôi một mình bản thân anh thôi. Em còn có cả cha mẹ và em trai nữa. Anh biết là em còn để tâm đến chuyện đó nên không thể chấp nhận được đâu”, vừa phân trần những lý lẽ thiệt hơn như thế, Kashichi vừa quyết ý chết.

“Nếu anh định chết thì chúng ta sẽ cùng chết. Chắc thần linh sẽ tha thứ cho chúng ta thôi”.

Rồi hai người bắt đầu nghiêm túc chuẩn bị.

Một người vợ yêu tha thiết một con người sai trái với một người chồng hủy hoại cuộc sống hàng ngày của mình đến mức đẩy người vợ mình vào hành động như thế cả hai đều gắn kết với nhau trong ý định tìm đến cái chết. Đó là một ngày chớm xuân. Tiền sinh hoạt phí tháng này còn khoảng mười bốn, mười lăm yên. Hai người lén mang đi theo. Ngoài ra, tất cả những bộ quần áo mặc đắp đổi của hai người chỉ là một manh áo dotera của Kashichi, một bộ awase của Kazue, hai cái đai lưng. Tất chỉ còn có thế. Kazue gói tất cả vào chiếc khăn kuroshiki, cắp nách mang rồi hai vợ chồng cùng sánh vai nhau đi ra ngoài, một điều thật hiếm thấy. Người chồng không có áo măng tô. Thay vào đó, anh mặc một chiếc kimono vải vùng Kurume, đội chiếc mũ lưỡi trai, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nước biển tồi tàn, chỉ có đôi guốc gỗ geta là còn trắng tinh như mới. Người vợ cũng không có áo khoác. Cả áo choàng haori và kimono đều dệt bằng vải meisen hoa văn mũi tên, chiếc khăn choàng đỏ nhạt hàng ngoại quốc khoác phía nửa nửa thân người trên không cân xứng. Hai người tạm chia tay nhau ngay gần chỗ tiệm cầm đồ.

Vào buổi trưa nơi nhà ga Ogikubo, dòng người ra vào tấp nập. Kashichi lặng lẽ đứng đợi trước nhà ga, châm một điếu thuốc. Kazue đảo mắt tìm kiếm anh và khi nhận ra hình dáng của Kashichi, nàng chạy bổ đến như thể gần như vấp ngã.

“Thành công, thành công lớn rồi”, nàng nói như reo lên. “Người ta cho em mượn đến mười lăm yên đấy, ngu ngốc quá nhỉ”.

Người đàn bà này không thể chết được. Mình không thể để cho nàng chết. Nàng có bị đời vùi dập tàn nhẫn như mình đâu chứ. Nàng vẫn còn sức để mà sống còn cơ mà. Đây đâu phải là một người chết. Chỉ việc lên kế hoạch tự sát chắc chắn đã là lời tạ lỗi dành đến thế gian rồi. Chỉ vậy thôi là đủ. Chắc chắn nàng sẽ được tha thứ thôi. Vậy là đủ rồi. Còn mình sẽ chết một mình.

“Em khéo xoay xở thật đấy”, Kashichi mỉm cười khen ngợi. Anh muốn vỗ nhẹ lên vai nàng.

“Vậy tất cả là mình có chừng ba mươi yên. Mình có thể đi du lịch đây đó một chút đấy anh”.

Hai người mua vé tàu đến Shinjuku. Xuống ga Shinjuku, hai người đi đến hiệu thuốc. Họ mua một hộp thuốc ngủ loại lớn rồi lại đi đến một tiệm khác mua thêm một hộp nữa. Vì Kazue đứng đợi bên ngoài, chỉ có mình Kashichi bước vào mỉm cười hỏi mua nên người bán thuốc không nghi ngờ gì cả. Cuối cùng hai người vào cửa hàng Mitsukoshi, đến quầy dược phẩm. Vì khách hàng qua lại đông đúc nên hai người có chút can đảm mà mua thêm hai hộp thuốc ngủ nữa. Nữ nhân viên thu ngân khuôn mặt nhỏ thó đầy nghiêm túc, liếc đôi mắt đen nhìn anh có vẻ hồ nghi, nếp nhăn hiện rõ nơi ấn đường. Khuôn mặt của cô ta tỏ vẻ khó chịu. Kashichi cũng cảm thấy hoảng loạn. Anh không thể nặn ra được một nụ cười mỉm gượng gạo nào. Hộp thuốc lạnh lùng được giao ra. Phía sau chúng ta người ta đang kiễng chân lên mà nhìn đấy. Kashichi biết vậy nên cố tình nép sát vào Kazue, đi xuyên qua dòng người. Mặc dù hai người điềm tĩnh bước đi nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy một vẻ gì đó dị dạng. Kashichi cảm thấy buồn bã vô cùng. Sau đó, cũng tại Mitsukoshi, Kazue mua một đôi tất trắng, Kashiochi cũng mua thêm một gói thuốc lá ngoại thượng hạng rồi mới rời đi. Hai người đón taxi đi đến Asakusa. Hai người vào rạp chiếu phim, xem bộ phim “Trăng mọc trên hoang thành” đang công chiếu. Mở đầu phim là hình ảnh hàng rào và mái trường tiểu học ở một vùng quê và tiếng ngân nga của trẻ nhỏ. Điều đó làm Kashichi rơi nước mắt.

“Nghe nói các đôi tình nhân”, Kashichi nói với vợ mình trong bóng tối rạp chiếu. “Họ vừa xem phim vừa nắm tay nhau như thế này đấy”. Nói rồi Kashichi ngại ngùng dùng cánh tay phải của mình giấu dưới cái mũ lưỡi trai tìm đến tay trái của Kazue, thử nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé xem sao nhưng giữa hai vợ chồng đang ở trong tình thế khổ sở nên Kashichi cảm thấy mình chẳng sạch sẽ gì và sợ hãi nữa nên lặng lẽ buông tay ra. Kazue cười khúc khích. Nhưng không phải nàng cười vì trò đùa vụng về của Kashichi mà cười vì một động tác gây hài chán ngắt trên bộ phim đó.

Đây đúng là người phụ nữ tuyệt vời, hiền thục mà chỉ việc xem phim cũng khiến nàng trở nên hạnh phúc. Mình không thể giết một người như thế này được. Thật sai lầm khi để cho nàng phải chết.

“Mình sẽ chết đấy. Em thấy vậy được không?”

“Được mà anh”, Kazue vừa chăm chú xem phim vừa trả lời anh.

“Bởi vì anh muốn chết một mình thôi mà”.

Kashichi chợt cảm thấy cơ thể người phụ nữ thật là kỳ diệu. Khi hai người rời khỏi rạp chiếu phim thì trời đã tối. Kazue nói nàng muốn ăn sushi. Kashichi không thích sushi lắm vì có mùi tanh. Hơn nữa đêm nay anh muốn ăn thứ gì đó cao cấp hơn chút.

“Thôi anh không thích sushi đâu”.

“Nhưng em muốn ăn mà”.

Chính Kashichi đã dạy cho Kazue cái tính ích kỷ như thế, đã minh họa cho nàng cái cách uy hiếp giả vờ bằng khuôn mặt ngoan hiền nhu thuận đó.

Tất cả hành vi rồi sẽ quay trở lại mình thôi.

Tại tiệm sushi, hai người có uống chút rượu. Kashichi gọi món hàu chiên. Anh tự nhủ thầm với mình rằng đây là bữa ăn cuối cùng ở Tokyo rồi mỉm cười gượng gạo. Kazue ăn sushi cá ngừ.

“Có ngon không em?”

“Dở lắm anh”, nàng còn phồng má lên mà nhấn mạnh “dở thật đấy”.

Cả hai người không nói chuyện gì nhiều.

Rời khỏi quán sushi, hai người đến rạp biểu diễn hài kịch manzai. Rạp đông không có chỗ ngồi. Ngay cửa rạp người đứng lố nhố nhưng hai người vẫn cố gắng chen vào đứng xem, thỉnh thoảng lại còn phá ra cười nữa. Khán giả quá đông chen chúc nên Kazue dần bị kéo xa khỏi Kashichi đến gần mười mét. Kazue dáng người thấp bé nên nàng phải cố rướn người nhìn lên sân khấu qua vai người khác trông khổ sở vô cùng. Nhìn nàng như một thiếu nữ nhà quê vậy. Giữa vòng vây khán giả, Kashichi chốc chốc lại rướn người lên dõi theo bóng dáng của Kazue. Anh dõi nhìn nàng còn nhiều hơn nhìn lên sân khấu. Kazue ôm chặt cái túi được bọc bằng khăn furoshiki màu đen trước ngực, trong đó có cất mấy hộp thuốc ngủ nhưng vẫn xoay đầu bên này bên kia để nhìn lên sân khấu xem nghệ sĩ biểu diễn. Thỉnh thoảng nàng quay lại tìm bóng dáng của Kashichi. Thỉnh thoảng hai mắt chạm nhau nhưng hai người đều không cười. Kashichi làm ra vẻ mặt bình thản nhưng trong lòng anh lại rất yên tâm.

Nàng chăm sóc mình biết bao nhiêu. Không được quên điều đó. Tất cả trách nhiệm mình sẽ gánh vác. Nếu thế gian chỉ trích nàng, mình phải ra sức bảo vệ bằng mọi giá. Nàng là một người tốt. Điều đó thì mình biết. Và mình tin.

Chuyện sắp tới thì sao? Không được, không thể được. Mình đâu thể mỉm cười cho qua. Chỉ riêng chuyện này là mình không thể bình tĩnh nổi. Không thể nào chịu nổi nữa.

Hãy tha thứ cho tôi. Đây là chủ nghĩa vị kỷ cuối cùng của tôi đấy. Lý luận tôi có thể chịu đựng được. Thế nhưng cảm giác thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi không thể gắng gượng thêm được nữa rồi.

Làn sóng cười đùa lan rộng trong rạp hài kịch. Kashichi nháy mắt với Kazue rồi hai người cùng bước ra ngoài.

“Mình đi Minakami em nhé?”

Trước đó, vào mùa hè năm ngoái hai người đã cùng đi nghỉ ở một lữ quán suối nước nóng tên là Tanigawa Onsen sâu trong núi, cách ga Minakami khoảng một giờ đi bộ.

Tuy là một mùa hè khổ sở thật đấy nhưng mà cũng vì quá khổ sở mà giờ đây nó lại trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ ngọt ngào như tấm bưu thiếp đậm đà màu sắc. Núi sông trong cơn mưa rào trắng xóa thật là buồn đến chết người.

Nghe đến Minakami, tinh thần Kazue chợt phấn chấn hẳn lên.

“Nếu vậy em phải mua hạt dẻ ngào đường mới được, bà chủ cứ nói thèm ăn mãi thôi”.

Kazue cũng hay làm nũng với bà chủ lữ quán và bà chủ cũng có vẻ mến nàng nữa. Lữ quán như một dãy trọ nghiệp dư, chỉ có mỗi ba phòng, không có bồn tắm riêng trong nhà. Hai người phải đi đến cái lữ quán lớn bên cạnh còn không thì phải ngâm mình nơi bãi tắm lộ thiên nhỏ ven bờ sông xa mãi tít phía dưới Tanigawa mà ngày mưa thì phải mang dù còn đêm thì phải mang theo đèn lồng hay nến thắp nữa. Hai vợ chồng già chủ lữ quán hình như không có con cái gì và tuy chỉ có ba phòng cho thuê nhưng đôi khi khách cũng đến đông. Những lúc như thế vợ chồng chủ quán tất bật và Kazue có xuống giúp đỡ việc bếp núc hay gây phiền hà gì cho họ nữa không biết. Món ăn thì có thêm đậu nành lên men natto cá hồi nữa, nhà trọ bình thường làm gì có món này. Kashichi cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở đây. Bà chủ lữ quán bị những cơn đau răng hành hạ, Kashichi nhìn thấy vậy không nỡ mới tặng bà vài viên aspirin. Phương pháp này hiệu quả vô cùng, bà chủ uống xong cứ thế mà lăn ra ngủ khiến ông chủ vốn hay cưng chiều bà vợ cứ đi loanh quanh với vẻ mặt lo lắng. Kazue thấy cảnh đó thì phá lên cười. Một lần Kashichi đang gục đầu đi dạo nơi bãi cỏ gần đó bất chợt nhìn qua chỗ hành lang lữ quán thì thấy vị phu nhân già đó đang ngồi lặng lẽ nơi góc tối dưới cầu thang hành lang nhìn anh thẫn thờ. Điều đó đã trở thành bí mật quý giá của Kashichi. Tuy nói là bà chủ quán nhưng bà cũng chỉ tầm bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, có khuôn mặt phúc hậu quý phái, tính tình điềm đạm dịu dàng. Ông chủ thì cứ như đứa con nuôi của bà chủ vậy. Kazue tìm mua hạt dẻ ngào đường. Kashichi nói nàng mua nhiều nhiều một chút.

Khi đến ga Ueno, hai người đã bắt đầu ngửi thấy mùi quê hương xa cách. Kashichi lúc nào cũng lo sợ không biết có người nào cùng quê nhìn thấy mình không? Đặc biệt tối hôm đó những người bán hàng và nữ phục vụ dáng vẻ hớn hở cứ như đang lang thang trong ngày nghỉ vậy khiến anh càng phải để ý hơn. Tại cửa hàng, Kazue đã mua một ấn bản đặc biệt của truyện trinh thám hiện đại Nhật Bản còn Kashichi thì mua một chai whisky nhỏ. Hai người lên chuyến tàu lửa khởi hành đi Niigata lúc mười giờ rưỡi.

Sau khi an định chỗ ngồi đối diện nhau, hai người mới khẽ mỉm cười.

“Anh này, anh thấy điệu bộ em như vậy bà chủ sẽ lấy làm lạ hay không?”

“Không sao cả đâu. Em cứ nói là chúng ta đến Asakusa xem phim rồi trên đường về chồng tôi say túy lúy cứ nằng nặc đòi đến thăm bà chủ lữ quán ở Minakami nên bất đắc dĩ tôi cứ thế đưa anh ấy đây vậy. Em chỉ cần nói thế là ổn thỏa thôi”.

“Đúng vậy nhỉ”, Kazute đồng tình. Rồi nàng lại nói tiếp.

“Bà chủ mà thấy mình đến chắc sẽ ngạc nhiên lắm đây”, dáng vẻ của nàng đúng là tàu lửa chưa khởi hành thì không sao yên tâm được.

“Chắc bà ấy sẽ vui lắm đấy”, tàu bắt đầu chạy. Kazue làm vẻ mặt điềm nhiên liếc nhìn chỗ sân ga đợi tàu như thể mọi chuyện đã xong xuôi. Với tâm thế đã sẵn sàng mọi chuyện, nàng mở cái gói hành lý quấn bằng khăn furoshiki trên đầu gối, lấy ra tạp chí truyện trinh thám và bắt đầu lật trang. Kashichi cảm thấy đôi chân mỏi nhừ, nhưng ngực thì cứ phập phồng không yên. Anh chậm rãi nhấp whisky với tâm trạng như thể mình đang uống thuốc vậy.

Nếu mình có tiền thì đâu phải để cho Kazue chết chứ. Nếu như người đàn ông của nàng mà tính tình dứt khoát hơn một chút thì mọi chuyện đã khác rồi. Anh không nỡ lòng nào mà nhìn. Sự tự sát của nàng đúng là vô nghĩa.

“Này em có nghĩ anh là một người tốt không?”, Kashichi đột nhiên hỏi. “Anh nghĩ chắc chỉ có mình anh là cố gắng trở thành một người tốt thôi nhỉ?”

Anh bất chợt nói lớn làm Kazue kinh ngạc hoảng sợ sau đó nàng cau mày tức giận. Kashichi lại mỉm cười yếu ớt.

“Nhưng mà”, anh cố tình hạ thấp giọng. “Em vẫn chưa đến mức bất hạnh như vậy. Căn bản em là một người phụ nữ bình thường không xấu cũng chẳng tốt. Bản chất của em vốn là một người phụ nữ bình thường mà. Nhưng anh thì khác. Anh vốn là một kẻ tệ hại lắm, còn dưới mức bình thường nữa kia?”

Con tàu đi qua Akabane, qua Omiya và cứ thế chạy miệt mài trong bóng tối. Có thể vì say rượu whisky và bị tốc độ của đoàn tàu thúc đẩy nên bất giác Kashichi trở nên hoạt bát hùng hồn.

“Bị đàn bà ghét bỏ nhưng không sao thoát khỏi họ, suốt ngày cứ lẽo đẽo quẩn quanh mãi, anh biết đó tệ hại lắm. Ngu ngốc nữa. Nhưng mà anh đâu phải là đứa trẻ ngoan. Anh ghét phải trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn lắm. Anh là người tốt, bị đàn bà lừa gạt nhưng không sao rũ bỏ được người ta còn bắt người ta chết chung nữa. Bạn bè văn nghệ của anh sẽ nói thật là thuần khiết, thế gian sẽ cười chê là một con người yếu đuối bạc nhược. Người ta chắc sẽ nói những lời đồng cảm tùy tiện như thế đấy. Nhưng anh thì thua cuộc trước nỗi đau khổ của mình nên phải chết. Chứ đâu phải chết vì em chút nào đâu. Chỗ tệ hại của anh nhiều không kể xiết. Anh quá dựa dẫm vào người khác, quá tin tưởng vào sức lực con người. Chuyện đó và nhiều thất bại đáng xấu hổ khác của anh, anh biết cả chứ. Dù gì đi nữa anh cũng muốn sống một cuộc đời bình thường như con người ta, và đã không ngừng cố gắng cho đến bây giờ đấy. Em có hiểu không? Đó là cọng rơm duy nhất anh cố bám víu vào. Anh luôn cố gắng hết sức như thể thêm một chút sức nặng nữa cọng rơm sẽ đứt gãy vậy. Em hiểu chứ? Anh không phải là kẻ yếu đuối bạc nhược. Chỉ là phải gánh vác nỗi sầu khổ quá nặng nề mà thôi. Đó là sự ngu si và lòng căm hận. Thế nhưng nếu nói điều đó ra mà không nói một cách rõ ràng thì người ta sẽ căm ghét. Ngay cả em người quá tin tưởng vào sự mạnh mẽ của cái mặt dày trơ trẽn này của anh cũng sẽ xem thường mà nói “người đàn ông này luôn miệng nói là khổ sở nhưng chỉ là làm bộ làm tịch, kiểu cách mà thôi”.

Kazue lầm bầm điều gì đó.

“Nhưng mà, không sao hết. Không phải là anh chỉ trích hay phê phán gì em cả. Em là người tốt, lúc nào cũng ngoan hiền. Em là người mà người ta nói sao thì tin vậy. Anh không hoàn toàn có ý chỉ trích gì đâu. Ngay cả đám bạn cũ của anh, có học vấn hơn em gấp nhiều lần mà còn chẳng hiểu được nỗi đau khổ của anh nữa. Họ còn chẳng tin vào tình yêu của anh nữa. Mà cũng đâu phải là vô lý. Tại anh tệ hại quá mà”.

Khi anh nói vậy và mỉm cười, trong thoáng chốc Kazue trở bên tự đắc.

“Em hiểu mà. Nhưng đủ rồi đó. Người ta nghe được thì kỳ cục lắm anh”.

“Chắc em không hiểu chút gì đâu. Có lẽ với em anh là kẻ vô cùng ngu ngốc. Có lẽ bây giờ trong góc nào đó khuất kín của tim anh, ý định cố gắng làm một người tốt vẫn còn ẩn nấp đâu đó. Chính vì thế mà anh mới khổ sở đây này. Anh đã sống chung với em sáu, bảy năm rồi nhưng em vẫn chưa một lần nào ghét bỏ cả. Không, anh không có ý chỉ trích gì em hết cả đâu. Điều này là đương nhiên thôi. Có phải là trách nhiệm của em đâu mà”.

Kazue không nghe gì hết. Nàng im lặng đọc tạp chí. Kashichi làm vẻ mặt nghiêm trọng, nhìn ra phía cửa sổ toa tàu tối đen, lẩm bẩm một mình như độc thoại.

“Không phải đùa đâu. Tại sao anh lại là người tốt như thế này chứ? Mọi người cứ chê bai anh đủ thứ, nào là nói dối, lười biếng, kiêu ngạo, xa xỉ, kẻ dụ dỗ đàn bà và nhiều tên gọi xấu xa đáng sợ nữa. Thế nhưng anh chỉ im lặng mà thôi. Không biện giải một lời nào cả. Anh cũng có niềm tin riêng của mình chứ. Có điều anh không thể nào nói ra được cả. Nếu vậy thì còn ra thể thống gì nữa chứ. Không, anh nghĩ đó chính là sứ mệnh lịch sử. Anh không thể sống với hạnh phúc của riêng mình thôi. Mình sẽ đóng một vai phản diện trong lịch sử. Tội ác của Giuda càng ghê gớm thế nào thì ánh sáng nhân từ của chúa Giêsu càng lớn lao chừng đó. Anh nghĩ mình là một loại người tự hủy diệt chính mình. Đó là thế giới quan của anh. Anh thử thực hiện một phản đề mạnh mẽ. Càng nhấn mạnh đến cái xấu của việc tự hủy thì cái bàn đạp của nguồn ánh sáng khỏe mạnh sinh ra từ đó càng bật trở lại dữ đội hơn. Anh tin như vậy và nguyện cầu cho điều đó. Còn bản thân anh thì sao cũng được cả. Anh nghĩ nếu vai trò của mình là phản lập pháp mà có thể đóng góp chút gì đó cho sự tươi sáng ngày mai thì anh chết đi cũng được. Thực sự chuyện này sẽ không ai cười chê đâu. Anh nghĩ vậy đấy. Anh ngu ngốc thật. Có lẽ anh đã sai ở chỗ nào rồi đây. Có lẽ anh có chút tự phụ ở chỗ nào đó đây. Có lẽ chính điều đó là một giấc mơ ngọt ngào. Cuộc sống đâu phải là một vở kịch chứ. Dù sao anh đã thua cuộc và gần chết rồi nên những lời nói riêng với em là hãy cố gắng lên thì đúng là sai lầm thật đấy. Ngay cả chó cũng còn không thèm ăn bữa tiệc từ mùi xú uế của xác anh khi vứt bỏ mạng sống của mình nữa. Có lẽ nó còn gây phiền hà cho người được cho nữa. Vì nếu không giúp ích gì cho sự phồn vinh của họ, thì điều đó có nghĩa gì đâu…”

Cửa sổ toa tàu chỉ im lặng, chắc chắn không có câu trả lời.

Kashichi đứng dậy, lảo đảo đi tìm nhà vệ sinh. Sau khi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại đàng hoàng, Kashichi do dự một chút rồi tập trung chắp hai tay lại. Dáng vẻ nguyện cầu. Không có chút làm bộ làm tịch nào cả.

Khi tàu đến ga Minakami thì đã là bốn giờ sáng. Trời vẫn còn tối. Lớp tuyết dày đáng lo ngại gần như đã tan hết, chỉ hai người còn lại trong bóng tối nhạt mờ nơi sân ga. Mặc dù nghĩ rằng với tình hình này mình có thể đi bộ đến suối nước nóng Tanigawa trong núi nhưng Kashichi vẫn thận trọng đánh thức người tài xế taxi đang ngủ phía trước nhà ga.

Chiếc xe lượn vòng theo hình dích zắc, chậm chạp bò lên trên núi. Tuyết bao phủ núi đồi ngập tràn đến mức nhuộm sáng cả bầu trời u tối.

“Trời lạnh thật đấy nhỉ. Tôi không ngờ lại lạnh như thế này. Ở Tokyo giờ này vẫn còn có người mặc áo vải serge mà đi dạo đấy chứ?”

Anh giải thích với người tài xế lúc chỉnh trang lại y phục của mình. “A, rẽ phải ngay chỗ đó nhé”.

Khi đến gần lữ quán, Kazue chợt trở nên hoạt bát. “Chắc giờ hai ông bà vẫn còn đang ngủ đấy chứ?”, rồi nàng nói tiếp với người tài xế. “Vâng, lên trước một chút nữa ạ”.

“Được rồi, dừng lại”, Kashichi nói. “Còn lại chúng ta đi bộ thôi”. Phía trước là con đường chật hẹp.

Rời khỏi xe taxi, Kashichi và Kazue cởi tất chân và cùng nhau đi bộ khoảng năm mươi mét đến chỗ lữ quán. Tuyết trên đường đang tan bám một lớp mỏng ướt át nguy hiểm vào đôi guốc hai người đang mang. Khi Kashichi định gõ cửa lữ quán, thì Kazue đang đi chậm phía sau anh một chút vội vàng chạy lên mà nói.

“Để em gõ cửa cho. Chính em đánh thức bà chủ dậy mới được”.

Vẻ mặt của nàng thật đúng như đứa trẻ đang muốn tranh công vậy.

Vợ chồng chủ lữ quán vô cùng kinh ngạc. Nói đúng hơn là họ hoảng hốt một cách thầm lặng.

Kashichi một mình xăm xăm lên tầng hai, vào căn phòng mà anh từng nghỉ lại mùa hè năm trước, với tay bật công tắc đèn. Anh nghe tiếng Kazue vọng đến.

“Tại vì chồng con cứ nhất quyết phải đến chỗ bà bằng được đấy mà. Nghệ sĩ đúng là trẻ con bà nhỉ?”

Kazue vui vẻ cười đùa như thể không để tâm đến lời nói đối đó. Nàng tiếp tục nói về chuyện ở Tokyo người ta đang mặc áo serge mà đi dạo ngoài đường.

Bà chủ lặng lẽ lên tầng hai, chậm chạp mở cánh cửa chớp rồi nói.

“Lâu rồi cậu mới đến nhỉ?”

Bên ngoài, trời đã sáng hơn mấy phần. Dãy núi trắng tinh gần như hiện ra ngay trước mắt. Khi Kashichi thử nhìn xuống thung lũng, anh có thể thấy lờ mờ một dòng sông đen đang chảy dưới lớp sương mù buổi sáng.

“Lạnh kinh người”, anh nói dối dù trời không lạnh đến mức như vậy. “Muốn uống rượu ghê”

“Cậu vẫn ổn cả chứ?”

“À, ổn lắm. Tôi mập ra đây này”.

Kazue tự mình mang lên một cái bàn sưởi kotatsu lớn.

“A nặng quá. Này bà ơi, con mượn cái bàn sưởi này của ông một chút nhé. Ông cũng nói con có thể mượn đấy. Lạnh ghê nơi”

Không nhìn về phía Kashichi, nàng cứ thế mà nói đùa chơi một mình theo cách rất kỳ khôi.

Nhưng khi chỉ còn lại hai người, nàng ngay lập tức trở nên nghiêm túc.

“Em mệt rồi. Giờ mình đi tắm rồi ngủ một giấc thôi anh”.

“Có lẽ mình xuống chỗ tắm lộ thiên phía dưới được đấy nhỉ?”

“Có lẽ được đấy anh. Ông chủ cũng nói ông xuống đó ngâm mình mỗi ngày mà”.

Ông chủ mang một đôi giày rơm lớn, tiếp tục giẫm lên lớp tuyết mới rơi hôm qua đã bị giẫm cứng tạo thành đường đi chỉ dẫn cho Kashichi và Kazue. Hai người theo sau xuống đến dòng sông dưới thung lũng trong ánh rạng đông. Hai người cởi kimono để trên tấm chiếu rơm do ông chủ mang đến rồi ngâm mình trong làn nước ấm. Thân hình Kazue thật đầy đặn tròn trịa. Thật không sao nghĩ được là tối hôm nay cơ thể đó sẽ trở thành vật chết.

Chờ cho ông chủ đi khỏi, Kashichi mới nói.

“Khu vực đó đấy nhỉ?”

Nói xong Kashichi hất cằm về phía dãy núi trắng với sương mù buổi sáng đang chậm chạp phủ vây.

“Nhưng tuyết dày quá. Không biết mình có leo lên được không anh?”

“Vậy thì mình đi xuống phía hạ lưu một chút. Phía ga Minakami tuyết không dày lắm đâu”.

Hai người cùng nhau thảo luận về nơi sẽ chết.

Khi trở về lữ quán, hai người đã thấy chăn mền trải sẵn. Ngay lập tức Kazue trườn vào và bắt đầu đọc tạp chí. Phía dưới chân nàng là một lò lửa lớn, có vẻ ấm áp vô cùng. Còn Kashichi cuộn tấm chăn của mình lại, ngồi khoanh chân trước bàn, sát với lò than và uống rượu. Mồi nhắm là cua đóng hộp và nấm đông cô sấy khô. Còn có cả táo nữa.

“Này, em có muốn ở thêm một đêm nữa không?”

“Vâng”, Kazue vừa đọc tạp chí vừa trả lời. “Em thì sao cũng được. Nhưng có vẻ mình không còn đủ tiền đấy anh”.

“Vậy mình còn khoảng bao nhiêu?”, Kashichi vừa hỏi vừa cảm thấy xấu hổ đỏ bừng mặt mũi.

Vẫn còn do dự. Đáng căm ghét. Điều cẩu thả nhất trên đời. Mình thật vô dụng. Mình vẫn còn chưa quyết ý như vậy phải chăng là vì vẫn còn quyến luyến ham muốn thân hình của người phụ nữ này chăng?

Kashichi khổ sở.

Mình còn ý muốn sống tiếp với người phụ nữ này nữa sao? Nhưng còn nợ nần, số tiền vay mượn bất chấp đạo lý thì sao? Thanh danh nhơ nhuốc, tiếng xấu nửa dại nửa điên thì phải làm sao đây? Nỗi khổ sở bệnh tật mà ai cũng mỉa mai không chịu tin thì phải làm sao chứ? Rồi còn gia đình họ hàng nữa chứ.

“Này, có vẻ như em phải chịu thua trước gia đình của anh rồi nhỉ. Có vẻ là vậy rồi”.

Kazue mắt vẫn nhìn vào quyển tạp chí, trả lời ngay lập tức.

“Đúng vậy. Dù sao em cũng là người con dâu mà không ai ưa nổi cả”.

“Không, không thể nói hoàn toàn như vậy được. Nhưng em cũng có một phần thiếu cố gắng nữa”.

“Đủ rồi đấy”, Kazue nói và ném quyển tạp chí đi. “Anh chỉ suốt ngày nói lý lẽ. Vì thế mà em rất ghét đấy”.

“A, ra vậy? Thì ra em căm ghét anh à? Thật là thất lễ quá đi”, Kashichi nói giọng say sưa lè nhè.

Tại sao mình không ghen tức nhỉ? Phải chăng mình quá tự phụ kiêu ngạo chăng? Chắc chắn là mình không căm ghét chính mình rồi? Mình có thể tin điều đó đấy. Mình cũng không thèm nổi giận nữa. Một người như vậy có phải là quá đỗi yếu đuối bạc nhược hay không? Có lẽ chính cái cách cảm nhận của mình như vậy mới là ngạo mạn không biết chừng? Nếu như vậy thì tất cả những suy nghĩ của mình đều là tệ hại hết cả. Cách sống của mình từ xưa đến giờ cũng đều là hư hỏng hết. Đó cũng chẳng phải là điều vô lý hay bí ẩn gì mà tại sao mình không thể đơn giản là cảm thấy căm ghét được chứ? Chẳng phải lòng ghen tuông như thế mới đơn thuần và đẹp đẽ hay sao? Chính cơn nổi giận lôi đình muốn trừng phạt kẻ ngoại tình mới là sự trung thực cao nhất chứ? Chính cái tư thế uất ức muốn chết đi vì bị đả kích do bị vợ mình phản bội mới là nỗi buồn thanh thuần chứ nhỉ? Nhưng mà mình là gì chứ? Mình là người do dự không dứt khoát, là người tốt, nào là đạo đức, tôn nghiêm, tiền vay mượn, trách nhiệm, sự nhờ vả, phản đề, nghĩa vụ lịch sử, gia đình họ hàng… A, không thể nào được.

Kashichi nghĩ mình muốn vung gậy loạn xạ để đập vỡ đầu mình.

“Ngủ một giấc rồi xuất phát. Quyết định vậy đi”.

Kashichi với tay lấy đại tấm nệm futon của mình rồi vùi người vào đó.

Có vẻ đã khá say nên Kashichi có thể ngủ được. Khi anh mơ màng thức dậy thì đã quá trưa. Kashichi không thể nào chịu nổi sự cô đơn hiu quạnh. Anh bật ngay dậy vừa nói lạnh quá lạnh quá rồi gọi người ở nhà dưới mang rượu lên.

“Này, dậy đi em. Mình xuất phát nào”.

Kazue ngủ với cái miệng he hé mở ra. Nàng mở mắt dậy thảng thốt.

“A, mình ngủ đến giờ này luôn à?”

“Không, chỉ mới quá trưa một chút thôi. Nhưng anh không chịu nổi nữa rồi”.

Mình không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa. Mình chỉ muốn chết thật nhanh thôi.

Rồi sau đó mọi chuyện diễn biến nhanh chóng. Kashichi để Kazue nói với ông bà chủ là hai người muốn đi tham quan suối nước nóng gần đây rồi rời lữ quán. Bầu trời xanh thoáng đãng, vì hai người vừa xuống núi vừa muốn ngắm quang cảnh trên đường đi nên không gọi xe taxi. Đi đến một quãng xa ngoái nhìn lại thì thấy bà chủ lữ quán đang chạy đuổi theo sau.

“Này bà chủ đang đến đấy”, Kashichi nói với vẻ bất an.

“Này, cầm lấy”, bà chủ lữ quán đỏ mặt đưa cho Kashichi một gói giấy.

“Vải sồi đấy. Tôi tự se sợi làm thành đấy. Không có gì đâu”.

“Cám ơn bà nhé”, Kashichi nói.

“Bà lo lắng cho chúng cháu quá”, Kazue nói. Rồi hai người cảm thấy nhẹ nhõm làm sao.

Khi Kashichi hăm hở bước đi thì nghe bà chủ nói.

“Đi cẩn thận nhé”.

“Chà bà chủ cũng giỏi giang ghê nơi”.

Phía sau hai người, bà chủ vẫn còn đứng chào. Kashichi đột nhiên quay người lại và nói.

“Bà chủ, bắt tay cái nào”.

Bị nắm tay thật chặt, vẻ mặt bà chủ trở nên ngượng ngùng và có phần sợ hãi nữa.

“Anh ấy say rượu đó mà”, Kazue đứng bên cạnh giải thích.

Thì ra say rượu à? Hai người chia tay bà chủ tươi cười rồi chậm chạp xuống núi. Tuyết đã mỏng dần. Kashichi bắt đầu thì thầm bàn bạc với Kazue là chỗ này nhỉ hay là chỗ kia thì được. Kazue nói thôi để gần phía ga Minakami hơn một chút để bớt cảm thấy cô đơn. Và rồi khu phố Minakami bắt đầu hiện ra dưới tầm mắt.

“Không còn do dự gì nữa hết nhỉ?”, Kashichi làm ra vẻ vui vẻ mà nói.

“Vâng”, Kazue nghiêm túc gật đầu.

Kashichi cố ý đi vào khu rừng sam phía bên trái con đường. Kazue lầm lũi theo sau. Tuyết gần như đã tan hết. Lá rụng chất chồng dày đặc ẩm ướt. Không sao cả, cứ tiến lên thôi. Chỗ dốc thì lần mò leo lên. Ngay cả cái chết cũng phải cần nỗ lực. Cuối cùng cũng tìm được bãi cỏ rộng đủ chỗ cho hai người ngồi. Chỗ này cũng có ít nắng rọi vào và cả một con suối nhỏ nữa.

“Chỗ này đi nhé”, hai người đã thấm mệt.

Kazue lấy cái khăn tay trải ra ngồi xuống và bị Kashichi cười chế nhạo. Kazue gần như im lặng. Kashichi lấy từng hộp thuốc ra và xé bao bì. Anh lấy thuốc ra và nói.

“Loại thuốc này anh rành lắm. Em chỉ cần uống chừng này là đủ thôi”.

“Sao ít vậy? Chùng này có đủ chết không anh?”

“Người mới sử dụng lần đầu chỉ cần như vậy thôi là đủ chết rồi đấy. Còn anh uống tùy tiện đã quen nên phải gấp mười lần em mới được. Nếu còn sống thì anh thật không thể nào nhìn em mà chịu nổi đâu”. Nếu còn sống thì đúng là ngục tù đấy.

Tuy vậy, chẳng phải việc mình để cho Kazue sống sót chính là cách trả thù ti tiện đó hay sao? Không lẽ lại giống tiểu thuyết thông tục viết để chiều lòng người đến thế? Kashichi thậm chí còn cảm thấy phát cáu lên, đổ hết thuốc đầy cả lòng bàn tay, rồi dùng nước suối mà uống cạn. Kazue thấy thế cũng vụng về lấy thuốc uống cùng.

Hai người hôn nhau rồi cùng ngả người nằm xuống.

“Chà, thôi vĩnh quyết từ đây. Người nào còn sống sót thì phải sống cho mạnh mẽ lên nhé”.

Kashichi biết rằng chỉ với số thuốc ngủ này thì mình vẫn chưa thể chết được. Anh lặng lẽ di chuyển thân mình ra đến rìa vách đá, tháo dây đai lưng áo, buộc ngang cổ, một đầu buộc vào thân cây gì giống như cây dâu để đến khi anh vừa thiếp ngủ thì người cũng trượt ra ngoài vách đá rồi bị siết cổ đến chết. Anh đã lên kế hoạch trước. Vì thế mà Kashichi mới cố ý chọn bãi cỏ trên vách đá này. Anh thiếp đi và lơ mơ nhận thấy mình bị trượt ngã.

Lạnh quá. Anh mở mắt ra. Trời đất tối đen. Ánh trăng lênh láng. Đây là nơi đâu?

Hốt nhiên anh nhận ra mình còn sống.

Kashichi đưa tay lên cổ. Dây đai lưng vẫn quấn chặt. Lưng anh lạnh ngắt. Anh đã trượt xuống vũng nước. Và bất chợt hiểu ra. Anh đã không rơi thẳng theo vách đá mà cơ thể anh nghiêng qua trượt xuống vũng nước trên mỏm đá thôi. Nước rỉ ra từ con suối đọng thành vũng lạnh đến nỗi anh muốn đông cứng lại từ đầu đến chân. Mình vẫn sống. Chưa thể chết được. Đây là một sự thực nghiêm túc. Nhưng trên tất cả, không được để cho Kazue chết. A, còn phải ráng sống, ráng mà sống thôi.

Tứ chi bải hoải, đứng dậy cũng chẳng phải dễ dàng gì. Dùng toàn bộ sức lực, Kashichi ráng ngồi dậy, tháo chiếc đai lưng một đầu đang buộc vào thân cây ra khỏi cổ, khoanh chân ngồi trong vũng nước, nhìn quanh quẩn. Không thấy bóng dáng của Kazue đâu cả.

Kashichi bò xung quanh tìm kiếm Kazue. Dưới vách đá có một vật thể màu đen. Nhìn giống như một con chó nhỏ. Khi anh lần mò bò xuống vách đá để nhìn cho kỹ hơn thì đúng là Kazue. Kashichi thử nắm lấy chân nàng xem thử thì thấy lạnh toát. Không lẽ chết rồi sao? Anh dùng lòng bàn tay đặt nhẹ lên miệng của Kazue để kiểm tra hơi thở. Không có. Ngu ngốc thật. Chết luôn rồi à? Sao ích kỷ như thế chứ? Tự nhiên anh cảm thấy tức giận một cách kỳ lạ. Kashichi thô bạo nắm lấy cổ tay Kazue để xem mạch đập. Mạch đập yếu ớt như tơ. Còn sống. Vẫn còn sống. Anh đưa tay lên ngực nàng thử xem. Vẫn còn ấm. Gì đây chứ. Thật là ngu ngốc mà. Mình ghét phải sống. Cũng ghê gớm, ghê gớm đấy. Anh thấy tội nghiệp quá đỗi. Chỉ với chừng đó thuốc làm sao có thể chết được cơ chứ. Cảm thấy chút gì đó như niềm hạnh phúc, Kashichi nằm xuống cạnh Kazue và sau đó anh cũng chẳng biết trời trăng mây gió gì nữa.

Khi Kashichi thức dậy lần thứ hai, anh thấy Kazue bên cạnh đang ngáy rền. Kashichi nghe thấy mà cảm thấy xấu hổ. Đúng là một người phụ nữ khỏe mạnh thật.

“Này, Kazue, tỉnh dậy đi em. Mình còn sống. Hai đứa mình vẫn còn sống cả đấy”. Kashichi vừa mỉm cười khổ sở vừa lay bờ vai của Kazue.

Kazue nằm ngủ rất yên bình. Những cây sam núi cao vút đứng lặng lẽ trong đêm khuya, nửa vầng trăng lạnh lẽo treo trên đầu ngọn cây hình mũi kim sắc nhọn. Không hiểu sao Kashichi trào nước mắt. Rồi anh bật khóc thổn thức. Mình vẫn còn là một đứa trẻ. Tại sao một đứa trẻ lại phải chịu đớn đau khổ sở như thế này?

Đột nhiên Kazue nằm bên cạnh anh hét lên.

“Đau quá bà ơi. Ngực con đau quá”, giọng nàng nghe như tiếng sáo.

Kashichi kinh ngạc. Giọng nàng lớn đến mức nếu có người đi qua nơi con đường dưới núi mà nghe thấy thì chắc chịu không nổi.

“Kazue à. Đây không phải là lữ quán đâu. Bà chủ không có ở đây đâu mà”.

Chắc chắn Kazue không hiểu. nàng cứ kêu gào đau lắm đau lắm rồi lăn lộn khổ sở nhào xuống phía dưới. Kashichi nghĩ không khéo con dốc thoai thoải này sẽ đưa thân hình Kazue xuống đến tận con đường phía dưới núi nên vội vàng ráng sức lăn người đuổi theo theo sau. Bị một cây sam lớn ngáng đường, Kazue bám chặt vào đó rồi gào lớn.

“Lạnh quá, bà ơi. Mang cho con cái lò sưởi kotatsu đi”.

Khi Kashichi tiến lại gần và nhìn khuôn mặt Kazue phản chiếu dưới ánh trăng thì thấy hình dáng nàng gần như không phải là con người nữa. Mái tóc sổ tung ra bám dính đầy lá mục, rối tung rối mù như thể tóc của nhân vật bị sư tử nhập trong kịch Kabuki, như tóc của Sơn mụ trong truyền thuyết.

Mình phải mạnh mẽ lên, chỉ còn lại một mình cũng phải mạnh mẽ lên. Kashichi lảo đảo đứng dậy, ôm lấy thân hình Kazue, cố sức đưa nàng về lại phía khu rừng sam. Ngã quỵ, bò lên, trượt xuống, bám vào thân cây, cấu cào mặt đất, từng chút từng chút, Kashichi đưa Kazue về phía khu rừng. Nỗ lực miệt mài suốt mấy tiếng đồng hồ liên tục.

A, thôi đủ rồi. Người đàn bà này quá nặng nề với mình. Nàng là người tốt nhưng quá thừa với mình. Mình là kẻ yếu ớt vô lực. Mình phải khổ sở vì con người này cho đến hết đời sao? Không được, chán rồi. Chia tay đi thôi. Mình đã cố gắng tận cùng sức lực. Đó là lúc Kashichi quyết tâm dứt khoát. Người đàn bà này không được. Chỉ có mình cứ bám víu mãi. Thôi người đời nói gì cũng mặc kệ. Mình sẽ chia tay với người đàn bà này thôi.

Bình minh đến gần, bầu trời chuyển sang màu trắng. Kazue cũng dần dần trở nên ngoan hiền trở lại. Sương sớm phủ khắp khu rừng.

Cứ đơn giản thẳng thắn thôi. Thẳng thắn đơn giản vào. Đừng cười sự đơn giản của từ “nam tính”. Con người không có cách sống nào khác hơn sống đơn giản đâu.

Kashichi cẩn thận dùng tay gỡ từng chiếc lá sam bám trên đầu Kazue đang nằm ngủ bên cạnh mình.

Mình yêu người đàn bà này. Mình yêu nàng mà không hiểu tại sao. Chính nàng là nguồn cơn của nỗi khổ đau của mình. Nhưng mà thôi đủ rồi. Mình đã có được sự mạnh mẽ để vừa yêu vừa cách xa. Để sống sót thì ngay cả tình yêu cũng phải hy sinh. Điều này chẳng phải là đương nhiên hay sao chứ? Con người trên thế gian này đều sống như vậy cả mà. Sống đương nhiên như thế. Đâu còn cách sống nào khác đâu. Mình không phải thiên tài cũng chẳng phải kẻ điên khùng gì.

Kazue cứ ngủ ngon lành cho đến quá trưa. Trong khoảng thời gian đó, Kashichi cứ vừa loạng choạng mà làm đủ việc như cởi bộ quần áo kimono sũng nước của mình phơi khô rồi đi quanh quẩn tìm đôi guốc của Kazue, chôn những hộp thuốc rỗng xuống đất, dùng khăn tay lau những vết bùn đất trên quần áo của Kazue.

Khi Kazue thức dậy và nghe Kashichi kể về chuyện đêm hôm qua, nàng liền vội cúi đầu.

“Xin lỗi anh”. Kashichi mỉm cười.

Kashichi giờ có thể đi bộ nhưng Kazue thì vẫn chưa. Hai người cứ ngồi yên một lúc lâu, bàn bạc chuyện hôm nay và về sau. Tiền bạc thì còn khoảng gần mười yên. Kashichi thì có ý muốn hai người cùng quay trở về Tokyo nhưng Kazue thì nói là bộ quần áo kimono của mình quá bẩn thỉu không thể cứ thế mà lên tàu được đâu. Cuối cùng hai người thống nhất phương án là Kazue sẽ đón xe taxi, quay trở lại lữ quán Tanigawa, nói dối với bà chủ là mình đi tản bộ đến chỗ suối nước nóng kia rồi bị té ngã mà lấm lem hết quần áo, rồi ở lại đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng còn Kashichi thì lên tàu về Tokyo trước mang theo tiền bạc và quần áo quay trở lại đón sau. Vì quần áo của Kashichi đã khô nên anh một mình rời khỏi khu rừng sam, xuống đến phố Minakami mua bánh gạo, kẹo caramal và nước chanh rồi quay về cùng ăn với Kazue. Kazue nhấp một ngụm nước chanh và nôn ra.

Hai người ở bên nhau cho đến khi trời tối. Cuối cùng Kazue cũng có thể nhúc nhắc đi lại được. Hai người cùng nhau lẻn ra khỏi khu rừng. Sau khi đón taxi cho Kazue quay về lữ quán suối nước nóng, Kashichi một mình trở về Tokyo bằng tàu lửa.

Sau đó Kashichi bộc bạch mọi chuyện với chú của Kazue và nhờ vả mọi chuyện còn lại. Người chú vốn kiệm lời, nghe thế thì nói.

“Thật là đáng tiếc quá”.

Vẻ mặt chú thể hiện sự tiếc nuối thật sự.

Người chú đi đón Kazue trở về cho nàng tá túc ở nhà mình.

“Con bé Kazue này cứ như con gái của ông bà chủ lữ quán vậy. Đêm đến nó cứ trải nệm futon giữa hai ông bà mà ngủ ngon lành. Đúng là kỳ lạ thật”. Người chú nói và lắc đầu cười. Ngoài ra không còn nói thêm bất cứ điều gì nữa.

Người chú này rất tốt. Cho dù là Kashichi đã chia tay hẳn hoi với Kazue mà vẫn không giữ kẽ gì, thỉnh thoảng vẫn cứ cùng Kashichi đi chơi bời uống rượu. Nhưng có đôi lúc, người chú như nhớ ra điều gì và bất chợt nói.

“Kazue cũng tội nghiệp thật đấy chứ”.

Mỗi lần như vậy, Kashichi lại cảm thấy yếu đuối và khó xử vô cùng.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn | Hải Âu – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

HẢI ÂU

Dazai Osamu

ひそひそ聞える。なんだか聞える。

Hãy nghe lời thì thầm. Người có nghe gì không?

“Tôi cười tôi khóc bâng quơ, người nghe người khóc có ngờ chi không?”

 (Bùi Giáng)

Hải âu là loài chim câm. Nghe như vậy hầu hết mọi người đều thản nhiên thừa nhận mà nói rằng à, ra vậy, có lẽ vậy nhỉ. Nhưng tôi nghe thế thì vô cùng hoảng hốt buồn thương mà thú nhận cảm xúc thất thường của mình là “Trời, sao tội vậy? Thật ư? Bị câm thì thật là buồn”. Đôi khi tôi cảm thấy mình như loài chim hải âu câm lặng đó.

Đã đủ tuổi chín chắn rồi vậy mà ban ngày vì buồn bã chán chường ra ngoài đi dạo, lấy chân đá vào viên sỏi nhỏ trên đường cho nó lăn lăn rồi đi một lúc lại lén lấy chân đá tiếp đến khi định thần thì thấy mình đã chạy đuổi mà đá cùng một viên sỏi đến hai ba quãng đường. Tôi lại đuổi theo đá tiếp. Cứ hai tay đút túi, đá viên sỏi rồi đi như một kẻ ngớ ngẩn ngu si. Quả thật mình là một kẻ bệnh tật quá nhỉ? Mình đã sống sai cách rồi. Có lẽ mình đã hiểu nhầm về việc viết tiểu thuyết. “Được rồi”, tôi thử cất lên một tiếng thì thầm với mình rồi lấy đà nhảy qua vũng nước giữa đường. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh với mây trắng lững lờ. Vũng nước sao mà đẹp quá, tôi nghĩ thầm. Hốt nhiên, gánh nặng trên vai được tháo xuống, tôi muốn mỉm cười. Chừng nào vũng nước nhỏ này còn tồn tại thì nghệ thuật của tôi sẽ có nền tảng mà dựa vào. Tôi quyết định mình sẽ không bao giờ lãng quên vũng nước đó.

Mình là một gã đáng hổ thẹn. Sống không có phương hướng gì hết. Có lẽ mình chỉ là một người trong số “đám đông” trôi dạt vô định ngả nghiêng phải trái theo từng con sóng đời đưa đẩy thôi chăng? Bây giờ mình lại lên chuyến tàu lửa tốc hành với tốc độ kinh người này để làm gì cơ chứ? Chuyến tàu này đi về đâu mình còn chẳng biết nữa mà. Mà cũng chẳng có ai chỉ cho mình biết. Tàu cứ thế mà chạy với những tiếng rền vang ầm ĩ. Bây giờ là qua núi, bây giờ là bãi biển, bây giờ là cầu sắt, vừa qua cầu thì đến một đường hầm tối tăm, và rồi cánh đồng trải rộng. Tàu đi mải miết, cảnh sắc cứ trôi miệt mài… Tôi bâng quơ thờ thẫn nhìn phong cảnh lướt qua cửa sổ toa tàu. Tôi dùng ngón tay vẽ vời dáng vẻ khuôn mặt nhìn nghiêng trên cửa kính rồi lại xóa đi. Ngày dần tàn, ngọn đèn điện trong toa tàu sáng lên hiu hắt. Tôi lần giở hộp cơm nghèo nàn mang theo ăn trong lặng lẽ. Món cá khô sao mà cô đơn vô hạn, tôi ăn không sót một hạt cơm nào, rồi hút điếu thuốc Bat giá chín xu. Đêm khuya rồi, mình phải ngủ thôi. Thế là tôi ngủ. Dưới gối, tiếng tàu nghiến trên đường ray rền rĩ. Dù vậy thì mình cũng phải ngủ thôi. Tôi nhắm mắt lại. Bây giờ tàu đang qua núi, bây giờ tàu qua vịnh biển…Giọng cô trinh nữ tội nghiệp hát bài ca đó như vang vọng từ dưới đáy thịnh nộ của tiếng tàu rền vang.

Có người nào mà không nhiệt tình ái quốc chứ? Nhưng tôi không thể nói ra điều đó. Tôi không thể trâng tráo nói lớn giọng về điều đó được. Từ trong đám đông, có lần tôi đã lén nhìn những người lính ra trận rồi khóc thút thít. Mình sức khỏe hạng ba. Bẩm sinh cơ thể đã yếu đuối bạc nhược. Ngay cả khi hít xà đơn, tôi cũng cứ thế treo người mà không thể làm nổi một động tác nào. Còn tập thể dục theo đài radio thì còn không tập hết bài luôn. Thân thể đã yếu ớt như thế mà tinh thần lại còn bạc nhược nữa. Đúng là hết thuốc chữa. Mình không có lấy một chút lực nào mà đi chỉ dẫn người ta. Ngay cả lòng ái quốc lặng thầm đây mình nào có thua ai mà không không thể nói ra được. Tôi cảm thấy như những lời tuyên ngôn ái quốc dâng trào đến tận cổ họng mà sao mình vẫn không thế nói được. Không phải là mình biết mà không nói. Lời sắp sửa trào ra khỏi họng luôn mà sao lại không thốt ra được. Tôi cảm giác đó là những lời rất đẹp đẽ và mình bây giờ đang nắm chặt lấy những ngôn từ kia rồi mà càng vội vàng thì nó càng chạy bay chạy biến đi mất. Chỉ còn tôi đỏ mặt tía tai, như kẻ ngu ngốc vô năng mà cứ thế đứng thẫn thờ. Mình không thể viết được một đoạn thơ về lòng ái quốc. Mình chẳng viết được điều gì cả. Có ngày những lời nói ấp ủ của tôi được trút ra với điệu bộ khổ sở thì chỉ là câu “chết đi, vạn tuế” mà thôi. Vốn chẳng biết phương pháp nào diễn tả sự trung thành ngoài cái sự chết ra thì tôi đúng là một gã quê mùa ngu ngốc quá.

Mình chỉ là một thị dân yếu đuối và nhỏ bé. Làm được một túi quà úy lạo nghèo nàn, liền đưa cho vợ bảo ra bưu điện gửi đi. Rồi từ chiến trường có thông báo biên nhận trang trọng gửi về. Tôi đọc những dòng chữ đó mà mặt mũi phừng phừng như lửa cháy. Thật xấu hổ làm sao. Nói cho đúng từ thì là sợ hãi đến mức co rúm cả người lại. Tôi chẳng làm được tích sự gì cả. Tôi chẳng thốt ra được lời nào kiên quyết mãnh liệt. Những câu yêu nước trâng tráo tôi không thể nào nói ra. Tôi chỉ có thể viết được những bức thư yếu đuối xun xoe gửi cho những người bạn ở chiến trường. (Nhưng bây giờ tôi đang viết thành thật về mọi thứ). Bức thư ủy lạo của tôi thật là tệ hại, chỉ toàn những lời dối trá mà thôi. Những lời giả dối nịnh bợ trâng tráo đến mức tôi cũng phải nghiến răng kinh ngạc. Tại sao như thế chứ? Tại sao mình lại trở nên ti tiện đối với những người lính đang ngoài chiến trường như vậy? Không phải là mình đã nỗ lực cả sinh mệnh để làm ra một thứ nghệ thuật tuyệt diệu sao? Ngay cả một niềm kiêu hãnh nhỏ nhoi duy nhất đó mà mình cũng đang tâm vứt bỏ à? Người bạn từ chiến trường cũng gửi về bản thảo truyện ngắn, nhờ tôi giới thiệu cho tòa soạn báo. Bản thảo đó viết đầy trên xấp giấy phương Tây, với những nét chữ nhàu nhĩ chen chúc bé như hạt gạo mà có truyện cũng khá dài, kín hết hai trang giấy. Tôi đọc nghiêm túc chăm chú. Không hay chút nào. Cảnh sắc nơi chiến trường được viết trong truyện chẳng có chút khác biệt gì với cảnh sắc tôi tưởng tượng ra khi chống cằm suy tư nơi cái bàn viết ở nhà mình cả. Không có một chút cảm động mới mẻ nào hết. Mặc dù bản thảo viết “tôi vô cùng cảm kích” thế nhưng cái nỗi cảm kích đó được nhồi nhét bởi thứ văn học phổ thông ra vẻ công phu cảm kích theo kiểu tiểu thuyết mà nói ngắn gọn lại thì đầy rẫy những tính chất nông cạn, hời hợt với những dòng tâm đắc tùy tiện mà thôi. Tôi chỉ cần nghĩ đến nỗi vất vả của những binh sĩ máu mồ hôi trộn với bùn lầy là đã thân thể đã dâng trào cảm xúc, kính ngưỡng đến mức không thể nói nên lời rồi. Nhưng bản thân cái từ “kính ngưỡng” nghe trắng trợn quá. Không thể nói được. Không tìm được từ gì để diễn tả. Tôi chỉ ngồi xổm xuống, dùng tay viết lên trên cát rồi lại xóa đi. Cứ miệt mài như vậy. Không thể nói được, không thể viết được gì.

Tuy nhiên trong nghệ thuật thì khác. Mọi người có thể cất tiếng cười trước một nghệ sĩ đường phố già, răng móm mém, lưng còng hơi thở khò khè mà ngay cả mình cũng không nỡ nhìn đang ra sức kéo đàn violon nơi góc đường nhỏ tối tăm kia không? Tôi thấy mình cũng giống như thế. Ngay từ đầu tôi đã là kẻ thảm bại trong xã hội này rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn nghệ thuật. Nói đến chủ đề này thật ra tôi cảm thấy vô cùng lúng túng và cũng chẳng đủ năng lực để bàn đến nhưng tôi định chuyên tâm tìm hiểu cho thật rốt ráo rõ ràng. Tôi nghĩ vậy cũng đủ cho sự nghiệp cả một đời nam nhi chi chí. Ngay cả nghệ sĩ đường phố thì cũng có vương quốc của riêng mình. Tôi đọc mấy truyện ngắn mà những người lính kia viết đều cảm thấy không đạt. Có lẽ vì tôi đã kỳ vọng vào xấp bản thảo kia quá nhiều. Thế nhưng tôi nghĩ những truyện ngắn đó đáng ra phải có một tư tưởng hay mối cảm động hoàn toàn tươi mới mà đối với người xếp hạng ba vì sức khỏe kém không thể ra tiền tuyến như mình không thể nào cảm nhận hay nghĩ ra được mới phải chứ. Phải có điều gì đó rộng lớn mênh mang cùng khắp mới phải. Tác phẩm phải tràn đầy sự cảm động và nỗi kinh hoàng vĩnh viễn như thể nhìn thấy thần linh trước mặt mình chứ. Tôi muốn được biết những điều như vậy. Không cần phải làm cử chỉ điệu bộ gì gớm ghê. Một chút thôi cũng được mà. Chỉ cần viết ra một chút cảm kích và lời nguyện cầu chân thật với mình gửi vào một đóa hoa cũng tốt thôi. Chắc chắn là phải có chứ. Tất cả những sự tươi mới đều nằm nơi đó cả. Nói nghe có vẻ kệch cỡm khoa trương nhưng tôi hiểu được điều đó vì có chút trực giác của người làm nghệ thuật. Tuy nhiên tôi không thể nói cụ thể ra được. Vì tôi không biết gì về cảnh chiến trường mà. Tôi cũng không phải là loại người huênh hoang viết tùy tiện những cảm xúc đời thường mà mình chưa từng trải như thể đúng rồi đâu. Mà, không phải, có lẽ là vì tôi bất tài. Nhưng tôi tuyệt đối không thể viết ra được điều gì mà mình chưa từng đích thân trải nghiệm. Ngoài việc nắm chắc lấy cái thế giới nhỏ bé mà mình tin tưởng thì tôi chẳng thể làm gì khác. Tôi biết thân biết phận của mình. Chuyện nơi chiến trường thì đành phải nhờ tất cả vào những người lính nơi chiến trường mà thôi.

Tôi đọc kỹ những bản thảo của những người lính. Tiếc là không hay. Tác phẩm không nói ra được những điều mình tận mắt chứng kiến mà lại kể chuyện chiến tranh bằng những từ ngữ của thứ văn học xấu xa mình được đọc. Người không biết gì chiến tranh lại đi kể chuyện chiến tranh rồi nhận được những lời tán tụng tung hô ngu ngốc từ những người nơi bản quốc thế rồi kiểu cách đó được sao chép đến cả những người lính vốn tường tận về chiến tranh. Đã không biết về chiến tranh thì đừng viết chứ. Đừng làm những chuyện dư thừa không đâu như vậy nữa. Chẳng phải điều đó ngược lại càng gây thêm phiền phức hay sao? Tôi đọc tiểu thuyết của những người lính, cảm thấy căm ghét những “kẻ viết về chiến tranh bằng cách nhìn chiến tranh qua kính viễn vọng” đến mức không tài nào chịu nổi. Chính thứ văn chương hay ho của các người đã phá tan đi “cặp mắt nhìn sự vật” của những người lính thuần khiết đấy. Đó chỉ là ngôn từ của những kẻ làm văn học nơi xứ Nhật Bản này nói ra thôi chứ đối với những người lính trải nghiệm trực tiếp sinh tử nơi chiến trường, những lời đó chẳng nói lên được gì cả. Chẳng phải họ gắng sức viết dưới ngọn nến khi đã có chút thư thả lúc mệt mỏi rã rời hay sao? Chỉ cần nghĩ như thế là thấy rõ rằng đâu có chỗ nào để mà triển khai mỹ học của mình hay suy ngẫm về nghệ thuật đâu. Bức thư đính kèm xấp bản thảo còn ghi thêm rằng ngày mai sinh mệnh tôi thế nào còn không biết nên nhờ cả vào anh cả đấy nữa chứ. Thực tình đối với xấp bản thảo này tôi đã có chút công phu sắp xếp lại (thực ra thì tôi đâu có tư cách gì mà nói vậy). Tôi nói với vợ mình viết lại xấp bản thảo với những con chữ trên xấp giấy nhàu nhĩ sang giấy bản thảo chuyên dụng Nhật Bản bốn trăm chữ một tờ. Thành ra có truyện dài nhất chiếm đến ba mươi mấy tờ bản thảo. Rồi tôi gửi đi những nhà xuất bản tạp chí khác nhau. Tôi viết thêm vài dòng gửi gắm là “Tuy đây là những ngôn từ bộc trực nhưng có vẻ đây là một tác phẩm hay nên có gì nhờ anh giúp đỡ. Một kẻ bất tài vô đức như tôi lại mang bản thảo của những người lính đến gửi chỗ ông thì có vẻ đường đột nhưng tôi thấy những tình cảm chân thành của con người là một điều khác biệt với bản thân tôi. Đối với tôi…”. Khi viết như vậy tôi thấy khựng lại, không xong rồi. Gì mà “Đối với tôi…” cơ chứ? Dối trá cũng vừa phải thôi. Mày bây giờ là thứ rác rưởi của loài người đấy. Có biết không hả?

Tôi biết điều đó chứ. Biết đến mức chán chường. Thế nên tôi mới khựng lại giữa chừng đấy thôi. Năm năm trước tôi đã có thời gian bị loạn thần kinh. Đến khi khỏi bệnh được xuất viện, tôi đứng một mình thờ thẫn trên cánh đồng bị thiêu cháy. Chẳng còn lại một chút gì. Đúng nghĩa là chỉ còn một manh áo mặc trên ngưởi thôi. Còn lại toàn đồ đi vay mượn không trả. Hoa mướp nở bên căn nhà bị thiêu cháy trong cơn sấm chớp. Tôi hiểu nỗi đau đớn trong câu thơ của người xưa kia đến mức thiêu đốt cả lồng ngực. Tôi đã bị tước đoạt cả tư cách làm người.

Bây giờ tôi không thể viết thổi phồng sự thật nữa. Tôi nghĩ vì tôi lưu ý cẩn thận điều này nên độc giả mới tin tưởng tôi. Cái lối khoa trương kênh kiệu tự mãn là điều tôi căm ghét nhất trên đời. Người ta hoàn toàn chẳng xem tôi ra gì cả. Cho dù tôi nói gì đi nữa, người ta cũng chỉ nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, hay lén nhìn mặt tôi rồi bỏ đi. Những điều thêu dệt hay những bức tranh biếm họa về tôi giống như những nụ cười chế giễu tinh quái về tôi lan truyền không ngừng nghỉ vậy mà tôi chẳng biết chút gì, cứ đi ngáo ngơ ngoài phố. Trong khoảng một hai năm sau, dần dần thằng tôi ngu độn cũng đã từ từ hiểu được chân tướng. Theo như đồn đại của người đời thì tôi đã hoàn toàn là một kẻ cuồng. Hơn nữa còn là cuồng trí từ lúc mới sinh ra. Từ sau khi biết được điều đó, tôi trở nên câm lặng. Không muốn gặp ai cũng không thiết nói gì nữa. Cho dù bị người ta nói gì đi nữa, tôi cũng chỉ mỉm cười cho qua.

Tôi đã trở nên dịu dàng và bao dung hơn.

Từ đó đến giờ đã năm năm trôi qua. Dường như người ta vẫn còn nghĩ tôi là kẻ bán cuồng, dở hơi thì phải. Có những người dù chưa từng gặp tôi lần nào cả nhưng chỉ cần nghe thấy tên tôi hay những đồn đại liên quan đến tôi thôi mà lỡ chạm mặt tôi ở nơi nào đó là như thể nhìn thấy thứ gì gớm ghiếc khó chịu lắm, rồi đảo mắt nhìn tôi với ánh mắt vô lễ đến mức không thể tả thành lời. Tôi biết rõ hết. Có lần tôi đứng trong nhà vệ sinh còn nghe ngay sau mình một giọng nói lớn vọng đến tai tôi  “Chẳng phải cái thằng cha đó là Dazai điên khùng hay sao?” nữa. Mỗi lần như thế tôi lại có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Các người không nhận ra là tôi đã chết lâu rồi à? Chỉ có chút linh hồn là còn sống theo cách nào đó thôi.

Tôi bây giờ không còn là con người nữa. Nghệ thuật gia đúng là một loại sinh vật kỳ quái. Luôn nghĩ mình mang vác cái xác thân đã chết này đến sáu mươi tuổi thì sẽ trở thành một đại tác gia. Tìm kiếm bí mật trong những trang văn mà xác chết đó viết chỉ là vô ích. Cho dù cố gắng bắt chước văn chương của một vong hồn đã chết thì cũng vô vọng mà thôi. Nên bỏ đi là hơn. Dường như có người bạn đang thì thầm vào thằng tôi đang mỉm cười này là “Dazai ngu độn ơi” vậy. Chỉ có thể nói ra từ ngu độn mà thôi sau đó không còn nói gì được nữa. Chỉ cần tin điều này thôi. “Tôi sẽ không phản bội cậu đâu mà”.

Tôi đã đánh mất đi tự ngã của mình. Rồi sau đó thì không còn muốn nói gì nữa. À, còn có thể nói thêm một điều nữa. Kẻ nào không tin tôi là thằng ngu.

Lại nói về chuyện bản thảo của những người lính. Tôi kìm nén sự xấu hổ mà mang gửi gắm cho biên tập viên tạp chí. Thỉnh thoảng có truyện cũng được đăng. Rồi khi nhìn thấy mục giới thiệu quảng cáo tạp chí đó trên một tờ báo lớn, tên của người lính đó đứng ngang hàng với những tiểu thuyết gia nổi tiếng, tôi vui mừng gấp đôi so với khi mẩu truyện nhỏ của tôi được đăng trên tạp chí văn nghệ sáu năm về trước. Thật tạ ơn đời. Tôi vội vàng chạy đến cảm tạ biên tập viên không ngớt lời rồi cắt bài quảng cáo đó gửi ra chiến trường. Thấy mình thật có ích. Đây là sự cống hiến hết mình cho đất nước của tôi rồi. Tôi cũng nhận được bức thư vui mừng cảm tạ từ chiến trường gửi về nữa. Một thời gian sau tôi còn nhận được thêm bức thư cảm tạ của người vợ nơi quê nhà của người lính kia gửi đến. Đúng là một cống hiến nơi hậu phương còn gì nữa. Thế nào? Tôi vẫn là gã suy đồi à? Tôi vẫn còn là gã xấu xa sao?

Tuy nhiên tôi không nói cho ai biết chuyện này cả. Đây là chuyện đàn bà con trẻ nên làm chẳng đáng gì để mà khoe khoang. Tôi chỉ là một kẻ ngốc, viết thứ tiểu thuyết vui chơi, hững hờ bên dòng thời cuộc. Tôi biết thân biết phận mình. Tôi chỉ là một gã thị dân bé nhỏ. Chẳng thể nào đưa ra hiệu lệnh cho thời cuộc gì được cả đâu. Cho nên thỉnh thoảng chỉ rời khỏi nhà, lang thang trong cô độc, đá qua đá lại mấy viên đá trên đường thôi. Có lẽ tôi bệnh thật rồi? Có lẽ tôi đã hiểu sai về tiểu thuyết rồi cũng nên. Cho dù tôi thử phủ định điều đó đi nữa thì lại cũng chẳng có chút tự tin nào. Không tìm ra lời nào xác đáng cả. Cho dù cảm thấy lời sắp trào ra khỏi cổ họng rồi mà sao vẫn không hiểu. Tôi là một kẻ phiêu giạt, cứ mặc cho con sóng đẩy đưa và luôn luôn cô độc. Được rồi, tôi ráng sức nhảy qua vũng nước và cảm thấy nhẹ nhõm. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh và mây trắng lững lờ trôi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy nhẹn nhõm một cách u sầu. Tôi lần bước trở về nhà.

Khi tôi về đến nhà thì thấy người của tạp chí đang chờ đợi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có nhân viên tòa soạn báo hay tạp chí ghé thăm hỏi han tình hình. Căn nhà tồi tàn của tôi nằm sâu khuất nẻo ở Mikata, giữa vùng vườn tược thế mà cậu ta bỏ gần cả ngày trời đi quanh tìm kiếm mà ghé thăm, vừa lau mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng vừa nói trời, nhà anh ở xa thật đấy nhỉ. Vì tôi chỉ là một tác giả vô danh, không ăn khách gì cả nên mỗi lần như thế tôi đều sợ hãi khó xử.

“Bệnh tình của anh đã đỡ rồi chứ?”. Thế nào tôi cũng được hỏi như thế ngay câu đầu tiên. Vì đã quen nên tôi cứ thuận miệng trả lời.

“Tốt rồi, còn khỏe hơn cả người thường nữa đấy chứ”.

“Hiện giờ tình trạng của anh ra sao?”

“Chuyện của năm năm trước đấy mà”, tôi trả lời cho qua. Tôi không muốn nói là mình đã bị điên khùng.

“Theo như lời đồn đại” thì, anh bắt đầu nói thẳng “có vẻ tình hình của anh rất tệ đấy”.

“Tôi cứ uống rượu là bệnh tự khỏi thôi”.

“Thế thì thật kỳ lạ nhỉ?”

“Tại sao lại thế nhỉ?”, cả chủ và khách đều lấy làm lạ lùng. “Có lẽ là bệnh không khỏi nhưng tôi quyết định là nó đã khỏi rồi. Chuyện này vốn dĩ không có kết thúc mà”.

“Anh uống rượu nhiều lắm à?”

“Thì cũng uống như người ta thôi mà”.

Chỉ đối đáp đến như thế thì còn ổn thỏa được nhưng càng về sau thì càng lạc lối. Câu chuyện dần trở nên không đầu không đuôi và vô cùng lộn xộn.

“Anh nghĩ như thế nào về mấy truyện ngắn của người đó?”. Khi nghe hỏi vậy thì tôi hoàn toàn mất phương hướng và hoang mang. Tôi không tìm ra từ nào để nói ra cho thật rõ ràng.

“À, thực ra tôi vẫn chưa đọc kỹ nhưng chắc cũng có điểm hay chứ nhỉ? Nếu mà đọc được thì cũng thấy khá là cảm động. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mọi người ai cũng có thể viết văn trơn tru được như thế nữa. Hoàn toàn không có ý gì mỉa mai ở đây đâu. Tại vì có có một sức khỏe thể chất sung sức mà. Thực sự thì họ đều viết rành mạch không vấp váp gì cả”.

“Thế anh đã đọc mấy truyện ngắn của anh A chưa?”

“À, vì có thấy đăng trên tạp chí nên tôi cũng có đọc”.

“Anh thấy có tệ lắm không?”

“À, bản thân tôi thì thấy thú vị. Chẳng phải còn có nhiều tác phẩm khác tệ hơn nữa hay sao chứ? Tôi không cố ý phê phán chỉ trích gì đâu. Như thế nào à? Tại vì tôi không biết rõ mà?”. Câu trả lời của tôi không phải kiểu mập mờ nước đôi của kẻ giảo hoạt mà đúng ra thì đó là sự mập mờ xuất phát từ một tâm hồn thấp kém. Tôi cảm thấy ai cũng giỏi giang hơn tôi hết cả. Khi hiểu ra được là ai cũng đang cố gắng hết sức tận tâm tận lực để sống còn khiến tôi không còn có thể nói gì hết.

“Anh có biết ông B không?”

“À, có biết”.

“Lần này tôi định thúc giục ông ấy viết một quyển tiểu thuyết mới”.

“A, điều đó nghe hay đấy. Ông B là một người rất tốt. Chắc chắn ông ta sẽ viết cho mà xem. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ viết ra một tác phẩm tuyệt diệu. Ông B trước đây cũng đã từng giúp đỡ tôi nhiều mà”. Tôi có lần đã mượn tiền ông ta.

“Thế còn anh thì sao? Có viết được gì không?”

“Tôi thì không được rồi. Hoàn toàn bế tắc. Toàn viết ra những điều tệ hại. Có lần viết thử truyện yêu đương mà thành ra giọng điệu diễn thuyết đến nỗi tôi phát chát và tự cười mình luôn”.

“Làm gì có chuyện đó chứ? Cho đến bây giờ chẳng phải anh là ngọn cờ đầu của thế hệ trẻ hay sao?”

“Đừng đùa như vậy chứ. Dạo này tôi như tiến sĩ Faust vậy. Giờ đây tôi đã hiểu rõ những lời lẩm bẩm trong thư phòng của ông tiến sĩ già đó rồi. Mình đã quá đỗi già nua. Nghe nói Napoleon mới ngoài ba mươi tuổi đã than thở “mảnh đời tàn” của ta mà. Biết được điều đó khiến tôi thấy quá đỗi thú vị”.

“Không lẽ anh cảm thấy mình đang sống mảnh đời tàn dư sinh hay sao?”

“Tôi đâu phải là Napoleon, quả thực tôi quá khác biệt với ông ta. Nhưng đôi lúc bất chợt tôi cảm thấy mình đang sống những năm tháng còn lại của đời tàn tạ. Tôi cũng chẳng đọc vạn quyển sách như tiến sĩ Faust dù đôi lúc tôi cũng cảm giác trống rỗng hư vô giống như ông ta vậy”. Chà, mình lại nói năng loạn xạ hết cả rồi.

“Thực ra cảm thấy chuyện đó cũng đành phải chịu thôi. Xin thất lễ chứ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

“Ba mươi mốt rồi”.

“Vậy anh còn trẻ hơn anh C một tuổi. Mà anh C lúc nào tôi gặp cũng thấy khỏe lắm. Bình luận văn học nói năng rành mạch lưu loát ghê. Quả nhiên anh ta có cặp mắt rất tinh đời”.

“Đúng vậy, anh C vốn là tiền bối ở trường cấp ba ngày xưa tôi học. Cặp mắt anh ấy lúc nào cũng sáng ngời nhiệt tình. Từ bây giờ chắc anh ta sẽ dồn hết tâm huyết cho văn chương đấy. Tôi rất thích anh ta”. Năm năm trước đây, tôi đã gây cho anh C phiền phức không biết bao nhiêu mà kể.

“Còn với riêng anh”, người khách có vẻ tức giận vì những lời đối đáp mập mờ của tôi liền đổi giọng điệu mà hỏi. “Thường người ta viết tiểu thuyết vì một tín điều nào đó. Ví dụ như chủ nghĩa nhân văn, tình yêu, hay chính nghĩa công bằng xã hội, cái đẹp…đại khái là thế, Còn anh từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay và từ bây giờ trở đi nữa, anh có một tín điều nào hay không?”

“Có chứ, đó là sự hối hận”. Lần này giống như nhịp điệu hô ứng tương đồng, tôi có thể cất giọng trả lời ngay lập tức. “Văn học mà không có sự hối hận thì chẳng là gì cả. Hối hận, tự thú và phản tỉnh đó là những thứ chắc chắn được sinh ra từ nền văn học cận đại, không từ tinh thần cận đại đấy. Vì thế cho nên…”, tự nhiên tôi lại ngắc ngứ.

“Quả nhiên là vậy”, vị khách cũng liền hưởng ứng. “Đúng là văn đàn đang thiếu trào lưu này. Vậy chắc là anh thích những tác giả như Kajii Motojirou lắm nhỉ?”

“Dạo này không hiểu sao tôi càng lúc càng trở nên hoài niệm. Có lẽ tôi trở nên thủ cựu, cũ kỹ mất rồi. Chẳng thấy có thứ gì có thể khích lệ động viên tâm hồn mình cả. Mà đừng nói là động viên, nó còn làm tôi xấu hổ vì cảm thấy mình nhơ nhớp nữa. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “nghiệp báo” cho lắm nhưng tôi cảm thấy điều đó gần đúng với bản thân mình. Đứa con tội lỗi rồi thì mục sư, không biết nói thế nào cho phải. Tôi đã làm nhiều điều ác đức, tôi ý thức mình là một tên dơ bẩn. Vì không thể nào làm tiêu tan cái ý thức đó nên tôi lúc nào cũng đê tiện. Dù tôi lúc nào cũng im lặng khổ sở nhưng mà…”. Tôi định nói tiếp nhưng lại ngắc ngứ nữa. Tôi định nói về Kinh Thánh. Tôi định nói Kinh Thánh đã cứu vớt tôi nhưng vì xấu hổ quá nên không thể nói. Sự sống chẳng phải quý trọng hơn đồ ăn sao, thân thể chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy nhìn chim bay trên trời, chẳng có gieo gặp cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng. Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào. Chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ. Nhưng dẫu vua Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như hoa nào trong giống đó. Loài cỏ ngoài đồng nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp đẽ thay huống chi là các người. Các ngươi chẳng phải quý trọng hơn loài chim sao…Những lời khích lệ của Thánh Kinh đã có lần cho tôi thêm nghị lực sống. Tuy nhiên bây giờ tôi ngại ngùng xấu hổ quá nên không thể nói ra được. Cái gọi là niềm tin mà mình giữ trong im lặng thực sự tôi có không nhỉ. Ngay cả từ “niềm tin” tôi cũng thấy mình khó có thể nói ra được rõ ràng.

Sau đó chúng tôi lan man sang nhiều chuyện khác nhưng chắc vị khách có vẻ thất vọng vô cùng vì cách nói mơ mơ hồ hồ của tôi nên sửa soạn ra về. Tôi cảm thấy vô cùng tội nghiệp cho anh ta. Vì không nói được điều gì rành mạch rõ ràng cả nên cứ lan man chuyện này chuyện kia cuối cùng chẳng nắm bắt được gì hết cả. Tôi cứ thờ thẫn ngu độn mà nghệch mặt ra. Chắc chắn anh ta nghĩ rằng từ giờ trở đi tôi sẽ có thể phát huy tài năng nên đến xem thử tình hình ra sao đây mà. Tôi hiểu rõ sự tử tế của anh ta nhưng chính vì vậy mà tôi càng khổ sở không cùng. Sau khi vị khách về rồi, tôi cứ ngồi thẫn thờ trước bàn làm việc, nhìn cánh đồng Musashino ngả bóng chiều loang. Thế nhưng tâm tư không khởi một niềm cảm khái mới mẻ nào mà chỉ cảm thấy nỗi sầu cô đơn vô hạn.

Khi con đi trên đường với kẻ tố cáo mình, hãy nhanh chóng hòa giải với người ấy; nếu không, người ấy sẽ nộp con trước quan tòa, quan tòa giao cho cai ngục và con sẽ bị bỏ tù. Thật, ta bảo con, con sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Tôi bất chợt nghĩ có lẽ nào địa ngục lại một lần nữa đến tìm mình chăng? Cảm giác bất an như nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển từ đáy sâu đáng sợ vọng đến. Có lẽ chỉ có mình tôi như vậy chăng?

“Này, đưa anh chút tiền đi em. Nhà mình còn bao nhiêu thế?”

“À, còn khoảng bốn năm yên gì đó”.

“Anh xài có được không?”

“Được nhưng nhớ để lại cho em chút chút”.

“Anh hiểu rồi. Khoảng chín giờ tối anh về nhé”.

Tôi cầm cái ví vợ đưa cho rồi rời khỏi nhà. Trời đã hoàng hôn. Sương mù lẩn khuất giăng mờ lối đi.

Tôi đến quán sushi gần nhà ga Mitaka. Mang rượu ra đây. Giọng nói sao mà sa đọa ghê gớm. Mang rượu ra đây. Một cung cách cũ mèm. Không biết tôi đã lặp lại câu này mấy trăm mấy ngàn lần rồi nhỉ? Những lời bẩn thỉu ngu ngốc. Nếu bây giờ có gã thanh niên nào than vãn khổ sở vì thời thế, làm ra vẻ nghiêm túc đắc ý uống rượu say quên đời, chắc chắn tôi sẽ đấm cho gã một phát. Đấm không chần chừ do dự. Nhưng tôi bây giờ có khác gì gã thanh niên đó đâu? Chẳng phải như nhau ư? Chỉ khác biệt về tuổi tác mà điều đó lại càng làm mình bẩn thỉu hơn thôi. Cứ vênh váo đắc ý mãi vậy.

Tôi uống rượu với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Cho đến giờ tôi đã uống mấy ngàn mấy vạn thăng rồi nhỉ. Tôi vừa cảm thấy căm ghét vừa tiếp tục uống. Tôi chưa từng nghĩ rượu ngon lành chỗ nào. Thứ đắng nghét đó tôi không hề muốn uống. Tôi muốn từ bỏ. Tôi nghĩ uống rượu là một loại tội lỗi. Chắc chắn là tội lỗi. Thế nhưng rượu đã cứu vớt đời tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Có vẻ vì tôi là một khối tội lỗi nên thích hợp uống rượu để dùng độc trị độc chăng? Rượu giúp tôi khỏi phát điên, giúp tôi tránh khỏi việc tự sát. Tôi là một người yếu đuối ti tiện đến mức nếu không uống rượu để lừa gạt cảm xúc của mình thì không thể nói chuyện với bạn bè đàng hoàng được.

Tôi đã chếnh choáng say. Cô phục vụ ở quán sushi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nghe nói cô đã lập gia đình nhưng ly hôn rồi đến làm việc ở đây.

“Mình à”, cô nói và ghé sát chỗ bàn tôi ngồi. Vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. “Chuyện này nghe hơi kỳ lạ một chút nhưng mà”, cô xoay người nhìn về chỗ quầy tính tiền rồi hạ giọng thì thầm. “Không biết trong số bạn bè quen biết của mình có thể lấy một người như em không nhỉ?”

Tôi nhìn chăm chú vào mặt cô ta. Đúng là cô phục vụ rất nghiêm túc, không cười một chút nào. Ngay từ đầu cô đã là người đàng hoàng nghiêm túc nên chắc không có vẻ gì là bỡn cợt đùa giỡn tôi đâu.

“Chà, chuyện này”, tôi cũng không thể không nghiêm túc. “Không phải là không có đâu nhưng sao lại nhờ tôi chuyện này cơ chứ?”

“À, em định sẽ nhờ hết những người khách dễ tính đến quán này giúp em luôn”.

“Kỳ lạ thế nhỉ?”, tôi khẽ mỉm cười.

Cô phục vụ cũng nhếch một bên má mà cười.

“Càng ngày em càng có tuổi. Mà lại truân chuyên một lần đò rồi nên người già chút cũng không sao hết. Em cũng chẳng mong cầu được chỗ tốt đẹp như người ta đâu”.

“Chà ba chuyện này thì tôi cũng không biết gì”.

“Cũng không vội vàng gì đâu mà. Mình cứ lưu tâm giúp em là được. À, mà em cũng có danh thiếp đây”. Cô ta nói rồi vội vàng lấy ra cái danh thiếp nhỏ giấu trong ống tay áo. “Mặt sau danh thiếp em có ghi địa chỉ chỗ này cho nên nếu tìm được người thích hợp mình vui lòng gửi danh thiếp hay gì đến đây báo em biết trước nhé. Rất xin lỗi đã làm phiền mình nhiều. Cho dù người ta có mấy đứa con riêng em cũng không phiền hà gì đâu”.

Tôi im lặng cầm lấy tấm danh thiếp, nhét vào tay áo.

“Để tôi tìm thử xem nhưng tôi không thể hứa trước gì đâu. Phiền cô tính tiền giùm nhé”.

Tôi rời quán sushi, trên đường quay về nhà cứ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một phần của xu hướng, trào lưu hiện đại. Một thế kỷ nghiêm túc đến mức trắng trợn. Chúng ta không thể tác động vào được chút gì. Về đến nhà tôi lại trở nên câm nín. Tôi im lặng đưa cái ví đã vơi bớt mấy phần cho vợ mình, định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Tôi ăn món cơm trà rồi đọc báo buổi chiều. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Bây giờ qua núi, bây giờ qua vịnh, qua chiếc cầu sắt bắt ngang… Bài ca của người thiếu nữ sao mà buồn thảm.

“Này than còn đủ dùng không em. Anh nghe nói là thiếu hụt ghê lắm”.

“Không sao đâu anh. Báo đài làm quá lên thôi. Đến lúc đó thì tùy hình mà xoay xở vậy”.

“Đúng nhỉ. Em trải mền ra giùm anh đi. Tối nay anh ngừng viết một đêm để nghỉ ngơi”.

Hơi rượu đã tan. Mỗi khi tỉnh rượu tôi lại trằn trọc khó ngủ. Giả vờ ngủ ngáy lớn tiếng một chút rồi tôi dậy đọc tờ báo phát hành buổi chiều. Tự nhiên tôi thấy tờ báo hiện đầy những khuôn mặt cười giả lả đê tiện rồi thoáng chốc lại biến mất đi. Tôi nghĩ thầm tất cả đều đê tiện thật. Tất cả đều không có chút tự tin nào. Tôi ném tờ báo đi, dùng hai lòng tay áp lên tròng mắt một lúc lâu. Tôi tin rằng làm như vậy mình sẽ nhanh chóng buồn ngủ. Tôi nhớ lại vũng nước sáng nay. Chừng nào vũng nước kia còn thì mình cũng tiếp tục… tôi nghĩ. Tôi cố gắng bắt mình phải nghĩ như thế. Quả nhiên tôi là một nghệ sĩ đường phố. Cho dù khổ sở đến mấy thì tôi cũng chỉ còn cách tiếp tục chơi chiếc đàn violon của riêng mà thôi. Đường hướng của con tàu đi cứ giao cho những nhà chí sĩ vậy. Hai từ “chờ đợi” chợt hiện ra sáng ngời trên trán của tôi. Chờ đợi điều gì tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng đó là một từ cao quý. Loài chim hải âu câm nín kia cứ lang thang quanh quẩn ngoài khơi nghĩ như thế nhưng vẫn tiếp tục im lặng mà luẩn quẩn loanh quanh.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Cafe sáng