Sáng tác

Truyện ngắn: Quả thận đá nhảy nhót mỗi ngày (Murakami Haruki)

Published

on

Hồi Junpei vừa tròn 16 thì bố gã đưa ra cái nhận định đáng giật mình ấy. Họ đúng là cha con có cùng huyết thống thật, nhưng cả hai người đều không gần gụi nhau đến mức có thể mở lòng với đối phương. Thành thử đó là lần hiếm hoi duy nhất bố của Junpei chịu bày tỏ cho gã thấy những quan điểm về cuộc sống mà có lẽ (có lẽ thôi nhé) được gọi là triết học. Nên kể từ đó, cuộc chuyện trò ấy vẫn còn mãi sống động trong tâm trí gã, dù gã đã quên mất điều gì thôi thúc nó ra đời.

“Trong những người phụ nữ mà một người đàn ông gặp trong đời, thì chỉ có ba người là có ý nghĩa thực thụ với hắn thôi. Không hơn, không kém,” bố gã nói, hay đúng hơn, là tuyên bố chắc nịch. Ông nói một cách lạnh lùng nhưng đầy chắc chắn, như thể vừa khám phá ra được trái đất phải mất đến một năm mới xoay quanh hết mặt trời. Junpei chỉ biết im lặng lắng nghe, phần vì lời tuyên bố của ông bố gã quá bất ngờ, gã không biết phải nói gì để hưởng ứng trong lúc ấy.

“Sau này mày có thể qua lại với nhiều đàn bà,” cha của gã nói tiếp, “Nhưng mày sẽ lãng phí thời gian nếu những cô nàng đó không phải là đúng người, con trai ạ. Và bố muốn mày nhớ rõ điều đó.”

Mãi về sau, có nhiều câu hỏi đã được hình thành và lẩn quẩn trong tâm trí non trẻ của Junpei: Liệu ông bố mình đã gặp được ba người phụ nữ của đời ông ấy chưa nhỉ? Và mẹ mình có phải là một người trong số họ? Vậy thì đã xảy ra những chuyện gì với hai người đàn bà kia? Nhưng gã không thể mở miệng hỏi cha những câu hỏi này. Như đã kể ngay trước đó, vốn dĩ cả hai người đều không quá thân mật để có thể tâm tình sâu sắc với nhau.

Khi Junpei được 18 tuổi, gã rời nhà lên Tokyo học Đại Học. Theo thời gian, gã cũng có quan hệ với một vài phụ nữ, có một cô trong số đó có “ý nghĩa thực thụ” với gã thật. Thế nhưng trước khi gã có thể bày tỏ tình cảm của mình (về bản chất, gã vốn phải mất nhiều thời gian hơn hầu hết mọi người để bộc lộ tình cảm của mình), thì cô này đã vớt luôn tay bạn thân nhất của gã và lập tức trở thành bà mẹ bỉm sữa trong vòng một nốt nhạc. Thành thử ở thì hiện tại, cô nàng liền bị sút ra khỏi danh sách những ứng cử viên tiềm năng mà cuộc sống đã dâng tặng cho Junpei. Gã phải gồng lòng và phủi bay hình ảnh cô ta khỏi tâm trí, cuối cùng số phụ nữ còn lại sẽ có “ý nghĩa thực thụ” với cuộc đời gã, ấy là nếu gã chịu chấp nhận thứ lý thuyết của cha mình, đã giảm xuống còn hai.

Mỗi lần Junpei gặp gỡ một người phụ nữ nào đó, gã vẫn thường tự hỏi mình, liệu đây có phải là người đàn bà có ý nghĩa thực thụ với mình không? Và câu hỏi ấy sẽ vẽ ra một vấn đề nan giải. Ngay cả khi gã đã tiếp tục kỳ vọng (có ai mà không kỳ vọng cơ chứ?) rằng gã sẽ gặp được một người có ý nghĩa đích thực với mình, thì gã vẫn sợ phải lật những quân bài được chia còn lại lên quá sớm. Vì thất bại trong việc gắn kết với người đàn bà quan trọng đầu tiên mà gã gặp, đâm ra gã mất luôn niềm tin vào khả năng của mình, thứ khả năng trọng yếu nhất, chính là bộc lộ ra được những cảm xúc yêu thương đúng lúc đúng tình. “Mày chỉ là một kẻ giỏi nắm bắt những thứ linh tinh trong cái cuộc đời này, nhưng lại để vụt mất những điều quan trọng”: Cứ mỗi lần ý niệm này dấy lên, đan xen chằng chéo trong tâm tưởng, trái tim gã sẽ lại sa lầy vào một vùng tối tăm lạnh lẽo. Chuyện xảy ra như cơm bữa.

Lúc nào cũng vậy, cứ quen một cô được vài tháng, gã lại bắt đầu đánh hơi thấy có điều gì đó lấn cấn về tính tình hay lối cư xử của cô ta, tuy chả có gì đáng kể, nhưng lại làm gã khó chịu hay bực dọc đâu đó trong lòng. Rốt cuộc nó đã biến luôn thành cái dớp để gã lại tiếp tục những mối quan hệ thiếu nồng nhiệt lẫn dứt khoát với hết nường này đến nường nọ. Xong xuôi rồi thì mấy mối này tự rã đám. Các cuộc chia tay không bao giờ dính líu đến cãi cọ hay mâu thuẫn, căn bản là vì gã chả đời nào qua lại với mấy cô nàng có vẻ khó dứt ra.

Junpei không chắc liệu khả năng này xuất phát từ tính cách bẩm sinh của mình, hay được hình thành từ môi trường gã lớn lên? Còn nữa, có khi nó là kết quả từ lời nguyền của cha gã cũng nên. Trong khoảng thời gian tốt nghiệp Đại Học, gã đã cãi nhau dữ dội với cha mình và cắt đứt mọi liên lạc với ông. Nhưng vẫn là cái lý thuyết chết tiệt “Ba người đàn bà” kiên quyết bám dính lấy gã, dù không hề có cơ sở giải thích đầy đủ nào. Có một khoảng thời gian, gã thậm chí còn nửa đùa nửa thật tự coi mình như một tay đồng tính: Có khi làm vậy thì mai mốt gã lại thoát được khỏi trò đếm ngược lố bịch này. Ấy vậy mà, chả biết là tốt hay không, đàn bà vẫn chỉ đối tượng duy nhất mà Junpei có hứng thú tính dục.

Người phụ nữ tiếp theo Junpei gặp lớn tuổi hơn gã. Nàng ba mươi sáu tuổi. Junpei thì ba mốt. Một người quen của gã vừa mở một nhà hàng nhỏ kiểu Pháp trên một con phố dẫn ra trung tâm Tokyo, và Junpei được mời đến bữa tiệc. Gã diện một chiếc áo sơ-mi Perry Ellis lụa xanh sẫm, khoác áo khoác thể thao mùa hè ăn rơ. Gã đã lên kế hoạch đến gặp người bạn thân trong bữa tiệc, nhưng người bạn này lại hủy kèo vào phút cuối, khiến Junpei không có ai để trò chuyện. Gã đành ngồi đơn độc nhấm nháp một ly vang đỏ lớn tại quầy bar. Ngay lúc gã chuẩn bị định rời đi và bắt đầu quét mắt khắp đám đông tìm chủ quán để chào tạm biệt, một người phụ nữ cao ráo đã tiến đến chỗ gã với ly cocktail màu tím trên tay. Suy nghĩ đầu tiên dấy lên trong Junpei khi gã vừa nhìn thấy nàng: Một cô nàng có dáng điệu thật tuyệt vời!

“Có vài người ở đằng kia đã bảo với tôi rằng ông đây là một nhà văn, phải không nhỉ?”

“Tôi đồ là như vậy, theo lối nào đó,” Junpei trả lời.

“Một nhà văn “theo lối nào đó” ư?”

Junpei gật đầu.

“Ông đã xuất bản bao nhiêu quyển sách rồi?”

“Hai tập truyện ngắn và một cuốn sách tôi dịch. Chẳng có quyển nào bán chạy cả.”

Nàng liếc nhanh gã từ đầu đến chân và mỉm cười với sự thỏa mãn rõ rệt.

“Dù sao đi nữa, ông vẫn là nhà văn thực thụ đầu tiên mà tôi được gặp đấy.”

“Hẳn sẽ làm quý cô đây có đôi chút thất vọng,” Junpei nói. “Một nghệ sĩ dương cầm có thể đàn tặng cô một giai điệu. Một vị họa sĩ cũng có thể vẽ tặng cô. Hay một ảo thuật gia biết biểu diễn ngón nghề kỹ xảo nào đó làm vui lòng người đẹp. Còn mấy tay nhà văn thì chẳng có trò gì để thực hành tại chỗ cả.”

“Ồ, tôi không biết đâu. Có lẽ vì tôi đã thụ cảm được hào quang nghệ sĩ nơi ông chăng?”

“Hào quang nghệ sĩ ư?”, Junpei hỏi lại.

“Một loại hào quang đặc biệt, thứ ánh sáng mà ông không thể tìm được trên những người bình phàm ấy.”

“Sáng nào cạo râu tôi cũng nhìn lom lom vào mặt mình trong gương, nhưng thú thực là tôi chưa bao giờ nhận ra thứ gì kiểu kiểu thế.”

Nàng cười rộ lên và hỏi tiếp, “Thế ông viết thể loại sách gì vậy?”

“Mọi người cũng hay hỏi tôi câu đấy đấy, nhưng truyện của tôi thật sự không phù hợp để xếp vào bất cứ mâm nào cả.”

Nàng miết ngón tay vòng quanh miệng ly cocktail. “Tôi đoán là ông đây chuyên viết tiểu thuyết giả tưởng chăng?”

“Tôi đoán là”, cách cô nói như thể quý cô đang nghi ngờ về những chuỗi thư gửi dây chuyền vậy.”

Nàng lại cười phá lên. “Liệu tôi có thể vinh hạnh được biết quý danh ông chứ?”

“Cô có hay đọc các tạp chí văn học không?”

Nàng bày ra một cái lắc đầu ngắn và dứt khoát.

“Thế thì cô có thể không biết đâu. Vốn tôi cũng chẳng có tiếng tăm gì cho lắm.”

Không cần đợi cho phép, nàng ngồi xuống quầy bar bên cạnh gã, nhấm nháp những gì còn sót lại trong ly coctail, và nói cho gã biết tên nàng: Kirie.

Junpei ước chừng nàng phải cao hơn gã từ hai đến ba phân. Nàng có một làn da rám nắng đậm, mái tóc ngắn và một cái đầu có hình dáng rất đẹp. Nàng khoác trên người một chiếc áo vải lanh màu xanh lục, tay áo xắn đến khuỷu và chân váy loe dài đến đầu gối. Dưới lớp áo khoác là chiếc áo phông đơn giản, đính kèm một chiếc trâm cài ngọc lam tí hon bên cổ áo. Bộ ngực rất vừa vặn. Nàng ăn vận rất có gu, và hầu như chẳng điều gì có thể ảnh hưởng đến cái gu ấy, toàn bộ phục trang của nàng toát lên một vẻ mạnh mẽ và độc lập. Đôi môi nàng đầy đặn, và mỗi khi nàng kết thúc một câu nói, chúng lại trải dài và khẽ nhếch lên. Điều này khiến nàng trở nên sinh động đến kỳ lạ. Ba nếp nhăn song song hiển hiện trên bờ trán rộng của nàng mỗi khi nàng dừng lại để suy nghĩ về điều gì đó; Khi đã nghĩ ra, những nếp nhăn lại biến mất.

Junpei nhận ra mình đã bị nàng cuốn hút. Một thứ gì đó khó xác định nhưng dai dẳng đã làm gã phấn khích, bơm đầy adrenaline vào quả tim gã. Đột nhiên nhận ra cổ họng mình đang khô khốc, gã bèn gọi một chai nước khoáng Perrier từ người phục vụ vừa đi qua. Và vẫn như mọi bận, gã liền tự hỏi mình, liệu nàng có phải là người phụ nữ mang ý nghĩa thật sự đối với gã không? Nàng sẽ là một trong hai người phụ nữ còn lại? Hay sẽ cú đánh bóng số hai của gã? Liệu gã nên để nàng đi mất, hay là bắt lấy ngay cơ hội này?

“Ông vẫn luôn muốn trở thành nhà văn chứ?”, Kirie hỏi gã.

“Hừmmm… Tôi có thể nói là chẳng còn điều gì khác mà tôi muốn trở thành cả.”

“Vậy nên ước mơ của ông đã thành hiện thực rồi.”

“Tôi luôn nghĩ mình muốn trở thành một nhà văn vĩ đại.” Junpei dang hai tay rộng cỡ một sải chân. “Nhưng tôi cho rằng có một khoảng cách siêu to khổng lồ giữa hai chuyện đó.”

“Mọi người phải có điểm bắt đầu chứ. Ông có tương lai của riêng mình ở phía trước, và không thể ngay một cái đã hoàn hảo được.” Rồi nàng hỏi, “Ông bao nhiêu tuổi?”

Việc hơn tuổi gã dường như cũng chẳng làm nàng phiền lòng. Và gã cũng chẳng ngại ngần gì về điều đó. Gã thích những người đàn bà già dặn hơn gái trẻ. Chia tay họ thường đơn giản hơn mấy cô nàng còn non và xanh.

“Cô làm công việc gì?” Gã hỏi.

Đôi môi của nàng tạo thành một đường thẳng hoàn hảo, và lần đầu tiên nàng trở nên nghiêm túc.

“Ông nghĩ tôi làm công việc gì?”

Junpei lắc nhẹ ly của mình làm rượu vang đỏ bên trong xoay đúng một vòng. “Có thể cho tôi chút gợi ý không, người đẹp?”

“Không có gợi ý nào dành cho ông đâu. Có khó đoán quá không? Quan sát và đánh giá là phần của ông đây chứ nhỉ.”

“Không hẳn,” gã đáp. “Những gì một tay nhà văn được cho là phải làm là quan sát, quan sát và quan sát hết lần này đến lần khác, và gượm lại việc đưa ra phán đoán cho đến phút có thể cuối cùng.”

“Đương nhiên rồi”, nàng nói. “Ô kê, vậy thì hãy quan sát và quan sát và quan sát tiếp đi, rồi vận dụng trí tưởng tượng của ông. Điều đó không xung đột với đạo đức nghề nghiệp của ông, nhỉ?”

Junpei ngước mắt lên và nghiên cứu khuôn mặt Kirie với một sự tập trung mới mẻ, hy vọng tìm thấy một dấu hiệu bí mật ở đó. Nàng nhìn thẳng vào mắt gã, và gã cũng nhìn thẳng vào mắt nàng.

Sau một lúc tạm ngừng, gã lên tiếng, “Được rồi, dựa trên những manh mối ít ỏi thì tôi mường tượng ra thế này: Cô là một chuyên gia. Không phải ai cũng có thể làm công việc của cô. Nó đòi hỏi vài thứ chuyên môn đặc biệt.”

“Đúng trọng điểm rồi đấy! Nhưng cụ thể hơn nữa nào!”

“Làm nhạc hả?”

“Không”

“Thiết kế thời trang chăng?”

“Không”

“Quần vợt”

“Lại càng không”, nàng cảm thán.

Junpei lắc đầu. “Hừm, cô có một làn da rám nắng, cơ thể rất săn chắc, tay còn có một chút cơ bắp. Có thể cô đã chơi khá nhiều môn thể thao ngoài trời. Tôi thì tôi không hề nghĩ cô đây là một người lao động ngoài trời. Ở cô không có thứ cảm giác đó.”

Kirie đặt tay lên quầy và lật tay lại, nhìn kỹ chúng. “Ông sắp đi đến đích rồi đấy.”

“Nhưng tôi vẫn chưa cho cô được đáp án chính xác.”

“Việc giữ lại vài bí mật nho nhỏ luôn quan trọng”, Kirie nói. “Tuy nhiên tôi không muốn tước đi niềm vui chuyên nghiệp của ông, quan sát và tưởng tượng ấy… Thế nên tôi sẽ cho ông một gợi ý. Tôi cũng giống như ông vậy.”

“Giống như thế nào?”

“Ý tôi là, nghề nghiệp của tôi chính xác là những gì tôi luôn muốn làm, kể từ khi tôi còn là một cô bé. Y như ông vậy. Tuy nhiên từ vị trí của tôi, nó không hề là một hành trình dễ dàng gì.”

“Càng tốt”, Junpei nói. “Quan trọng đấy chứ. Công việc của cô nên là một hành động xuất phát từ tình yêu chứ không phải chỉ là một cuộc hôn nhân tùy tiện.”

“Một hành động xuất phát từ tình yêu ư,” Kirie nói. Những lời ấy dường như đã gây ấn tượng với nàng. “Quả là một phép ẩn dụ tuyệt vời!”

“Trong lúc đấy, cô có nghĩ rằng tôi có thể đã nghe thấy tên của cô ở đâu đó không?” Junpei hỏi.

“Có lẽ là không đâu,” nàng trả lời, lắc đầu. “Tôi không vang danh đến thế.”

“À vâng, mỗi người đều có điểm xuất phát ở đâu đó cơ mà.”

“Chuẩn”, Kirie cười, nói. Rồi thoắt cái nàng chợt trở nên nghiêm túc. “Tình huống của tôi khác với ông theo kiểu khác. Tôi đã dự kiến ​​sẽ đạt được sự hoàn hảo ngay từ đầu. Không được phép sai sót. Một là ăn cả, hoặc ngã về không. Không lưng chừng. Và cũng không có cơ hội thứ hai.”

“Tôi đồ rằng đây là một gợi ý khác.”

“Cũng có thể.”

Một người phục vụ đang tiến lại gần họ với khay rượu sâm-panh trên tay. Nàng bèn lấy hai ly và đưa một ly cho Junpei.

“Nâng cốc nào,” nàng nói.

“Vì các lĩnh vực chuyên môn được thẩm định của chúng ta,” Junpei lên tiếng.

Cả hai cùng cạn ly.

Nàng đã trải qua đêm ấy trong căn phòng của Junpei. Họ uống rất nhiều rượu vang của nhà hàng tặng, làm tình và ngủ. Khi Junpei tỉnh giấc vào mười giờ sáng hôm sau, nàng đã rời khỏi đó, chỉ để lại một vết lõm như vệt ký ức trên chiếc gối nằm cạnh và dòng ghi chú viết tay: “Em đi làm đây. Nếu thích thì gọi cho em.” kèm theo số điện thoại.

Gã gọi cho nàng, và họ dùng bữa tối ở một nhà hàng vào thứ bảy tuần sau. Cả hai đã uống chút rượu, ái ân trong phòng Junpei, và đi ngủ. Một lần nữa vào sáng hôm sau nàng lại rời đi. Hôm đó là Chủ Nhật, nhưng chú thích nàng viết vẫn là: “Phải đi làm.”

Junpei vẫn không biết Kirie làm công việc gì, nhưng chắc chắn là bắt đầu vào sáng sớm. Và thi thoảng nàng lại làm việc vào Chủ Nhật.

Cả hai không bao giờ thiếu chuyện để nói. Nàng sở hữu đầu óc nhạy bén và am hiểu nhiều chủ đề. Nàng thích đọc sách, nhưng thường thích những cuốn sách khác ngoài tiểu thuyết viễn tưởng như tiểu sử danh nhân, lịch sử, tâm lý học, và khoa học phổ biến chẳng hạn, và ghi nhớ một lượng thông tin đáng kinh ngạc. Có lần, Junpei còn phải ngã ngửa trước kiến ​​thức chi tiết của nàng về lịch sử nhà ở tiền chế.

“Nhà ở tiền chế? Công việc của em có liên quan đến xây dựng hoặc kiến ​​trúc à?”

“Không,” nàng đáp. “Em chỉ có xu hướng bị thu hút bởi các chủ đề thực tế. Thế thôi.”

Thế nhưng nàng đã đọc hai tập truyện ngắn mà Junpei đã xuất bản và thấy chúng rất tuyệt. “Hay hơn em tưởng đấy,” nàng nói với gã. “Nói thật với anh là em đã lo sốt vó lên. Sẽ thế nào nếu em đọc truyện anh viết và thấy chán bỏ xừ nhỉ? Em sẽ phải rặn ra những nhận xét thế nào đây? Nhưng giờ thì không phải lo nữa rồi. Em thích lắm.”

“Anh rất mừng khi nghe em nói thế,” Junpei đáp lại, gần như ngay lập tức. Gã cũng có nỗi lo lắng tương tự khi đưa sách cho nàng theo lời nàng đề nghị.

“Em không nói điều này chỉ để làm anh cảm thấy thoải mái đâu,” Kirie nói, “Nhưng anh có vài thứ gì đó rất đặc biệt, và yếu tố đặc biệt đấy có thể giúp anh trở thành một nhà văn xuất sắc. Những truyện ngắn anh viết cực kỳ sống động với lối văn phong bay bổng, nhưng cái chính là những gì anh viết rất cân bằng. Đối với em, đó luôn là điều quan trọng nhất trong âm nhạc, tiểu thuyết, và cả trong hội họa nữa. Bất cứ khi nào em gặp phải một tác phẩm hoặc một màn trình diễn nào đấy thiếu cân bằng, em sẽ phát ốm lên như say tàu xe ấy. Đó có lẽ là lý do mà em không đi đến các buổi hòa nhạc và hầu như chẳng đọc bất cứ quyển tiểu thuyết nào cả.”

“Vì em không muốn đụng phải những thứ bất-cân-bằng?”

“Chuẩn rồi.”

“Nghe có vẻ hơi xa vời với anh.”

“Em thuộc cung Thiên Bình. Em không tài nào chịu nổi mấy thứ mất cân xứng. Không, nó cũng không quá đến mức mà em không chịu được, nhưng mà…”

Nàng ngậm miệng lại để tìm kiếm những từ thích hợp, nhưng không thể tìm ra, thay vào đó là những tiếng thở dài ngập ngừng. “À, thôi, đừng bận tâm,” nàng tiếp lời. “Em chỉ muốn nói rằng em tin là một ngày nào đó anh sẽ viết tiểu thuyết. Và khi anh làm điều đó, anh sẽ trở thành một nhà văn có sức nặng hơn. Có thể sẽ mất một khoảng thời gian đấy, nhưng em cảm thấy vậy.”

“Anh là kẻ sinh ra chỉ để viết truyện ngắn,” giọng Junpei khô khốc. “Anh không hợp để viết tiểu thuyết đâu.”

Gã không nói gì thêm về chủ đề này, chỉ lặng lẽ nằm nghe tiếng máy điều hòa. Thực tế, gã đã nhiều lần cố gắng viết một cuốn tiểu thuyết, nhưng luôn bị sa lầy giữa chừng. Đơn giản là gã không thể duy trì được sự tập trung cần thiết để viết một câu chuyện trong một khoảng thời gian dài. Gã từng bắt đầu tin rằng mình sẽ viết một cái gì đó đáng kinh ngạc. Phần lớn câu chuyện sẽ tự tuôn chảy ra. Nhưng càng đi xa hơn, năng lượng và sự rực rỡ của nó lại từ từ mất đi một cách không thể phủ nhận, cho đến khi nó hoàn toàn bốc hơi, như một động cơ bị ngừng hoạt động.

Hai người nằm dài trên giường. Đang độ vào thu, cả hai đều trần truồng sau một cơn hoan ái nồng nàn kéo dài. Bờ vai Kirie ép sát vào cơ thể Junpei, đang vòng tay ôm lấy nàng. Hai ly vang trắng vẫn đứng yên trên chiếc tủ đầu giường.

“Junpei”

“Ừm hửm?”

“Có phải anh đang yêu một người đàn bà nào khác không? Một người anh không thể nào quên được ấy.”

“Phải,” Junpei thừa nhận. “Em biết sao?”

“Đương nhiên rồi,” nàng đáp. “Phụ nữ rất nhạy bén với những điều như vậy. Anh không thể gặp cô nàng đó nữa à?”

“Nhiều vấn đề lắm.”

“Và “những vấn đề” đó không có khả năng giải quyết ư?”

“Không.” Junpei trả lời với một cái lắc đầu chóng vánh.

Kirie uống một chút rượu. “Em không có ai như thế cả,” nàng nói, gần như nín thở. “Em mến anh nhiều lắm, Junpei. Anh khiến cho em cảm thấy rung động. Mỗi khi chúng ta ở bên nhau như thế này, em lại thấy vô cùng hạnh phúc và yên bình. Nhưng như thế không đồng nghĩa với việc em muốn có một mối quan hệ nghiêm túc với anh. Làm cách nào để khiến anh có thể cảm nhận nó đây? Sự vỗ về ư?”

Junpei lướt ngón tay qua tóc nàng. Thay vì trả lời câu hỏi của nàng, gã lại hỏi một câu của mình. “Sao lại thế?”

“Vì sao em lại không muốn ở bên anh á?”

“Ừm hứm”

“Nó khiến anh phiền lòng sao?”

“Một tí tẹo tèo teo.”

“Em không thể xây dựng mối quan hệ nghiêm túc với bất kỳ ai được. Đâu chỉ riêng anh, mà với-ai-cũng-thế,” nàng đáp. “Em muốn tập trung hoàn toàn vào những gì em đang làm hiện giờ. Nếu em sống với ai đó, nếu em có mối quan hệ tình cảm sâu sắc với ai đó thì em không thể làm công việc đó được.”

Junpei suy nghĩ một chốc. “Ý em là em không muốn mình bị phân tâm?”

“Phải.”

“Nếu em bị phân tâm, em có thể mất thăng bằng và điều đó chứng tỏ là có trở ngại cho sự nghiệp của em?”

“Chính xác.” Nàng gật đầu.

“Nhưng em vẫn chưa nói cho anh biết công việc ấy là gì?”

“Đoán xem.”

“Em là một cô nàng siêu đạo chích.”

“Không đâu,” Kirie đáp lại với vẻ thích thú. “Thật là một suy đoán gợi cảm! Nhưng chả có siêu đạo chích nào đi mần ăn vào sáng bảnh mắt tinh mơ cả!”

“Vậy thì em là một tên sát thủ chuyên nghiệp.”

“Nữ sát thủ,” nàng chỉnh lại lời Junpei. “Cũng không trúng luôn. Nhưng sao anh cứ nảy ra những ý tưởng hâm dở thế hử?”

“Vậy tất cả những gì em làm là hoàn toàn hợp pháp?”

“Hoàn toàn hợp pháp.”

“Đặc vụ tay trong?”

“Không… Nhưng thôi được rồi, tạm dừng cho hôm nay. Kể cho em nghe về việc viết lách của anh đi. Dạo này anh có viết gì không?”

“Có đấy, một truyện ngắn.”

“Là loại truyện gì thế?”

“Anh đã viết xong đâu.”

“Thế thì kể cho em nghe những gì diễn ra từ đầu truyện đến hiện thời cũng được.”

Junpei rơi vào trầm tư. Gã đã đặt ra một quy tắc là không kể với bất cứ ai về công việc của mình đang làm. Nếu gã biến câu chuyện của mình thành lời nói, và những lời đó vừa rời khỏi miệng gã, thì gã sợ điều quan trọng nhất sẽ bốc hơi như sương sớm. Những sắc thái ý nghĩa tinh tế sẽ bị san phẳng thành một thứ bề mặt nông cạn. Bí mật sẽ không còn là bí mật. Nhưng khi ở trên chiếc giường này, và lướt những ngón tay qua mái tóc ngắn của Kirie, Junpei cảm thấy chẳng sao cả nếu kể nó với nàng. Rốt cuộc, gã đã tạm dừng câu chuyện vì chưa biết cách hoàn thành nó ra sao. Mấy ngày nay gã vẫn chưa viết thêm được chữ gì.

“Đó là một người thứ ba, và nhân vật chính là một phụ nữ,” gã bắt đầu kể. “Cô ấy khoảng chớm ba mươi, là một bác sĩ nội khoa tập sự và công tác tại một bệnh viện lớn. Cô còn độc thân nhưng đang dan díu với một bác sĩ phẫu thuật khác ở cùng bệnh viện. Tay này đã quá tứ tuần, cũng có vợ con cả rồi.”

Kirie mất một lúc để mường tượng ra nhân vật nữ chính. “Cô nàng có hấp dẫn không?”

“Anh nghĩ là có. Khá hấp dẫn,” Junpei đáp. “Nhưng không hấp dẫn bằng em đâu.”

Kirie hôn vào cổ Junpei. “Câu trả lời này chuẩn không cần chỉnh đấy!” nàng nói.

“Nhưng rồi cô nàng đã có một kỳ nghỉ và tự mình đi du lịch một chuyến vào mùa thu. Cô lưu lại một khu nghỉ mát suối nước nóng nhỏ trên núi và đi dạo dọc theo bờ suối. Vốn là một người ưa quan sát chim, và đặc biệt thích ngắm nhìn bọn bói cá, nên cô ta đã bước xuống lòng con suối cạn và nhận thấy một hòn đá kỳ lạ. Nó có màu đen pha chút đỏ, mịn màng và có hình dạng quen thuộc. Cô ta lập tức nhận ra ngay rằng nó có hình dạng giống quả thận. Ý anh là, dù sao cô nàng vốn cũng là một bác sĩ mà. Tất cả mọi đặc điểm của hòn đá đều giống như một quả thận thực sự từ kích thước đến độ dày.”

“Nên cô ấy đã lượm nó lên và mang về nhà.”

“Đúng rồi,” Junpei đồng ý. “Cô ta đã mang hòn đá đến văn phòng của cô ở bệnh viện và tận dụng nó như một cái chặn giấy. Hòn đá vốn có kích thước và trọng lượng phù hợp mà.”

“Và nó có hình dáng hoàn hảo cho một bệnh viện.”

“Ừ,” Junpei nói. “Nhưng vài ngày sau, tự nhiên cô thấy một hiện tượng lạ.”

Kirie im lặng chờ đợi gã kể tiếp câu chuyện. Junpei đang dừng lại như thể cố tình trêu chọc người nghe của mình, nhưng thực tế điều này không hề có chủ ý. Gã vẫn chưa viết phần còn lại của câu chuyện. Đây là điểm mà gã đã dừng lại. Đứng giữa ngã tư đường dang dở này, gã bèn tham khảo môi trường xung quanh và vận dụng đầu óc hết sức có thể. Rồi gã cố nghĩ cách để tiếp tục câu chuyện.

“Một sáng nọ, cô nhìn thấy hòn đá đã ở một nơi khác. Cô vốn là một người rất có quy củ, thế nên cô vẫn luôn để nó ở đúng một vị trí trên bàn khi về nhà vào buổi tối, nhưng cứ vào buổi sáng, là cô lại thấy nó lúc thì chiễm chệ trên đệm ghế xoay, hoặc lúc lại ở sát bình hoa, và có khi là nằm trên sàn nhà. Suy nghĩ đầu tiên nảy ra là trí nhớ của cô đang chơi khăm cô một vố. Cánh cửa văn phòng của cô đã khóa kỹ, và không ai có thể vào được. Tất nhiên, người canh gác ban đêm có chìa khóa, nhưng ông ta đã làm việc ở bệnh viện trong nhiều năm và ông sẽ không bao giờ tự tiện đi vào văn phòng của ai. Vả lại, cái chính là gì mà ông ta phải xông vào văn phòng cô mỗi đêm chỉ để thay đổi vị trí của một viên đá cô dùng làm chặn giấy? Văn phòng cũng không có gì đổi khác, không thiếu thứ gì và không hề có món gì bị đánh tráo. Điều duy nhất thay đổi là vị trí của hòn đá. Cô rối hết cả lên. Điều gì đang xảy ra cơ chứ? Sao có thể nghĩ rằng tự hòn đá đã di chuyển trong đêm?”

“Quả thận đá tự có lý do riêng để hành động theo những gì nó đã làm.” Kirie nói với sự quả quyết đơn thuần.

“Là kiểu lý do gì mà một quả thận đá có thể có?”

“Nó muốn khuấy động cô ả lên. Từng chút, từng chút một. Trong một khoảng thời gian dài chứ sao.”

“Được rồi, thế thì tại sao nó lại muốn khuấy động cô ấy?”

“Sao em biết,” Kirie đáp. Rồi với một tiếng cười khúc khích, nàng nói thêm, “Có khi nó muốn làm rung chuyển thế giới của cô ả.”

“Đó là trò chơi chữ dẩm hồn nhất anh từng nghe đấy,” Junpei rên rỉ.

(Nguyên văn Murakami dùng là “Rock her world”. Rock vừa có nghĩa là “Khuấy động; rung chuyển; gây bối rối” và cũng có nghĩa là “Đá” – ND)

“Phải rồi, anh là tác giả cơ mà. Không phải anh mới là người quyết định à?”

Junpei cau mày. Gã cảm thấy một cơn nhói nhẹ phía sau thái dương vì đã tập trung hết mức. Có lẽ gã đã uống quá nhiều rượu. “Những ý tưởng không hề đến cùng lúc đâu,” gã nói. “Cốt truyện của anh sẽ không được tiếp tục được trừ khi anh thực sự ngồi ở bàn và chuyển động tay, đặt câu. Tuy nhiên, khi kể nó ra thế này, anh bắt đầu cảm thấy như thể phần còn lại của câu chuyện sẽ tự động được giải quyết.”

“Em sẽ đợi,” Nàng với lấy ly của mình và nhấp một ngụm rượu. “Nhưng câu chuyện đang trở nên thú vị quá. Em muốn biết chuyện gì xảy ra với quả thận đá.”

Nàng xoay người về hướng gã và tựa bộ ngực đầy đặn vào cạnh người gã. Hạ giọng, như để chia sẻ một điều bí mật, nàng nói, “Anh biết không, Junpei, mọi thứ trong đời đều có lý do, khiến người ta làm những chuyện người ta đã làm.” Junpei đã ngủ thiếp đi nên không trả lời. Trong không khí ban đêm, câu nói của nàng mất đi cấu trúc bình thường, dường như nó tan loãng vào mùi rượu vang trước khi chạm đến những ngõ ngách sâu thẳm trong ý thức của gã. “Ví dụ như, gió có lý do của gió. Chúng ta chỉ không chú ý đến gió khi chúng ta sống và làm việc hằng ngày. Nhưng đến một lúc nào đó chúng ta sẽ phải chú ý đến nó. Gió bao trùm anh với một mục đích cố định, và nó lay chuyển anh. Gió biết tất cả những gì bên trong tâm hồn anh. Và không chỉ riêng có gió mà thôi. Tất cả mọi thứ, kể cả đá. Chúng biết chúng ta rất rõ ràng. Từ trên xuống dưới. Điều này chỉ xảy đến với chúng ta vào một khoảng thời gian nhất định. Và tất cả những điều chúng ta có thể làm là tuân theo ý muốn của chúng. Khi chúng ta chấp nhận chúng, chúng ta sẽ tồn tại, và trở nên sâu sắc hơn.”

Trong năm ngày tiếp theo, Junpei hầu như không rời khỏi nhà; gã bám lấy bàn làm việc, viết phần còn lại của câu chuyện về quả thận đá. Như Kirie đã dự đoán, hòn đá tiếp tục lặng lẽ khuấy động cô bác sĩ, từng chút một, nhưng dứt khoát. Cô đang bận lao vào một cuộc mây mưa vội vã với người tình trong phòng khách sạn không tên vào một buổi tối. Khi cô lén lút vòng tay qua lưng hắn và cảm thấy hình dạng của một quả thận. Một điều gì đó mách bảo với cô rằng quả thận đá của cô đang ẩn nấp trong đó. Thận là nguồn cung cấp thông tin bí mật rằng bản thân cô đã chôn vùi trong cơ thể gã tình nhân của mình. Bên dưới những ngón tay cô, nó vặn vẹo như một con côn trùng, truyền đạt thông điệp cho cô. Cô đang trò chuyện với quả thận khôn ngoan biết trao đổi. Cô có thể cảm nhận được sự nhầy nhụa của nó trên lòng bàn tay.

Nữ bác sĩ dần dần quen với sự tồn tại của quả thận đá biết thay đổi vị trí mỗi đêm. Cô trở nên chấp nhận nó như một lẽ tự nhiên, không còn ngạc nhiên khi thấy nó đã dịch chuyển. Mỗi buổi sáng khi đến bệnh viện, cô tìm lấy hòn đá, nhặt nó lên và đặt nó lại bàn làm việc. Điều này đơn giản đã trở thành một phần thói quen của cô. Chừng nào cô còn ở trong phòng, thì chừng nấy hòn đá sẽ không di chuyển. Nó lặng lẽ nằm ở một góc, như một chú mèo ngoan ngoãn ngủ trưa dưới ánh mặt trời. Chỉ tỉnh thức và bắt đầu nhảy nhót sau khi cô rời khỏi văn phòng và khóa cửa mà thôi.

Bất cứ khi nào cô có một khoảnh khắc thư giãn ở bàn làm việc, cô lại vươn tay ra và vuốt ve mặt đá nhẵn bóng. Sau một thời gian, cô càng khó rời mắt khỏi hòn đá; như thể cô đã bị thôi miên. Cô dần mất hứng thú với bất cứ điều gì khác. Cô không còn đọc sách được nữa. Và dừng việc đi đến phòng tập thể dục. Nói chuyện với đồng nghiệp cũng làm cô phát chán ốm. Cô trở nên thờ ơ với việc chải chuốt của chính mình. Cô mất cảm giác ngon miệng. Ngay cả cái ôm của người tình cũng trở thành một thứ gây khó chịu. Khi không có ai khác ở xung quanh, cô nói chuyện với hòn đá bằng giọng trầm thấp, cách người cô đơn trò chuyện với một con chó con mèo, và cô lắng nghe những lời trong thinh lặng mà hòn đá nói với cô. Giờ đây quả thận đá hắc ám đang điều khiển phần lớn cuộc đời cô.

Chắc chắn rằng hòn đá không chỉ là một sự cứu rỗi đến với cô từ sự thiếu thốn: Junpei nhận ra điều này khi câu chuyện của gã tiến triển. Mấu chốt là một cái gì đó bên trong bản thân cô. Một cái gì đó bên trong cô đang kích hoạt quả thận đá và thúc giục cô thực hiện nhiều hành động. Nó liên tục gửi tín hiệu của cô cho mục đích ấy, thứ tín hiệu nằm sâu bên trong hòn đá có hình quả thận vẫn di chuyển mỗi đêm.

Trong khi viết, Junpei nghĩ về Kirie. Gã cảm nhận được rằng nàng (hoặc một điều gì đó bên trong nàng) đang thúc đẩy câu chuyện; gã chưa bao giờ có ý định viết những thứ thoát ly khỏi hiện thực. Những gì Junpei đã mơ hồ mường tượng ra trước đó là một câu chuyện tâm lý, yên tĩnh hơn. Trong câu chuyện đó, chẳng có hòn đá nào tự mình di chuyển cả.

Junpei tưởng tượng ra cảnh nàng bác sĩ sẽ cắt đứt quan hệ của cô với tay bác sĩ phẫu thuật đã có vợ kia. Cô thậm chí còn có thể trở nên ghét hắn. Đây có lẽ là thứ mà cô đã luôn tìm kiếm, trong vô thức.

Một khi phần còn lại của câu chuyện đã được hiển lộ rõ ràng trước mắt gã, thì rất dễ để viết ra. Vừa nghe các ca khúc của Mahler với âm lượng thấp, Junpei vừa ngồi trước máy tính của mình và viết đoạn kết với tốc độ tối đa.

Nàng bác sĩ đưa ra quyết định chia tay người tình. “Em không thể gặp ông nữa,” cô nói với hắn. “Ít ra em phải giải thích rõ ràng chuyện này đã chứ?” hắn chất vấn. “Không,” cô nói với người tình một cách dứt khoát, “Đó là điều không thể.” Vào ngày nghỉ tiếp theo, cô lên phà ở cảng Tokyo và từ trên boong tàu, cô ném quả thận đá xuống biển. Hòn đá chìm xuống đáy đại dương, lao thẳng xuống lõi trái đất. Cô đã quyết tâm bắt đầu lại cuộc sống của mình lần nữa. Sau khi ném hòn đá đi, cô thấy một cảm giác nhẹ nhõm tươi mới.

Ấy thế nhưng vào ngày hôm sau, khi cô đến bệnh viện, hòn đá vẫn ở trên bàn, lặng lẽ đợi cô. Nó nằm chính xác nơi nó vẫn luôn, với sắc tối và trong hình dáng quả thận như mọi khi.

Ngay sau khi viết xong câu chuyện, Junpei đã gọi cho Kirie. Có lẽ nàng sẽ muốn đọc tác phẩm vừa hoàn thành, mà theo một nghĩa nào đó, nàng đã truyền cảm hứng cho gã để viết. Tuy nhiên, cuộc gọi của gã không có ai bắt máy. “Số máy quý khách vừa gọi hiện không liên lạc được”, một giọng nói được ghi âm sẵn vang lên. “Xin vui lòng kiểm tra số điện thoại và gọi lại sau”. Junpei đã thử hết lần này đến lần khác. Nhưng kết quả vẫn y hệt như nhau. Có lẽ điện thoại của nàng gặp trục trặc kỹ thuật, gã nghĩ.

Junpei dính chặt ở nhà, chờ đợi tin nhắn từ Kirie, nhưng không có gì gửi đến. Một tháng trôi qua. Một tháng trở thành hai, và hai trở thành ba. Giao mùa sang đông, và một năm mới bắt đầu. Câu chuyện của gã đã chiễm chệ nằm trong số tháng Hai của một tạp chí văn học. Một mẩu quảng cáo trên báo dành cho tạp chí liệt kê tên Junpei và cả tựa đề, “Quả thận đá nhảy nhót mỗi ngày”. Kirie có thể xem được mẩu quảng cáo này, rồi mua tạp chí, đọc truyện ngắn và gọi điện cho gã để chia sẻ ấn tượng của nàng, gã hy vọng là thế. Nhưng tất cả những gì bao trùm lấy gã là những lớp im lặng mới.

Nỗi đau mà Junpei cảm thấy khi Kirie biến mất khỏi cuộc đời gã dữ dội hơn nhiều so với những gì gã có thể tưởng tượng. Trong một ngày gã sẽ nghĩ nhiều lần rằng giá như nàng có ở đây! Gã nhớ nụ cười của nàng, gã nhớ những lời định hình trên đôi môi nàng, gã nhớ da diết những lần chạm vào làn da nàng khi họ ôm siết lấy nhau. Gã không còn cảm nhận được sự thư giãn từ thứ âm nhạc yêu thích của mình, kể cả những quyển sách mới từ các tác gia mà gã mến mộ. Mọi thứ đều có cảm giác xa cách, ly khai khỏi gã. Kirie có thể là người phụ nữ số 2, Junpei nghĩ như vậy.

Cuộc gặp gỡ tiếp theo của Junpei với Kirie diễn ra vào một ngày đầu mùa xuân, mặc dù thực sự khó thể gọi đó là cuộc chạm trán.

Lúc ấy gã đang ở trong một chiếc taxi bị kẹt xe. Người lái xe đang nghe đài FM. Giọng Kirie vang lên từ radio. Lúc đầu, Junpei chưa hề nhận ra rằng gã đang nghe thấy tiếng của Kirie. Gã chỉ nghĩ đơn giản là một giọng nói nào đó giống nàng. Nhưng càng nghe, gã lại càng thấy giống hệt nàng, lối nàng trò chuyện với một ngữ điệu trôi chảy, cùng một phong cách thoải mái, cách nàng đặc biệt dừng lại giữa những suy tư.

Junpei yêu cầu tài xế tăng âm lượng.

“Chắc chắn rồi, thưa ông,” bác tài nói.

Kirie đang được một nữ phát thanh viên phỏng vấn. “Thế nên bạn đã thích những nơi có độ cao từ khi còn là một cô bé ư?” phát thanh viên hỏi.

“Vâng,” Kirie, hay một người phụ nữ nào đó có giọng nói giống hệt nàng, đáp. “Theo những gì tôi có thể nhớ rõ, tôi rất thích được lên trên cao. Càng lên cao, tôi càng cảm thấy yên bình. Tôi vẫn luôn kỳ nèo bố mẹ đưa tôi đến những tòa nhà cao tầng. Đúng là một sinh vật nhỏ kỳ lạ,” nàng vừa cười vừa nói.

“Tôi cho rằng đó là cách bạn bắt đầu công việc hiện tại của mình.”

“Trước tiên tôi làm việc như một nhà phân tích trong một công ty chứng khoán. Nhưng tôi biết ngay rằng nó không hề đúng với tôi. Tôi rời công ty sau ba năm, và việc đầu tiên tôi làm là kiếm ngay một công việc lau quét cửa sổ trong các tòa nhà cao tầng. Điều tôi thực sự muốn là trở thành một người thợ sửa gác chuông, nhưng đó là thế giới riêng của cánh trượng phu và họ sẽ không cho phép phụ nữ tham gia một cách dễ dàng.”

“Từ một nhà phân tích chứng khoán đến người lau rửa cửa sổ, đó là một sự thay đổi gây sốc đấy!”

“Nói thật nhé, rửa cửa sổ thì bớt căng thẳng hơn nhiều đối với tôi. Nếu một thứ gì đó sắp rơi xuống, thì đó chỉ là tôi chứ không phải giá cổ phiếu.” Nàng lại cười.

“Khi nói “người lau cửa sổ”, ý bạn là mấy người được hạ xuống bằng bệ đỡ bên hông các tòa nhà?”

“Đúng vậy. Tất nhiên là họ sẽ cung cấp cho bạn một sợi dây an toàn, nhưng có một số vị trí bạn không thể chạm đến được nếu không tháo dây an toàn ra. Chuyện đó cũng không quấy rầy gì được tôi cả. Dù tôi có lên cao đến đâu, tôi cũng không bao giờ sợ hãi, và điều đó khiến tôi trở thành một người lao động rất có giá trị.”

“Tôi nghĩ là bạn thích đi leo núi?”

“Tôi không có hứng thú với núi non gì mới lạ chứ. Tôi cũng đã cố gắng leo lên một vài lần, nhưng chả có cảm giác gì. Điều duy nhất khiến tôi quan tâm là những cấu trúc nhân tạo mọc thẳng lên khỏi mặt đất. Đừng hỏi tại sao nhé.”

“Nên là bây giờ bạn đang điều hành một công ty rửa cửa sổ chuyên về các tòa nhà cao tầng ở khu vực đô thị Tokyo ư?”

“Chính xác,” nàng đáp. “Tôi đã dành dụm và bắt đầu mở công ty nhỏ của mình khoảng sáu năm trước. Đương nhiên tôi thường ra ngoài làm với đội của mình, nhưng về cơ bản bây giờ tôi là chủ sở hữu. Tôi không phải nhận đơn đặt hàng từ bất kỳ ai và tôi có thể tạo ra các quy tắc của riêng mình.”

“Nghĩa là bạn có thể tháo dây an toàn ra bất cứ lúc nào bạn muốn nhỉ?”

“Phải.” Lại một tiếng cười rộ khác.

“Bạn thực sự thích những nơi cao, phải không?”

“Đúng vậy. Tôi cảm thấy nó như một lời mời gọi tôi hãy lên cao, cao hơn nữa. Tôi không thể tưởng tượng ra được một công việc nào khác. Công việc của bạn nên là một hành động xuất phát từ tình yêu chứ không phải chỉ là một cuộc hôn nhân tùy tiện.”

“Bây giờ là thời gian dành cho một bài hát,” phát thanh viên nói. phát thanh viên nói. “James Taylor với “Up on the roof”. Sau đó chúng ta sẽ trao đổi nhiều hơn về việc đi thăng bằng trên dây.”

Trong khi bài hát được phát, Junpei nghiêng người qua ghế trước và hỏi bác tài,

“Người phụ nữ này làm gì thế?”

“Cô ta giăng dây thừng giữa các tòa nhà cao tầng và đi ngang qua chúng,” bác tài giải thích. “Với một cây sào dài trong tay để giữ thăng bằng. Là một kiểu nghệ sĩ biểu diễn ấy mà. Tôi đoán cô nàng cảm thấy kích thích khi làm thế. Tôi thì tôi chỉ hãi nhất khi đứng trong thang máy bằng kính thôi.”

“Đó là nghề nghiệp của cô ấy sao?” Junpei hỏi. Gã nhận thấy giọng mình khô khốc và sức nặng đã biến mất. Nghe như giọng người khác.

“Vâng. Tôi đoán cô ta có được một loạt các nhà tài trợ và tổ chức một buổi biểu diễn. Cô ta chỉ biểu diễn một lần tại một số nhà thờ nổi tiếng ở Đức. Cổ nói rằng cổ muốn làm điều đó trên các tòa nhà cao hơn nhưng không được cấp phép. Vì nếu lên cao hơn thì sẽ không an toàn nữa. Tất nhiên, cô nàng có thể kiếm sống theo cách đó, nên ông đã nghe cô ta nói rằng cổ sở hữu một công ty lau rửa cửa sổ đấy thôi. Một cô nàng kỳ quặc!”

“Điều tuyệt vời nhất là khi bạn lên trên đó, bạn thay đổi để sinh tồn,” Kirie nói với người phỏng vấn. “Bạn phải thay đổi hoặc bạn không thể sống sót. Khi tôi lên đến một nơi cao, chỉ còn tôi và gió. Không có gì khác. Gió bao trùm lấy tôi, lay tôi dậy. Gió hiểu tôi là ai. Đồng thời, tôi hiểu gió. Chúng tôi chấp nhận nhau và chúng tôi quyết định tiếp tục sống cùng nhau. Đó là khoảnh khắc tôi yêu hơn bất cứ điều gì. Không, tôi không sợ. Khi tôi đặt chân lên nơi cao và hoàn toàn rơi vào trạng thái tập trung đó, mọi nỗi sợ hãi tan biến.”

Nàng nói với vẻ đảm bảo tuyệt đối. Junpei không rõ người phỏng vấn có hiểu nàng đang nói gì không. Khi cuộc phỏng vấn kết thúc, Junpei đề nghị dừng chiếc taxi lại và bước ra ngoài, đi hết quãng đường còn lại tới điểm đến. Thỉnh thoảng gã sẽ ngước nhìn lên một tòa nhà cao tầng và ngắm những đám mây lờ lững trôi qua. Không ai có thể xen ngang giữa nàng và gió, gã nhận ra điều đó, và gã nhận thấy một cơn ghen tuông dữ dội. Nhưng ghen với điều gì cơ chứ? Cơn gió ư? Ai lại đi ghen với gió?

Junpei đợi thêm vài tháng nữa để Kirie liên lạc với gã. Gã muốn gặp lại nàng và nói chuyện với nàng về rất nhiều điều, kể cả viên đá hình quả thận. Nhưng cuộc gọi không bao giờ đến, và cuộc gọi của gã dành cho nàng cũng không bao giờ có thể hoàn thành. Khi mùa hè đến, gã đành bỏ cuộc. Nàng rõ ràng không có ý định gặp lại gã. Và thế là mối quan hệ ấy đã kết thúc một cách tĩnh lặng, không có sự bất hòa hay tiếng cãi vã cào cấu nào, chính xác là cách mà gã đã kết thúc quan hệ với rất nhiều phụ nữ khác. Đến một lúc nào đó, các cuộc gọi sẽ thôi và mọi thứ kết thúc một cách thật lặng lẽ, tự nhiên.

Mình có nên thêm nàng vào số đếm ngược? Có phải nàng là một trong ba người phụ nữ có ý nghĩa thực sự với mình? Junpei đau đớn vì câu hỏi sau nhiều lần không thể đưa ra kết luận. Mình sẽ đợi thêm sáu tháng nữa, gã nghĩ. Sau đó mình sẽ quyết định.

Trong sáu tháng đó, gã đã viết rất tập trung và sáng tác rất nhiều truyện ngắn. Khi ngồi vào bàn trau chuốt một câu chuyện, gã sẽ nghĩ, Kirie có lẽ đang ở một nơi cao với gió vào lúc này. Mình đang ở đây, một mình ở bàn viết truyện, trong khi nàng đơn độc ở trên đó, không có dây an toàn. Khi nàng bước vào trạng thái tập trung đó, mọi nỗi sợ hãi đều tan thành mây khói: chỉ có nàng và gió. Junpei thường sẽ nhớ lại những lời của nàng và nhận ra rằng gã đã đến để cảm nhận điều gì đó thật đặc biệt đối với Kirie, điều mà gã chưa bao giờ cảm thấy với người phụ nữ khác. Đó là một cảm xúc sâu sắc, với những đường nét rõ ràng và có sức nặng thật sự. Gã vẫn không chắc nên gọi cảm xúc này là gì. Ít nhất, đó là một cảm giác không thể đổi lấy bất cứ thứ gì khác. Dù cho gã không bao giờ gặp lại Kirie đi chăng nữa, cảm giác này sẽ ở lại với gã mãi mãi. Ở đâu đó trong cơ thể của gã, có lẽ sâu trong tận xương tủy, gã vẫn sẽ tiếp tục cảm thấy sự thiếu vắng của nàng.

Khi sắp hết năm, Junpei đã quyết định. Gã sẽ coi nàng là số 2. Nàng là một trong những người phụ nữ có ý nghĩa thực sự với gã. Cú đập bóng số 2. Chỉ còn lại một người.

Nhưng gã không còn sợ nữa. Những con số không phải là điều quan trọng, gã tự nhủ. Việc đếm ngược hoàn toàn vô nghĩa. Bây giờ gã đã biết: điều quan trọng nhất là quyết định sâu trong tận trái tim mình để chấp nhận hoàn toàn một người khác. Khi làm điều đó, sẽ luôn luôn là lần đầu tiên và lần cuối cùng.

Vào một buổi sáng, nữ bác sĩ nhận ra quả thận đá sẫm màu đã biến mất khỏi bàn làm việc của mình. Và cô biết rõ: nó sẽ không bao giờ quay trở lại.

Hết.

Truyện ngắn Quả thận đá nhảy nhót mỗi ngày (Hibi idō suru jinzō no katachi wo shita ishi) được in trong tuyển tập truyện ngắn Hợp tuyển bí ẩn Tokyo (Tokyo Kitanshu) phát hành năm 2005.

Nguyễn Thảo Trang
dịch từ bản tiếng Anh của Phillip Gabriel

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Truyện ngắn | Đành Tâm Chối Bỏ – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

ĐÀNH TÂM CHỐI BỎ

Dazai Osamu

Khi đó, hai người đã bàn bạc với nhau.

“Được rồi. Chúng ta sẽ hoàn thành chuyện này nào. Ngay từ đầu em đã quyết ý rồi. Thật đấy anh ạ”, Kazue thì thầm bằng giọng khác lạ.

“Không thể được. Chuyện em quyết ý thì anh hiểu. Anh không phải là định chết một mình mà nghĩ đến chuyện là tự buông xuôi một mình bản thân anh thôi. Em còn có cả cha mẹ và em trai nữa. Anh biết là em còn để tâm đến chuyện đó nên không thể chấp nhận được đâu”, vừa phân trần những lý lẽ thiệt hơn như thế, Kashichi vừa quyết ý chết.

“Nếu anh định chết thì chúng ta sẽ cùng chết. Chắc thần linh sẽ tha thứ cho chúng ta thôi”.

Rồi hai người bắt đầu nghiêm túc chuẩn bị.

Một người vợ yêu tha thiết một con người sai trái với một người chồng hủy hoại cuộc sống hàng ngày của mình đến mức đẩy người vợ mình vào hành động như thế cả hai đều gắn kết với nhau trong ý định tìm đến cái chết. Đó là một ngày chớm xuân. Tiền sinh hoạt phí tháng này còn khoảng mười bốn, mười lăm yên. Hai người lén mang đi theo. Ngoài ra, tất cả những bộ quần áo mặc đắp đổi của hai người chỉ là một manh áo dotera của Kashichi, một bộ awase của Kazue, hai cái đai lưng. Tất chỉ còn có thế. Kazue gói tất cả vào chiếc khăn kuroshiki, cắp nách mang rồi hai vợ chồng cùng sánh vai nhau đi ra ngoài, một điều thật hiếm thấy. Người chồng không có áo măng tô. Thay vào đó, anh mặc một chiếc kimono vải vùng Kurume, đội chiếc mũ lưỡi trai, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nước biển tồi tàn, chỉ có đôi guốc gỗ geta là còn trắng tinh như mới. Người vợ cũng không có áo khoác. Cả áo choàng haori và kimono đều dệt bằng vải meisen hoa văn mũi tên, chiếc khăn choàng đỏ nhạt hàng ngoại quốc khoác phía nửa nửa thân người trên không cân xứng. Hai người tạm chia tay nhau ngay gần chỗ tiệm cầm đồ.

Vào buổi trưa nơi nhà ga Ogikubo, dòng người ra vào tấp nập. Kashichi lặng lẽ đứng đợi trước nhà ga, châm một điếu thuốc. Kazue đảo mắt tìm kiếm anh và khi nhận ra hình dáng của Kashichi, nàng chạy bổ đến như thể gần như vấp ngã.

“Thành công, thành công lớn rồi”, nàng nói như reo lên. “Người ta cho em mượn đến mười lăm yên đấy, ngu ngốc quá nhỉ”.

Người đàn bà này không thể chết được. Mình không thể để cho nàng chết. Nàng có bị đời vùi dập tàn nhẫn như mình đâu chứ. Nàng vẫn còn sức để mà sống còn cơ mà. Đây đâu phải là một người chết. Chỉ việc lên kế hoạch tự sát chắc chắn đã là lời tạ lỗi dành đến thế gian rồi. Chỉ vậy thôi là đủ. Chắc chắn nàng sẽ được tha thứ thôi. Vậy là đủ rồi. Còn mình sẽ chết một mình.

“Em khéo xoay xở thật đấy”, Kashichi mỉm cười khen ngợi. Anh muốn vỗ nhẹ lên vai nàng.

“Vậy tất cả là mình có chừng ba mươi yên. Mình có thể đi du lịch đây đó một chút đấy anh”.

Hai người mua vé tàu đến Shinjuku. Xuống ga Shinjuku, hai người đi đến hiệu thuốc. Họ mua một hộp thuốc ngủ loại lớn rồi lại đi đến một tiệm khác mua thêm một hộp nữa. Vì Kazue đứng đợi bên ngoài, chỉ có mình Kashichi bước vào mỉm cười hỏi mua nên người bán thuốc không nghi ngờ gì cả. Cuối cùng hai người vào cửa hàng Mitsukoshi, đến quầy dược phẩm. Vì khách hàng qua lại đông đúc nên hai người có chút can đảm mà mua thêm hai hộp thuốc ngủ nữa. Nữ nhân viên thu ngân khuôn mặt nhỏ thó đầy nghiêm túc, liếc đôi mắt đen nhìn anh có vẻ hồ nghi, nếp nhăn hiện rõ nơi ấn đường. Khuôn mặt của cô ta tỏ vẻ khó chịu. Kashichi cũng cảm thấy hoảng loạn. Anh không thể nặn ra được một nụ cười mỉm gượng gạo nào. Hộp thuốc lạnh lùng được giao ra. Phía sau chúng ta người ta đang kiễng chân lên mà nhìn đấy. Kashichi biết vậy nên cố tình nép sát vào Kazue, đi xuyên qua dòng người. Mặc dù hai người điềm tĩnh bước đi nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy một vẻ gì đó dị dạng. Kashichi cảm thấy buồn bã vô cùng. Sau đó, cũng tại Mitsukoshi, Kazue mua một đôi tất trắng, Kashiochi cũng mua thêm một gói thuốc lá ngoại thượng hạng rồi mới rời đi. Hai người đón taxi đi đến Asakusa. Hai người vào rạp chiếu phim, xem bộ phim “Trăng mọc trên hoang thành” đang công chiếu. Mở đầu phim là hình ảnh hàng rào và mái trường tiểu học ở một vùng quê và tiếng ngân nga của trẻ nhỏ. Điều đó làm Kashichi rơi nước mắt.

“Nghe nói các đôi tình nhân”, Kashichi nói với vợ mình trong bóng tối rạp chiếu. “Họ vừa xem phim vừa nắm tay nhau như thế này đấy”. Nói rồi Kashichi ngại ngùng dùng cánh tay phải của mình giấu dưới cái mũ lưỡi trai tìm đến tay trái của Kazue, thử nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé xem sao nhưng giữa hai vợ chồng đang ở trong tình thế khổ sở nên Kashichi cảm thấy mình chẳng sạch sẽ gì và sợ hãi nữa nên lặng lẽ buông tay ra. Kazue cười khúc khích. Nhưng không phải nàng cười vì trò đùa vụng về của Kashichi mà cười vì một động tác gây hài chán ngắt trên bộ phim đó.

Đây đúng là người phụ nữ tuyệt vời, hiền thục mà chỉ việc xem phim cũng khiến nàng trở nên hạnh phúc. Mình không thể giết một người như thế này được. Thật sai lầm khi để cho nàng phải chết.

“Mình sẽ chết đấy. Em thấy vậy được không?”

“Được mà anh”, Kazue vừa chăm chú xem phim vừa trả lời anh.

“Bởi vì anh muốn chết một mình thôi mà”.

Kashichi chợt cảm thấy cơ thể người phụ nữ thật là kỳ diệu. Khi hai người rời khỏi rạp chiếu phim thì trời đã tối. Kazue nói nàng muốn ăn sushi. Kashichi không thích sushi lắm vì có mùi tanh. Hơn nữa đêm nay anh muốn ăn thứ gì đó cao cấp hơn chút.

“Thôi anh không thích sushi đâu”.

“Nhưng em muốn ăn mà”.

Chính Kashichi đã dạy cho Kazue cái tính ích kỷ như thế, đã minh họa cho nàng cái cách uy hiếp giả vờ bằng khuôn mặt ngoan hiền nhu thuận đó.

Tất cả hành vi rồi sẽ quay trở lại mình thôi.

Tại tiệm sushi, hai người có uống chút rượu. Kashichi gọi món hàu chiên. Anh tự nhủ thầm với mình rằng đây là bữa ăn cuối cùng ở Tokyo rồi mỉm cười gượng gạo. Kazue ăn sushi cá ngừ.

“Có ngon không em?”

“Dở lắm anh”, nàng còn phồng má lên mà nhấn mạnh “dở thật đấy”.

Cả hai người không nói chuyện gì nhiều.

Rời khỏi quán sushi, hai người đến rạp biểu diễn hài kịch manzai. Rạp đông không có chỗ ngồi. Ngay cửa rạp người đứng lố nhố nhưng hai người vẫn cố gắng chen vào đứng xem, thỉnh thoảng lại còn phá ra cười nữa. Khán giả quá đông chen chúc nên Kazue dần bị kéo xa khỏi Kashichi đến gần mười mét. Kazue dáng người thấp bé nên nàng phải cố rướn người nhìn lên sân khấu qua vai người khác trông khổ sở vô cùng. Nhìn nàng như một thiếu nữ nhà quê vậy. Giữa vòng vây khán giả, Kashichi chốc chốc lại rướn người lên dõi theo bóng dáng của Kazue. Anh dõi nhìn nàng còn nhiều hơn nhìn lên sân khấu. Kazue ôm chặt cái túi được bọc bằng khăn furoshiki màu đen trước ngực, trong đó có cất mấy hộp thuốc ngủ nhưng vẫn xoay đầu bên này bên kia để nhìn lên sân khấu xem nghệ sĩ biểu diễn. Thỉnh thoảng nàng quay lại tìm bóng dáng của Kashichi. Thỉnh thoảng hai mắt chạm nhau nhưng hai người đều không cười. Kashichi làm ra vẻ mặt bình thản nhưng trong lòng anh lại rất yên tâm.

Nàng chăm sóc mình biết bao nhiêu. Không được quên điều đó. Tất cả trách nhiệm mình sẽ gánh vác. Nếu thế gian chỉ trích nàng, mình phải ra sức bảo vệ bằng mọi giá. Nàng là một người tốt. Điều đó thì mình biết. Và mình tin.

Chuyện sắp tới thì sao? Không được, không thể được. Mình đâu thể mỉm cười cho qua. Chỉ riêng chuyện này là mình không thể bình tĩnh nổi. Không thể nào chịu nổi nữa.

Hãy tha thứ cho tôi. Đây là chủ nghĩa vị kỷ cuối cùng của tôi đấy. Lý luận tôi có thể chịu đựng được. Thế nhưng cảm giác thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi không thể gắng gượng thêm được nữa rồi.

Làn sóng cười đùa lan rộng trong rạp hài kịch. Kashichi nháy mắt với Kazue rồi hai người cùng bước ra ngoài.

“Mình đi Minakami em nhé?”

Trước đó, vào mùa hè năm ngoái hai người đã cùng đi nghỉ ở một lữ quán suối nước nóng tên là Tanigawa Onsen sâu trong núi, cách ga Minakami khoảng một giờ đi bộ.

Tuy là một mùa hè khổ sở thật đấy nhưng mà cũng vì quá khổ sở mà giờ đây nó lại trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ ngọt ngào như tấm bưu thiếp đậm đà màu sắc. Núi sông trong cơn mưa rào trắng xóa thật là buồn đến chết người.

Nghe đến Minakami, tinh thần Kazue chợt phấn chấn hẳn lên.

“Nếu vậy em phải mua hạt dẻ ngào đường mới được, bà chủ cứ nói thèm ăn mãi thôi”.

Kazue cũng hay làm nũng với bà chủ lữ quán và bà chủ cũng có vẻ mến nàng nữa. Lữ quán như một dãy trọ nghiệp dư, chỉ có mỗi ba phòng, không có bồn tắm riêng trong nhà. Hai người phải đi đến cái lữ quán lớn bên cạnh còn không thì phải ngâm mình nơi bãi tắm lộ thiên nhỏ ven bờ sông xa mãi tít phía dưới Tanigawa mà ngày mưa thì phải mang dù còn đêm thì phải mang theo đèn lồng hay nến thắp nữa. Hai vợ chồng già chủ lữ quán hình như không có con cái gì và tuy chỉ có ba phòng cho thuê nhưng đôi khi khách cũng đến đông. Những lúc như thế vợ chồng chủ quán tất bật và Kazue có xuống giúp đỡ việc bếp núc hay gây phiền hà gì cho họ nữa không biết. Món ăn thì có thêm đậu nành lên men natto cá hồi nữa, nhà trọ bình thường làm gì có món này. Kashichi cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở đây. Bà chủ lữ quán bị những cơn đau răng hành hạ, Kashichi nhìn thấy vậy không nỡ mới tặng bà vài viên aspirin. Phương pháp này hiệu quả vô cùng, bà chủ uống xong cứ thế mà lăn ra ngủ khiến ông chủ vốn hay cưng chiều bà vợ cứ đi loanh quanh với vẻ mặt lo lắng. Kazue thấy cảnh đó thì phá lên cười. Một lần Kashichi đang gục đầu đi dạo nơi bãi cỏ gần đó bất chợt nhìn qua chỗ hành lang lữ quán thì thấy vị phu nhân già đó đang ngồi lặng lẽ nơi góc tối dưới cầu thang hành lang nhìn anh thẫn thờ. Điều đó đã trở thành bí mật quý giá của Kashichi. Tuy nói là bà chủ quán nhưng bà cũng chỉ tầm bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, có khuôn mặt phúc hậu quý phái, tính tình điềm đạm dịu dàng. Ông chủ thì cứ như đứa con nuôi của bà chủ vậy. Kazue tìm mua hạt dẻ ngào đường. Kashichi nói nàng mua nhiều nhiều một chút.

Khi đến ga Ueno, hai người đã bắt đầu ngửi thấy mùi quê hương xa cách. Kashichi lúc nào cũng lo sợ không biết có người nào cùng quê nhìn thấy mình không? Đặc biệt tối hôm đó những người bán hàng và nữ phục vụ dáng vẻ hớn hở cứ như đang lang thang trong ngày nghỉ vậy khiến anh càng phải để ý hơn. Tại cửa hàng, Kazue đã mua một ấn bản đặc biệt của truyện trinh thám hiện đại Nhật Bản còn Kashichi thì mua một chai whisky nhỏ. Hai người lên chuyến tàu lửa khởi hành đi Niigata lúc mười giờ rưỡi.

Sau khi an định chỗ ngồi đối diện nhau, hai người mới khẽ mỉm cười.

“Anh này, anh thấy điệu bộ em như vậy bà chủ sẽ lấy làm lạ hay không?”

“Không sao cả đâu. Em cứ nói là chúng ta đến Asakusa xem phim rồi trên đường về chồng tôi say túy lúy cứ nằng nặc đòi đến thăm bà chủ lữ quán ở Minakami nên bất đắc dĩ tôi cứ thế đưa anh ấy đây vậy. Em chỉ cần nói thế là ổn thỏa thôi”.

“Đúng vậy nhỉ”, Kazute đồng tình. Rồi nàng lại nói tiếp.

“Bà chủ mà thấy mình đến chắc sẽ ngạc nhiên lắm đây”, dáng vẻ của nàng đúng là tàu lửa chưa khởi hành thì không sao yên tâm được.

“Chắc bà ấy sẽ vui lắm đấy”, tàu bắt đầu chạy. Kazue làm vẻ mặt điềm nhiên liếc nhìn chỗ sân ga đợi tàu như thể mọi chuyện đã xong xuôi. Với tâm thế đã sẵn sàng mọi chuyện, nàng mở cái gói hành lý quấn bằng khăn furoshiki trên đầu gối, lấy ra tạp chí truyện trinh thám và bắt đầu lật trang. Kashichi cảm thấy đôi chân mỏi nhừ, nhưng ngực thì cứ phập phồng không yên. Anh chậm rãi nhấp whisky với tâm trạng như thể mình đang uống thuốc vậy.

Nếu mình có tiền thì đâu phải để cho Kazue chết chứ. Nếu như người đàn ông của nàng mà tính tình dứt khoát hơn một chút thì mọi chuyện đã khác rồi. Anh không nỡ lòng nào mà nhìn. Sự tự sát của nàng đúng là vô nghĩa.

“Này em có nghĩ anh là một người tốt không?”, Kashichi đột nhiên hỏi. “Anh nghĩ chắc chỉ có mình anh là cố gắng trở thành một người tốt thôi nhỉ?”

Anh bất chợt nói lớn làm Kazue kinh ngạc hoảng sợ sau đó nàng cau mày tức giận. Kashichi lại mỉm cười yếu ớt.

“Nhưng mà”, anh cố tình hạ thấp giọng. “Em vẫn chưa đến mức bất hạnh như vậy. Căn bản em là một người phụ nữ bình thường không xấu cũng chẳng tốt. Bản chất của em vốn là một người phụ nữ bình thường mà. Nhưng anh thì khác. Anh vốn là một kẻ tệ hại lắm, còn dưới mức bình thường nữa kia?”

Con tàu đi qua Akabane, qua Omiya và cứ thế chạy miệt mài trong bóng tối. Có thể vì say rượu whisky và bị tốc độ của đoàn tàu thúc đẩy nên bất giác Kashichi trở nên hoạt bát hùng hồn.

“Bị đàn bà ghét bỏ nhưng không sao thoát khỏi họ, suốt ngày cứ lẽo đẽo quẩn quanh mãi, anh biết đó tệ hại lắm. Ngu ngốc nữa. Nhưng mà anh đâu phải là đứa trẻ ngoan. Anh ghét phải trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn lắm. Anh là người tốt, bị đàn bà lừa gạt nhưng không sao rũ bỏ được người ta còn bắt người ta chết chung nữa. Bạn bè văn nghệ của anh sẽ nói thật là thuần khiết, thế gian sẽ cười chê là một con người yếu đuối bạc nhược. Người ta chắc sẽ nói những lời đồng cảm tùy tiện như thế đấy. Nhưng anh thì thua cuộc trước nỗi đau khổ của mình nên phải chết. Chứ đâu phải chết vì em chút nào đâu. Chỗ tệ hại của anh nhiều không kể xiết. Anh quá dựa dẫm vào người khác, quá tin tưởng vào sức lực con người. Chuyện đó và nhiều thất bại đáng xấu hổ khác của anh, anh biết cả chứ. Dù gì đi nữa anh cũng muốn sống một cuộc đời bình thường như con người ta, và đã không ngừng cố gắng cho đến bây giờ đấy. Em có hiểu không? Đó là cọng rơm duy nhất anh cố bám víu vào. Anh luôn cố gắng hết sức như thể thêm một chút sức nặng nữa cọng rơm sẽ đứt gãy vậy. Em hiểu chứ? Anh không phải là kẻ yếu đuối bạc nhược. Chỉ là phải gánh vác nỗi sầu khổ quá nặng nề mà thôi. Đó là sự ngu si và lòng căm hận. Thế nhưng nếu nói điều đó ra mà không nói một cách rõ ràng thì người ta sẽ căm ghét. Ngay cả em người quá tin tưởng vào sự mạnh mẽ của cái mặt dày trơ trẽn này của anh cũng sẽ xem thường mà nói “người đàn ông này luôn miệng nói là khổ sở nhưng chỉ là làm bộ làm tịch, kiểu cách mà thôi”.

Kazue lầm bầm điều gì đó.

“Nhưng mà, không sao hết. Không phải là anh chỉ trích hay phê phán gì em cả. Em là người tốt, lúc nào cũng ngoan hiền. Em là người mà người ta nói sao thì tin vậy. Anh không hoàn toàn có ý chỉ trích gì đâu. Ngay cả đám bạn cũ của anh, có học vấn hơn em gấp nhiều lần mà còn chẳng hiểu được nỗi đau khổ của anh nữa. Họ còn chẳng tin vào tình yêu của anh nữa. Mà cũng đâu phải là vô lý. Tại anh tệ hại quá mà”.

Khi anh nói vậy và mỉm cười, trong thoáng chốc Kazue trở bên tự đắc.

“Em hiểu mà. Nhưng đủ rồi đó. Người ta nghe được thì kỳ cục lắm anh”.

“Chắc em không hiểu chút gì đâu. Có lẽ với em anh là kẻ vô cùng ngu ngốc. Có lẽ bây giờ trong góc nào đó khuất kín của tim anh, ý định cố gắng làm một người tốt vẫn còn ẩn nấp đâu đó. Chính vì thế mà anh mới khổ sở đây này. Anh đã sống chung với em sáu, bảy năm rồi nhưng em vẫn chưa một lần nào ghét bỏ cả. Không, anh không có ý chỉ trích gì em hết cả đâu. Điều này là đương nhiên thôi. Có phải là trách nhiệm của em đâu mà”.

Kazue không nghe gì hết. Nàng im lặng đọc tạp chí. Kashichi làm vẻ mặt nghiêm trọng, nhìn ra phía cửa sổ toa tàu tối đen, lẩm bẩm một mình như độc thoại.

“Không phải đùa đâu. Tại sao anh lại là người tốt như thế này chứ? Mọi người cứ chê bai anh đủ thứ, nào là nói dối, lười biếng, kiêu ngạo, xa xỉ, kẻ dụ dỗ đàn bà và nhiều tên gọi xấu xa đáng sợ nữa. Thế nhưng anh chỉ im lặng mà thôi. Không biện giải một lời nào cả. Anh cũng có niềm tin riêng của mình chứ. Có điều anh không thể nào nói ra được cả. Nếu vậy thì còn ra thể thống gì nữa chứ. Không, anh nghĩ đó chính là sứ mệnh lịch sử. Anh không thể sống với hạnh phúc của riêng mình thôi. Mình sẽ đóng một vai phản diện trong lịch sử. Tội ác của Giuda càng ghê gớm thế nào thì ánh sáng nhân từ của chúa Giêsu càng lớn lao chừng đó. Anh nghĩ mình là một loại người tự hủy diệt chính mình. Đó là thế giới quan của anh. Anh thử thực hiện một phản đề mạnh mẽ. Càng nhấn mạnh đến cái xấu của việc tự hủy thì cái bàn đạp của nguồn ánh sáng khỏe mạnh sinh ra từ đó càng bật trở lại dữ đội hơn. Anh tin như vậy và nguyện cầu cho điều đó. Còn bản thân anh thì sao cũng được cả. Anh nghĩ nếu vai trò của mình là phản lập pháp mà có thể đóng góp chút gì đó cho sự tươi sáng ngày mai thì anh chết đi cũng được. Thực sự chuyện này sẽ không ai cười chê đâu. Anh nghĩ vậy đấy. Anh ngu ngốc thật. Có lẽ anh đã sai ở chỗ nào rồi đây. Có lẽ anh có chút tự phụ ở chỗ nào đó đây. Có lẽ chính điều đó là một giấc mơ ngọt ngào. Cuộc sống đâu phải là một vở kịch chứ. Dù sao anh đã thua cuộc và gần chết rồi nên những lời nói riêng với em là hãy cố gắng lên thì đúng là sai lầm thật đấy. Ngay cả chó cũng còn không thèm ăn bữa tiệc từ mùi xú uế của xác anh khi vứt bỏ mạng sống của mình nữa. Có lẽ nó còn gây phiền hà cho người được cho nữa. Vì nếu không giúp ích gì cho sự phồn vinh của họ, thì điều đó có nghĩa gì đâu…”

Cửa sổ toa tàu chỉ im lặng, chắc chắn không có câu trả lời.

Kashichi đứng dậy, lảo đảo đi tìm nhà vệ sinh. Sau khi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại đàng hoàng, Kashichi do dự một chút rồi tập trung chắp hai tay lại. Dáng vẻ nguyện cầu. Không có chút làm bộ làm tịch nào cả.

Khi tàu đến ga Minakami thì đã là bốn giờ sáng. Trời vẫn còn tối. Lớp tuyết dày đáng lo ngại gần như đã tan hết, chỉ hai người còn lại trong bóng tối nhạt mờ nơi sân ga. Mặc dù nghĩ rằng với tình hình này mình có thể đi bộ đến suối nước nóng Tanigawa trong núi nhưng Kashichi vẫn thận trọng đánh thức người tài xế taxi đang ngủ phía trước nhà ga.

Chiếc xe lượn vòng theo hình dích zắc, chậm chạp bò lên trên núi. Tuyết bao phủ núi đồi ngập tràn đến mức nhuộm sáng cả bầu trời u tối.

“Trời lạnh thật đấy nhỉ. Tôi không ngờ lại lạnh như thế này. Ở Tokyo giờ này vẫn còn có người mặc áo vải serge mà đi dạo đấy chứ?”

Anh giải thích với người tài xế lúc chỉnh trang lại y phục của mình. “A, rẽ phải ngay chỗ đó nhé”.

Khi đến gần lữ quán, Kazue chợt trở nên hoạt bát. “Chắc giờ hai ông bà vẫn còn đang ngủ đấy chứ?”, rồi nàng nói tiếp với người tài xế. “Vâng, lên trước một chút nữa ạ”.

“Được rồi, dừng lại”, Kashichi nói. “Còn lại chúng ta đi bộ thôi”. Phía trước là con đường chật hẹp.

Rời khỏi xe taxi, Kashichi và Kazue cởi tất chân và cùng nhau đi bộ khoảng năm mươi mét đến chỗ lữ quán. Tuyết trên đường đang tan bám một lớp mỏng ướt át nguy hiểm vào đôi guốc hai người đang mang. Khi Kashichi định gõ cửa lữ quán, thì Kazue đang đi chậm phía sau anh một chút vội vàng chạy lên mà nói.

“Để em gõ cửa cho. Chính em đánh thức bà chủ dậy mới được”.

Vẻ mặt của nàng thật đúng như đứa trẻ đang muốn tranh công vậy.

Vợ chồng chủ lữ quán vô cùng kinh ngạc. Nói đúng hơn là họ hoảng hốt một cách thầm lặng.

Kashichi một mình xăm xăm lên tầng hai, vào căn phòng mà anh từng nghỉ lại mùa hè năm trước, với tay bật công tắc đèn. Anh nghe tiếng Kazue vọng đến.

“Tại vì chồng con cứ nhất quyết phải đến chỗ bà bằng được đấy mà. Nghệ sĩ đúng là trẻ con bà nhỉ?”

Kazue vui vẻ cười đùa như thể không để tâm đến lời nói đối đó. Nàng tiếp tục nói về chuyện ở Tokyo người ta đang mặc áo serge mà đi dạo ngoài đường.

Bà chủ lặng lẽ lên tầng hai, chậm chạp mở cánh cửa chớp rồi nói.

“Lâu rồi cậu mới đến nhỉ?”

Bên ngoài, trời đã sáng hơn mấy phần. Dãy núi trắng tinh gần như hiện ra ngay trước mắt. Khi Kashichi thử nhìn xuống thung lũng, anh có thể thấy lờ mờ một dòng sông đen đang chảy dưới lớp sương mù buổi sáng.

“Lạnh kinh người”, anh nói dối dù trời không lạnh đến mức như vậy. “Muốn uống rượu ghê”

“Cậu vẫn ổn cả chứ?”

“À, ổn lắm. Tôi mập ra đây này”.

Kazue tự mình mang lên một cái bàn sưởi kotatsu lớn.

“A nặng quá. Này bà ơi, con mượn cái bàn sưởi này của ông một chút nhé. Ông cũng nói con có thể mượn đấy. Lạnh ghê nơi”

Không nhìn về phía Kashichi, nàng cứ thế mà nói đùa chơi một mình theo cách rất kỳ khôi.

Nhưng khi chỉ còn lại hai người, nàng ngay lập tức trở nên nghiêm túc.

“Em mệt rồi. Giờ mình đi tắm rồi ngủ một giấc thôi anh”.

“Có lẽ mình xuống chỗ tắm lộ thiên phía dưới được đấy nhỉ?”

“Có lẽ được đấy anh. Ông chủ cũng nói ông xuống đó ngâm mình mỗi ngày mà”.

Ông chủ mang một đôi giày rơm lớn, tiếp tục giẫm lên lớp tuyết mới rơi hôm qua đã bị giẫm cứng tạo thành đường đi chỉ dẫn cho Kashichi và Kazue. Hai người theo sau xuống đến dòng sông dưới thung lũng trong ánh rạng đông. Hai người cởi kimono để trên tấm chiếu rơm do ông chủ mang đến rồi ngâm mình trong làn nước ấm. Thân hình Kazue thật đầy đặn tròn trịa. Thật không sao nghĩ được là tối hôm nay cơ thể đó sẽ trở thành vật chết.

Chờ cho ông chủ đi khỏi, Kashichi mới nói.

“Khu vực đó đấy nhỉ?”

Nói xong Kashichi hất cằm về phía dãy núi trắng với sương mù buổi sáng đang chậm chạp phủ vây.

“Nhưng tuyết dày quá. Không biết mình có leo lên được không anh?”

“Vậy thì mình đi xuống phía hạ lưu một chút. Phía ga Minakami tuyết không dày lắm đâu”.

Hai người cùng nhau thảo luận về nơi sẽ chết.

Khi trở về lữ quán, hai người đã thấy chăn mền trải sẵn. Ngay lập tức Kazue trườn vào và bắt đầu đọc tạp chí. Phía dưới chân nàng là một lò lửa lớn, có vẻ ấm áp vô cùng. Còn Kashichi cuộn tấm chăn của mình lại, ngồi khoanh chân trước bàn, sát với lò than và uống rượu. Mồi nhắm là cua đóng hộp và nấm đông cô sấy khô. Còn có cả táo nữa.

“Này, em có muốn ở thêm một đêm nữa không?”

“Vâng”, Kazue vừa đọc tạp chí vừa trả lời. “Em thì sao cũng được. Nhưng có vẻ mình không còn đủ tiền đấy anh”.

“Vậy mình còn khoảng bao nhiêu?”, Kashichi vừa hỏi vừa cảm thấy xấu hổ đỏ bừng mặt mũi.

Vẫn còn do dự. Đáng căm ghét. Điều cẩu thả nhất trên đời. Mình thật vô dụng. Mình vẫn còn chưa quyết ý như vậy phải chăng là vì vẫn còn quyến luyến ham muốn thân hình của người phụ nữ này chăng?

Kashichi khổ sở.

Mình còn ý muốn sống tiếp với người phụ nữ này nữa sao? Nhưng còn nợ nần, số tiền vay mượn bất chấp đạo lý thì sao? Thanh danh nhơ nhuốc, tiếng xấu nửa dại nửa điên thì phải làm sao đây? Nỗi khổ sở bệnh tật mà ai cũng mỉa mai không chịu tin thì phải làm sao chứ? Rồi còn gia đình họ hàng nữa chứ.

“Này, có vẻ như em phải chịu thua trước gia đình của anh rồi nhỉ. Có vẻ là vậy rồi”.

Kazue mắt vẫn nhìn vào quyển tạp chí, trả lời ngay lập tức.

“Đúng vậy. Dù sao em cũng là người con dâu mà không ai ưa nổi cả”.

“Không, không thể nói hoàn toàn như vậy được. Nhưng em cũng có một phần thiếu cố gắng nữa”.

“Đủ rồi đấy”, Kazue nói và ném quyển tạp chí đi. “Anh chỉ suốt ngày nói lý lẽ. Vì thế mà em rất ghét đấy”.

“A, ra vậy? Thì ra em căm ghét anh à? Thật là thất lễ quá đi”, Kashichi nói giọng say sưa lè nhè.

Tại sao mình không ghen tức nhỉ? Phải chăng mình quá tự phụ kiêu ngạo chăng? Chắc chắn là mình không căm ghét chính mình rồi? Mình có thể tin điều đó đấy. Mình cũng không thèm nổi giận nữa. Một người như vậy có phải là quá đỗi yếu đuối bạc nhược hay không? Có lẽ chính cái cách cảm nhận của mình như vậy mới là ngạo mạn không biết chừng? Nếu như vậy thì tất cả những suy nghĩ của mình đều là tệ hại hết cả. Cách sống của mình từ xưa đến giờ cũng đều là hư hỏng hết. Đó cũng chẳng phải là điều vô lý hay bí ẩn gì mà tại sao mình không thể đơn giản là cảm thấy căm ghét được chứ? Chẳng phải lòng ghen tuông như thế mới đơn thuần và đẹp đẽ hay sao? Chính cơn nổi giận lôi đình muốn trừng phạt kẻ ngoại tình mới là sự trung thực cao nhất chứ? Chính cái tư thế uất ức muốn chết đi vì bị đả kích do bị vợ mình phản bội mới là nỗi buồn thanh thuần chứ nhỉ? Nhưng mà mình là gì chứ? Mình là người do dự không dứt khoát, là người tốt, nào là đạo đức, tôn nghiêm, tiền vay mượn, trách nhiệm, sự nhờ vả, phản đề, nghĩa vụ lịch sử, gia đình họ hàng… A, không thể nào được.

Kashichi nghĩ mình muốn vung gậy loạn xạ để đập vỡ đầu mình.

“Ngủ một giấc rồi xuất phát. Quyết định vậy đi”.

Kashichi với tay lấy đại tấm nệm futon của mình rồi vùi người vào đó.

Có vẻ đã khá say nên Kashichi có thể ngủ được. Khi anh mơ màng thức dậy thì đã quá trưa. Kashichi không thể nào chịu nổi sự cô đơn hiu quạnh. Anh bật ngay dậy vừa nói lạnh quá lạnh quá rồi gọi người ở nhà dưới mang rượu lên.

“Này, dậy đi em. Mình xuất phát nào”.

Kazue ngủ với cái miệng he hé mở ra. Nàng mở mắt dậy thảng thốt.

“A, mình ngủ đến giờ này luôn à?”

“Không, chỉ mới quá trưa một chút thôi. Nhưng anh không chịu nổi nữa rồi”.

Mình không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa. Mình chỉ muốn chết thật nhanh thôi.

Rồi sau đó mọi chuyện diễn biến nhanh chóng. Kashichi để Kazue nói với ông bà chủ là hai người muốn đi tham quan suối nước nóng gần đây rồi rời lữ quán. Bầu trời xanh thoáng đãng, vì hai người vừa xuống núi vừa muốn ngắm quang cảnh trên đường đi nên không gọi xe taxi. Đi đến một quãng xa ngoái nhìn lại thì thấy bà chủ lữ quán đang chạy đuổi theo sau.

“Này bà chủ đang đến đấy”, Kashichi nói với vẻ bất an.

“Này, cầm lấy”, bà chủ lữ quán đỏ mặt đưa cho Kashichi một gói giấy.

“Vải sồi đấy. Tôi tự se sợi làm thành đấy. Không có gì đâu”.

“Cám ơn bà nhé”, Kashichi nói.

“Bà lo lắng cho chúng cháu quá”, Kazue nói. Rồi hai người cảm thấy nhẹ nhõm làm sao.

Khi Kashichi hăm hở bước đi thì nghe bà chủ nói.

“Đi cẩn thận nhé”.

“Chà bà chủ cũng giỏi giang ghê nơi”.

Phía sau hai người, bà chủ vẫn còn đứng chào. Kashichi đột nhiên quay người lại và nói.

“Bà chủ, bắt tay cái nào”.

Bị nắm tay thật chặt, vẻ mặt bà chủ trở nên ngượng ngùng và có phần sợ hãi nữa.

“Anh ấy say rượu đó mà”, Kazue đứng bên cạnh giải thích.

Thì ra say rượu à? Hai người chia tay bà chủ tươi cười rồi chậm chạp xuống núi. Tuyết đã mỏng dần. Kashichi bắt đầu thì thầm bàn bạc với Kazue là chỗ này nhỉ hay là chỗ kia thì được. Kazue nói thôi để gần phía ga Minakami hơn một chút để bớt cảm thấy cô đơn. Và rồi khu phố Minakami bắt đầu hiện ra dưới tầm mắt.

“Không còn do dự gì nữa hết nhỉ?”, Kashichi làm ra vẻ vui vẻ mà nói.

“Vâng”, Kazue nghiêm túc gật đầu.

Kashichi cố ý đi vào khu rừng sam phía bên trái con đường. Kazue lầm lũi theo sau. Tuyết gần như đã tan hết. Lá rụng chất chồng dày đặc ẩm ướt. Không sao cả, cứ tiến lên thôi. Chỗ dốc thì lần mò leo lên. Ngay cả cái chết cũng phải cần nỗ lực. Cuối cùng cũng tìm được bãi cỏ rộng đủ chỗ cho hai người ngồi. Chỗ này cũng có ít nắng rọi vào và cả một con suối nhỏ nữa.

“Chỗ này đi nhé”, hai người đã thấm mệt.

Kazue lấy cái khăn tay trải ra ngồi xuống và bị Kashichi cười chế nhạo. Kazue gần như im lặng. Kashichi lấy từng hộp thuốc ra và xé bao bì. Anh lấy thuốc ra và nói.

“Loại thuốc này anh rành lắm. Em chỉ cần uống chừng này là đủ thôi”.

“Sao ít vậy? Chùng này có đủ chết không anh?”

“Người mới sử dụng lần đầu chỉ cần như vậy thôi là đủ chết rồi đấy. Còn anh uống tùy tiện đã quen nên phải gấp mười lần em mới được. Nếu còn sống thì anh thật không thể nào nhìn em mà chịu nổi đâu”. Nếu còn sống thì đúng là ngục tù đấy.

Tuy vậy, chẳng phải việc mình để cho Kazue sống sót chính là cách trả thù ti tiện đó hay sao? Không lẽ lại giống tiểu thuyết thông tục viết để chiều lòng người đến thế? Kashichi thậm chí còn cảm thấy phát cáu lên, đổ hết thuốc đầy cả lòng bàn tay, rồi dùng nước suối mà uống cạn. Kazue thấy thế cũng vụng về lấy thuốc uống cùng.

Hai người hôn nhau rồi cùng ngả người nằm xuống.

“Chà, thôi vĩnh quyết từ đây. Người nào còn sống sót thì phải sống cho mạnh mẽ lên nhé”.

Kashichi biết rằng chỉ với số thuốc ngủ này thì mình vẫn chưa thể chết được. Anh lặng lẽ di chuyển thân mình ra đến rìa vách đá, tháo dây đai lưng áo, buộc ngang cổ, một đầu buộc vào thân cây gì giống như cây dâu để đến khi anh vừa thiếp ngủ thì người cũng trượt ra ngoài vách đá rồi bị siết cổ đến chết. Anh đã lên kế hoạch trước. Vì thế mà Kashichi mới cố ý chọn bãi cỏ trên vách đá này. Anh thiếp đi và lơ mơ nhận thấy mình bị trượt ngã.

Lạnh quá. Anh mở mắt ra. Trời đất tối đen. Ánh trăng lênh láng. Đây là nơi đâu?

Hốt nhiên anh nhận ra mình còn sống.

Kashichi đưa tay lên cổ. Dây đai lưng vẫn quấn chặt. Lưng anh lạnh ngắt. Anh đã trượt xuống vũng nước. Và bất chợt hiểu ra. Anh đã không rơi thẳng theo vách đá mà cơ thể anh nghiêng qua trượt xuống vũng nước trên mỏm đá thôi. Nước rỉ ra từ con suối đọng thành vũng lạnh đến nỗi anh muốn đông cứng lại từ đầu đến chân. Mình vẫn sống. Chưa thể chết được. Đây là một sự thực nghiêm túc. Nhưng trên tất cả, không được để cho Kazue chết. A, còn phải ráng sống, ráng mà sống thôi.

Tứ chi bải hoải, đứng dậy cũng chẳng phải dễ dàng gì. Dùng toàn bộ sức lực, Kashichi ráng ngồi dậy, tháo chiếc đai lưng một đầu đang buộc vào thân cây ra khỏi cổ, khoanh chân ngồi trong vũng nước, nhìn quanh quẩn. Không thấy bóng dáng của Kazue đâu cả.

Kashichi bò xung quanh tìm kiếm Kazue. Dưới vách đá có một vật thể màu đen. Nhìn giống như một con chó nhỏ. Khi anh lần mò bò xuống vách đá để nhìn cho kỹ hơn thì đúng là Kazue. Kashichi thử nắm lấy chân nàng xem thử thì thấy lạnh toát. Không lẽ chết rồi sao? Anh dùng lòng bàn tay đặt nhẹ lên miệng của Kazue để kiểm tra hơi thở. Không có. Ngu ngốc thật. Chết luôn rồi à? Sao ích kỷ như thế chứ? Tự nhiên anh cảm thấy tức giận một cách kỳ lạ. Kashichi thô bạo nắm lấy cổ tay Kazue để xem mạch đập. Mạch đập yếu ớt như tơ. Còn sống. Vẫn còn sống. Anh đưa tay lên ngực nàng thử xem. Vẫn còn ấm. Gì đây chứ. Thật là ngu ngốc mà. Mình ghét phải sống. Cũng ghê gớm, ghê gớm đấy. Anh thấy tội nghiệp quá đỗi. Chỉ với chừng đó thuốc làm sao có thể chết được cơ chứ. Cảm thấy chút gì đó như niềm hạnh phúc, Kashichi nằm xuống cạnh Kazue và sau đó anh cũng chẳng biết trời trăng mây gió gì nữa.

Khi Kashichi thức dậy lần thứ hai, anh thấy Kazue bên cạnh đang ngáy rền. Kashichi nghe thấy mà cảm thấy xấu hổ. Đúng là một người phụ nữ khỏe mạnh thật.

“Này, Kazue, tỉnh dậy đi em. Mình còn sống. Hai đứa mình vẫn còn sống cả đấy”. Kashichi vừa mỉm cười khổ sở vừa lay bờ vai của Kazue.

Kazue nằm ngủ rất yên bình. Những cây sam núi cao vút đứng lặng lẽ trong đêm khuya, nửa vầng trăng lạnh lẽo treo trên đầu ngọn cây hình mũi kim sắc nhọn. Không hiểu sao Kashichi trào nước mắt. Rồi anh bật khóc thổn thức. Mình vẫn còn là một đứa trẻ. Tại sao một đứa trẻ lại phải chịu đớn đau khổ sở như thế này?

Đột nhiên Kazue nằm bên cạnh anh hét lên.

“Đau quá bà ơi. Ngực con đau quá”, giọng nàng nghe như tiếng sáo.

Kashichi kinh ngạc. Giọng nàng lớn đến mức nếu có người đi qua nơi con đường dưới núi mà nghe thấy thì chắc chịu không nổi.

“Kazue à. Đây không phải là lữ quán đâu. Bà chủ không có ở đây đâu mà”.

Chắc chắn Kazue không hiểu. nàng cứ kêu gào đau lắm đau lắm rồi lăn lộn khổ sở nhào xuống phía dưới. Kashichi nghĩ không khéo con dốc thoai thoải này sẽ đưa thân hình Kazue xuống đến tận con đường phía dưới núi nên vội vàng ráng sức lăn người đuổi theo theo sau. Bị một cây sam lớn ngáng đường, Kazue bám chặt vào đó rồi gào lớn.

“Lạnh quá, bà ơi. Mang cho con cái lò sưởi kotatsu đi”.

Khi Kashichi tiến lại gần và nhìn khuôn mặt Kazue phản chiếu dưới ánh trăng thì thấy hình dáng nàng gần như không phải là con người nữa. Mái tóc sổ tung ra bám dính đầy lá mục, rối tung rối mù như thể tóc của nhân vật bị sư tử nhập trong kịch Kabuki, như tóc của Sơn mụ trong truyền thuyết.

Mình phải mạnh mẽ lên, chỉ còn lại một mình cũng phải mạnh mẽ lên. Kashichi lảo đảo đứng dậy, ôm lấy thân hình Kazue, cố sức đưa nàng về lại phía khu rừng sam. Ngã quỵ, bò lên, trượt xuống, bám vào thân cây, cấu cào mặt đất, từng chút từng chút, Kashichi đưa Kazue về phía khu rừng. Nỗ lực miệt mài suốt mấy tiếng đồng hồ liên tục.

A, thôi đủ rồi. Người đàn bà này quá nặng nề với mình. Nàng là người tốt nhưng quá thừa với mình. Mình là kẻ yếu ớt vô lực. Mình phải khổ sở vì con người này cho đến hết đời sao? Không được, chán rồi. Chia tay đi thôi. Mình đã cố gắng tận cùng sức lực. Đó là lúc Kashichi quyết tâm dứt khoát. Người đàn bà này không được. Chỉ có mình cứ bám víu mãi. Thôi người đời nói gì cũng mặc kệ. Mình sẽ chia tay với người đàn bà này thôi.

Bình minh đến gần, bầu trời chuyển sang màu trắng. Kazue cũng dần dần trở nên ngoan hiền trở lại. Sương sớm phủ khắp khu rừng.

Cứ đơn giản thẳng thắn thôi. Thẳng thắn đơn giản vào. Đừng cười sự đơn giản của từ “nam tính”. Con người không có cách sống nào khác hơn sống đơn giản đâu.

Kashichi cẩn thận dùng tay gỡ từng chiếc lá sam bám trên đầu Kazue đang nằm ngủ bên cạnh mình.

Mình yêu người đàn bà này. Mình yêu nàng mà không hiểu tại sao. Chính nàng là nguồn cơn của nỗi khổ đau của mình. Nhưng mà thôi đủ rồi. Mình đã có được sự mạnh mẽ để vừa yêu vừa cách xa. Để sống sót thì ngay cả tình yêu cũng phải hy sinh. Điều này chẳng phải là đương nhiên hay sao chứ? Con người trên thế gian này đều sống như vậy cả mà. Sống đương nhiên như thế. Đâu còn cách sống nào khác đâu. Mình không phải thiên tài cũng chẳng phải kẻ điên khùng gì.

Kazue cứ ngủ ngon lành cho đến quá trưa. Trong khoảng thời gian đó, Kashichi cứ vừa loạng choạng mà làm đủ việc như cởi bộ quần áo kimono sũng nước của mình phơi khô rồi đi quanh quẩn tìm đôi guốc của Kazue, chôn những hộp thuốc rỗng xuống đất, dùng khăn tay lau những vết bùn đất trên quần áo của Kazue.

Khi Kazue thức dậy và nghe Kashichi kể về chuyện đêm hôm qua, nàng liền vội cúi đầu.

“Xin lỗi anh”. Kashichi mỉm cười.

Kashichi giờ có thể đi bộ nhưng Kazue thì vẫn chưa. Hai người cứ ngồi yên một lúc lâu, bàn bạc chuyện hôm nay và về sau. Tiền bạc thì còn khoảng gần mười yên. Kashichi thì có ý muốn hai người cùng quay trở về Tokyo nhưng Kazue thì nói là bộ quần áo kimono của mình quá bẩn thỉu không thể cứ thế mà lên tàu được đâu. Cuối cùng hai người thống nhất phương án là Kazue sẽ đón xe taxi, quay trở lại lữ quán Tanigawa, nói dối với bà chủ là mình đi tản bộ đến chỗ suối nước nóng kia rồi bị té ngã mà lấm lem hết quần áo, rồi ở lại đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng còn Kashichi thì lên tàu về Tokyo trước mang theo tiền bạc và quần áo quay trở lại đón sau. Vì quần áo của Kashichi đã khô nên anh một mình rời khỏi khu rừng sam, xuống đến phố Minakami mua bánh gạo, kẹo caramal và nước chanh rồi quay về cùng ăn với Kazue. Kazue nhấp một ngụm nước chanh và nôn ra.

Hai người ở bên nhau cho đến khi trời tối. Cuối cùng Kazue cũng có thể nhúc nhắc đi lại được. Hai người cùng nhau lẻn ra khỏi khu rừng. Sau khi đón taxi cho Kazue quay về lữ quán suối nước nóng, Kashichi một mình trở về Tokyo bằng tàu lửa.

Sau đó Kashichi bộc bạch mọi chuyện với chú của Kazue và nhờ vả mọi chuyện còn lại. Người chú vốn kiệm lời, nghe thế thì nói.

“Thật là đáng tiếc quá”.

Vẻ mặt chú thể hiện sự tiếc nuối thật sự.

Người chú đi đón Kazue trở về cho nàng tá túc ở nhà mình.

“Con bé Kazue này cứ như con gái của ông bà chủ lữ quán vậy. Đêm đến nó cứ trải nệm futon giữa hai ông bà mà ngủ ngon lành. Đúng là kỳ lạ thật”. Người chú nói và lắc đầu cười. Ngoài ra không còn nói thêm bất cứ điều gì nữa.

Người chú này rất tốt. Cho dù là Kashichi đã chia tay hẳn hoi với Kazue mà vẫn không giữ kẽ gì, thỉnh thoảng vẫn cứ cùng Kashichi đi chơi bời uống rượu. Nhưng có đôi lúc, người chú như nhớ ra điều gì và bất chợt nói.

“Kazue cũng tội nghiệp thật đấy chứ”.

Mỗi lần như vậy, Kashichi lại cảm thấy yếu đuối và khó xử vô cùng.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn | Hải Âu – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

HẢI ÂU

Dazai Osamu

ひそひそ聞える。なんだか聞える。

Hãy nghe lời thì thầm. Người có nghe gì không?

“Tôi cười tôi khóc bâng quơ, người nghe người khóc có ngờ chi không?”

 (Bùi Giáng)

Hải âu là loài chim câm. Nghe như vậy hầu hết mọi người đều thản nhiên thừa nhận mà nói rằng à, ra vậy, có lẽ vậy nhỉ. Nhưng tôi nghe thế thì vô cùng hoảng hốt buồn thương mà thú nhận cảm xúc thất thường của mình là “Trời, sao tội vậy? Thật ư? Bị câm thì thật là buồn”. Đôi khi tôi cảm thấy mình như loài chim hải âu câm lặng đó.

Đã đủ tuổi chín chắn rồi vậy mà ban ngày vì buồn bã chán chường ra ngoài đi dạo, lấy chân đá vào viên sỏi nhỏ trên đường cho nó lăn lăn rồi đi một lúc lại lén lấy chân đá tiếp đến khi định thần thì thấy mình đã chạy đuổi mà đá cùng một viên sỏi đến hai ba quãng đường. Tôi lại đuổi theo đá tiếp. Cứ hai tay đút túi, đá viên sỏi rồi đi như một kẻ ngớ ngẩn ngu si. Quả thật mình là một kẻ bệnh tật quá nhỉ? Mình đã sống sai cách rồi. Có lẽ mình đã hiểu nhầm về việc viết tiểu thuyết. “Được rồi”, tôi thử cất lên một tiếng thì thầm với mình rồi lấy đà nhảy qua vũng nước giữa đường. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh với mây trắng lững lờ. Vũng nước sao mà đẹp quá, tôi nghĩ thầm. Hốt nhiên, gánh nặng trên vai được tháo xuống, tôi muốn mỉm cười. Chừng nào vũng nước nhỏ này còn tồn tại thì nghệ thuật của tôi sẽ có nền tảng mà dựa vào. Tôi quyết định mình sẽ không bao giờ lãng quên vũng nước đó.

Mình là một gã đáng hổ thẹn. Sống không có phương hướng gì hết. Có lẽ mình chỉ là một người trong số “đám đông” trôi dạt vô định ngả nghiêng phải trái theo từng con sóng đời đưa đẩy thôi chăng? Bây giờ mình lại lên chuyến tàu lửa tốc hành với tốc độ kinh người này để làm gì cơ chứ? Chuyến tàu này đi về đâu mình còn chẳng biết nữa mà. Mà cũng chẳng có ai chỉ cho mình biết. Tàu cứ thế mà chạy với những tiếng rền vang ầm ĩ. Bây giờ là qua núi, bây giờ là bãi biển, bây giờ là cầu sắt, vừa qua cầu thì đến một đường hầm tối tăm, và rồi cánh đồng trải rộng. Tàu đi mải miết, cảnh sắc cứ trôi miệt mài… Tôi bâng quơ thờ thẫn nhìn phong cảnh lướt qua cửa sổ toa tàu. Tôi dùng ngón tay vẽ vời dáng vẻ khuôn mặt nhìn nghiêng trên cửa kính rồi lại xóa đi. Ngày dần tàn, ngọn đèn điện trong toa tàu sáng lên hiu hắt. Tôi lần giở hộp cơm nghèo nàn mang theo ăn trong lặng lẽ. Món cá khô sao mà cô đơn vô hạn, tôi ăn không sót một hạt cơm nào, rồi hút điếu thuốc Bat giá chín xu. Đêm khuya rồi, mình phải ngủ thôi. Thế là tôi ngủ. Dưới gối, tiếng tàu nghiến trên đường ray rền rĩ. Dù vậy thì mình cũng phải ngủ thôi. Tôi nhắm mắt lại. Bây giờ tàu đang qua núi, bây giờ tàu qua vịnh biển…Giọng cô trinh nữ tội nghiệp hát bài ca đó như vang vọng từ dưới đáy thịnh nộ của tiếng tàu rền vang.

Có người nào mà không nhiệt tình ái quốc chứ? Nhưng tôi không thể nói ra điều đó. Tôi không thể trâng tráo nói lớn giọng về điều đó được. Từ trong đám đông, có lần tôi đã lén nhìn những người lính ra trận rồi khóc thút thít. Mình sức khỏe hạng ba. Bẩm sinh cơ thể đã yếu đuối bạc nhược. Ngay cả khi hít xà đơn, tôi cũng cứ thế treo người mà không thể làm nổi một động tác nào. Còn tập thể dục theo đài radio thì còn không tập hết bài luôn. Thân thể đã yếu ớt như thế mà tinh thần lại còn bạc nhược nữa. Đúng là hết thuốc chữa. Mình không có lấy một chút lực nào mà đi chỉ dẫn người ta. Ngay cả lòng ái quốc lặng thầm đây mình nào có thua ai mà không không thể nói ra được. Tôi cảm thấy như những lời tuyên ngôn ái quốc dâng trào đến tận cổ họng mà sao mình vẫn không thế nói được. Không phải là mình biết mà không nói. Lời sắp sửa trào ra khỏi họng luôn mà sao lại không thốt ra được. Tôi cảm giác đó là những lời rất đẹp đẽ và mình bây giờ đang nắm chặt lấy những ngôn từ kia rồi mà càng vội vàng thì nó càng chạy bay chạy biến đi mất. Chỉ còn tôi đỏ mặt tía tai, như kẻ ngu ngốc vô năng mà cứ thế đứng thẫn thờ. Mình không thể viết được một đoạn thơ về lòng ái quốc. Mình chẳng viết được điều gì cả. Có ngày những lời nói ấp ủ của tôi được trút ra với điệu bộ khổ sở thì chỉ là câu “chết đi, vạn tuế” mà thôi. Vốn chẳng biết phương pháp nào diễn tả sự trung thành ngoài cái sự chết ra thì tôi đúng là một gã quê mùa ngu ngốc quá.

Mình chỉ là một thị dân yếu đuối và nhỏ bé. Làm được một túi quà úy lạo nghèo nàn, liền đưa cho vợ bảo ra bưu điện gửi đi. Rồi từ chiến trường có thông báo biên nhận trang trọng gửi về. Tôi đọc những dòng chữ đó mà mặt mũi phừng phừng như lửa cháy. Thật xấu hổ làm sao. Nói cho đúng từ thì là sợ hãi đến mức co rúm cả người lại. Tôi chẳng làm được tích sự gì cả. Tôi chẳng thốt ra được lời nào kiên quyết mãnh liệt. Những câu yêu nước trâng tráo tôi không thể nào nói ra. Tôi chỉ có thể viết được những bức thư yếu đuối xun xoe gửi cho những người bạn ở chiến trường. (Nhưng bây giờ tôi đang viết thành thật về mọi thứ). Bức thư ủy lạo của tôi thật là tệ hại, chỉ toàn những lời dối trá mà thôi. Những lời giả dối nịnh bợ trâng tráo đến mức tôi cũng phải nghiến răng kinh ngạc. Tại sao như thế chứ? Tại sao mình lại trở nên ti tiện đối với những người lính đang ngoài chiến trường như vậy? Không phải là mình đã nỗ lực cả sinh mệnh để làm ra một thứ nghệ thuật tuyệt diệu sao? Ngay cả một niềm kiêu hãnh nhỏ nhoi duy nhất đó mà mình cũng đang tâm vứt bỏ à? Người bạn từ chiến trường cũng gửi về bản thảo truyện ngắn, nhờ tôi giới thiệu cho tòa soạn báo. Bản thảo đó viết đầy trên xấp giấy phương Tây, với những nét chữ nhàu nhĩ chen chúc bé như hạt gạo mà có truyện cũng khá dài, kín hết hai trang giấy. Tôi đọc nghiêm túc chăm chú. Không hay chút nào. Cảnh sắc nơi chiến trường được viết trong truyện chẳng có chút khác biệt gì với cảnh sắc tôi tưởng tượng ra khi chống cằm suy tư nơi cái bàn viết ở nhà mình cả. Không có một chút cảm động mới mẻ nào hết. Mặc dù bản thảo viết “tôi vô cùng cảm kích” thế nhưng cái nỗi cảm kích đó được nhồi nhét bởi thứ văn học phổ thông ra vẻ công phu cảm kích theo kiểu tiểu thuyết mà nói ngắn gọn lại thì đầy rẫy những tính chất nông cạn, hời hợt với những dòng tâm đắc tùy tiện mà thôi. Tôi chỉ cần nghĩ đến nỗi vất vả của những binh sĩ máu mồ hôi trộn với bùn lầy là đã thân thể đã dâng trào cảm xúc, kính ngưỡng đến mức không thể nói nên lời rồi. Nhưng bản thân cái từ “kính ngưỡng” nghe trắng trợn quá. Không thể nói được. Không tìm được từ gì để diễn tả. Tôi chỉ ngồi xổm xuống, dùng tay viết lên trên cát rồi lại xóa đi. Cứ miệt mài như vậy. Không thể nói được, không thể viết được gì.

Tuy nhiên trong nghệ thuật thì khác. Mọi người có thể cất tiếng cười trước một nghệ sĩ đường phố già, răng móm mém, lưng còng hơi thở khò khè mà ngay cả mình cũng không nỡ nhìn đang ra sức kéo đàn violon nơi góc đường nhỏ tối tăm kia không? Tôi thấy mình cũng giống như thế. Ngay từ đầu tôi đã là kẻ thảm bại trong xã hội này rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn nghệ thuật. Nói đến chủ đề này thật ra tôi cảm thấy vô cùng lúng túng và cũng chẳng đủ năng lực để bàn đến nhưng tôi định chuyên tâm tìm hiểu cho thật rốt ráo rõ ràng. Tôi nghĩ vậy cũng đủ cho sự nghiệp cả một đời nam nhi chi chí. Ngay cả nghệ sĩ đường phố thì cũng có vương quốc của riêng mình. Tôi đọc mấy truyện ngắn mà những người lính kia viết đều cảm thấy không đạt. Có lẽ vì tôi đã kỳ vọng vào xấp bản thảo kia quá nhiều. Thế nhưng tôi nghĩ những truyện ngắn đó đáng ra phải có một tư tưởng hay mối cảm động hoàn toàn tươi mới mà đối với người xếp hạng ba vì sức khỏe kém không thể ra tiền tuyến như mình không thể nào cảm nhận hay nghĩ ra được mới phải chứ. Phải có điều gì đó rộng lớn mênh mang cùng khắp mới phải. Tác phẩm phải tràn đầy sự cảm động và nỗi kinh hoàng vĩnh viễn như thể nhìn thấy thần linh trước mặt mình chứ. Tôi muốn được biết những điều như vậy. Không cần phải làm cử chỉ điệu bộ gì gớm ghê. Một chút thôi cũng được mà. Chỉ cần viết ra một chút cảm kích và lời nguyện cầu chân thật với mình gửi vào một đóa hoa cũng tốt thôi. Chắc chắn là phải có chứ. Tất cả những sự tươi mới đều nằm nơi đó cả. Nói nghe có vẻ kệch cỡm khoa trương nhưng tôi hiểu được điều đó vì có chút trực giác của người làm nghệ thuật. Tuy nhiên tôi không thể nói cụ thể ra được. Vì tôi không biết gì về cảnh chiến trường mà. Tôi cũng không phải là loại người huênh hoang viết tùy tiện những cảm xúc đời thường mà mình chưa từng trải như thể đúng rồi đâu. Mà, không phải, có lẽ là vì tôi bất tài. Nhưng tôi tuyệt đối không thể viết ra được điều gì mà mình chưa từng đích thân trải nghiệm. Ngoài việc nắm chắc lấy cái thế giới nhỏ bé mà mình tin tưởng thì tôi chẳng thể làm gì khác. Tôi biết thân biết phận của mình. Chuyện nơi chiến trường thì đành phải nhờ tất cả vào những người lính nơi chiến trường mà thôi.

Tôi đọc kỹ những bản thảo của những người lính. Tiếc là không hay. Tác phẩm không nói ra được những điều mình tận mắt chứng kiến mà lại kể chuyện chiến tranh bằng những từ ngữ của thứ văn học xấu xa mình được đọc. Người không biết gì chiến tranh lại đi kể chuyện chiến tranh rồi nhận được những lời tán tụng tung hô ngu ngốc từ những người nơi bản quốc thế rồi kiểu cách đó được sao chép đến cả những người lính vốn tường tận về chiến tranh. Đã không biết về chiến tranh thì đừng viết chứ. Đừng làm những chuyện dư thừa không đâu như vậy nữa. Chẳng phải điều đó ngược lại càng gây thêm phiền phức hay sao? Tôi đọc tiểu thuyết của những người lính, cảm thấy căm ghét những “kẻ viết về chiến tranh bằng cách nhìn chiến tranh qua kính viễn vọng” đến mức không tài nào chịu nổi. Chính thứ văn chương hay ho của các người đã phá tan đi “cặp mắt nhìn sự vật” của những người lính thuần khiết đấy. Đó chỉ là ngôn từ của những kẻ làm văn học nơi xứ Nhật Bản này nói ra thôi chứ đối với những người lính trải nghiệm trực tiếp sinh tử nơi chiến trường, những lời đó chẳng nói lên được gì cả. Chẳng phải họ gắng sức viết dưới ngọn nến khi đã có chút thư thả lúc mệt mỏi rã rời hay sao? Chỉ cần nghĩ như thế là thấy rõ rằng đâu có chỗ nào để mà triển khai mỹ học của mình hay suy ngẫm về nghệ thuật đâu. Bức thư đính kèm xấp bản thảo còn ghi thêm rằng ngày mai sinh mệnh tôi thế nào còn không biết nên nhờ cả vào anh cả đấy nữa chứ. Thực tình đối với xấp bản thảo này tôi đã có chút công phu sắp xếp lại (thực ra thì tôi đâu có tư cách gì mà nói vậy). Tôi nói với vợ mình viết lại xấp bản thảo với những con chữ trên xấp giấy nhàu nhĩ sang giấy bản thảo chuyên dụng Nhật Bản bốn trăm chữ một tờ. Thành ra có truyện dài nhất chiếm đến ba mươi mấy tờ bản thảo. Rồi tôi gửi đi những nhà xuất bản tạp chí khác nhau. Tôi viết thêm vài dòng gửi gắm là “Tuy đây là những ngôn từ bộc trực nhưng có vẻ đây là một tác phẩm hay nên có gì nhờ anh giúp đỡ. Một kẻ bất tài vô đức như tôi lại mang bản thảo của những người lính đến gửi chỗ ông thì có vẻ đường đột nhưng tôi thấy những tình cảm chân thành của con người là một điều khác biệt với bản thân tôi. Đối với tôi…”. Khi viết như vậy tôi thấy khựng lại, không xong rồi. Gì mà “Đối với tôi…” cơ chứ? Dối trá cũng vừa phải thôi. Mày bây giờ là thứ rác rưởi của loài người đấy. Có biết không hả?

Tôi biết điều đó chứ. Biết đến mức chán chường. Thế nên tôi mới khựng lại giữa chừng đấy thôi. Năm năm trước tôi đã có thời gian bị loạn thần kinh. Đến khi khỏi bệnh được xuất viện, tôi đứng một mình thờ thẫn trên cánh đồng bị thiêu cháy. Chẳng còn lại một chút gì. Đúng nghĩa là chỉ còn một manh áo mặc trên ngưởi thôi. Còn lại toàn đồ đi vay mượn không trả. Hoa mướp nở bên căn nhà bị thiêu cháy trong cơn sấm chớp. Tôi hiểu nỗi đau đớn trong câu thơ của người xưa kia đến mức thiêu đốt cả lồng ngực. Tôi đã bị tước đoạt cả tư cách làm người.

Bây giờ tôi không thể viết thổi phồng sự thật nữa. Tôi nghĩ vì tôi lưu ý cẩn thận điều này nên độc giả mới tin tưởng tôi. Cái lối khoa trương kênh kiệu tự mãn là điều tôi căm ghét nhất trên đời. Người ta hoàn toàn chẳng xem tôi ra gì cả. Cho dù tôi nói gì đi nữa, người ta cũng chỉ nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, hay lén nhìn mặt tôi rồi bỏ đi. Những điều thêu dệt hay những bức tranh biếm họa về tôi giống như những nụ cười chế giễu tinh quái về tôi lan truyền không ngừng nghỉ vậy mà tôi chẳng biết chút gì, cứ đi ngáo ngơ ngoài phố. Trong khoảng một hai năm sau, dần dần thằng tôi ngu độn cũng đã từ từ hiểu được chân tướng. Theo như đồn đại của người đời thì tôi đã hoàn toàn là một kẻ cuồng. Hơn nữa còn là cuồng trí từ lúc mới sinh ra. Từ sau khi biết được điều đó, tôi trở nên câm lặng. Không muốn gặp ai cũng không thiết nói gì nữa. Cho dù bị người ta nói gì đi nữa, tôi cũng chỉ mỉm cười cho qua.

Tôi đã trở nên dịu dàng và bao dung hơn.

Từ đó đến giờ đã năm năm trôi qua. Dường như người ta vẫn còn nghĩ tôi là kẻ bán cuồng, dở hơi thì phải. Có những người dù chưa từng gặp tôi lần nào cả nhưng chỉ cần nghe thấy tên tôi hay những đồn đại liên quan đến tôi thôi mà lỡ chạm mặt tôi ở nơi nào đó là như thể nhìn thấy thứ gì gớm ghiếc khó chịu lắm, rồi đảo mắt nhìn tôi với ánh mắt vô lễ đến mức không thể tả thành lời. Tôi biết rõ hết. Có lần tôi đứng trong nhà vệ sinh còn nghe ngay sau mình một giọng nói lớn vọng đến tai tôi  “Chẳng phải cái thằng cha đó là Dazai điên khùng hay sao?” nữa. Mỗi lần như thế tôi lại có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Các người không nhận ra là tôi đã chết lâu rồi à? Chỉ có chút linh hồn là còn sống theo cách nào đó thôi.

Tôi bây giờ không còn là con người nữa. Nghệ thuật gia đúng là một loại sinh vật kỳ quái. Luôn nghĩ mình mang vác cái xác thân đã chết này đến sáu mươi tuổi thì sẽ trở thành một đại tác gia. Tìm kiếm bí mật trong những trang văn mà xác chết đó viết chỉ là vô ích. Cho dù cố gắng bắt chước văn chương của một vong hồn đã chết thì cũng vô vọng mà thôi. Nên bỏ đi là hơn. Dường như có người bạn đang thì thầm vào thằng tôi đang mỉm cười này là “Dazai ngu độn ơi” vậy. Chỉ có thể nói ra từ ngu độn mà thôi sau đó không còn nói gì được nữa. Chỉ cần tin điều này thôi. “Tôi sẽ không phản bội cậu đâu mà”.

Tôi đã đánh mất đi tự ngã của mình. Rồi sau đó thì không còn muốn nói gì nữa. À, còn có thể nói thêm một điều nữa. Kẻ nào không tin tôi là thằng ngu.

Lại nói về chuyện bản thảo của những người lính. Tôi kìm nén sự xấu hổ mà mang gửi gắm cho biên tập viên tạp chí. Thỉnh thoảng có truyện cũng được đăng. Rồi khi nhìn thấy mục giới thiệu quảng cáo tạp chí đó trên một tờ báo lớn, tên của người lính đó đứng ngang hàng với những tiểu thuyết gia nổi tiếng, tôi vui mừng gấp đôi so với khi mẩu truyện nhỏ của tôi được đăng trên tạp chí văn nghệ sáu năm về trước. Thật tạ ơn đời. Tôi vội vàng chạy đến cảm tạ biên tập viên không ngớt lời rồi cắt bài quảng cáo đó gửi ra chiến trường. Thấy mình thật có ích. Đây là sự cống hiến hết mình cho đất nước của tôi rồi. Tôi cũng nhận được bức thư vui mừng cảm tạ từ chiến trường gửi về nữa. Một thời gian sau tôi còn nhận được thêm bức thư cảm tạ của người vợ nơi quê nhà của người lính kia gửi đến. Đúng là một cống hiến nơi hậu phương còn gì nữa. Thế nào? Tôi vẫn là gã suy đồi à? Tôi vẫn còn là gã xấu xa sao?

Tuy nhiên tôi không nói cho ai biết chuyện này cả. Đây là chuyện đàn bà con trẻ nên làm chẳng đáng gì để mà khoe khoang. Tôi chỉ là một kẻ ngốc, viết thứ tiểu thuyết vui chơi, hững hờ bên dòng thời cuộc. Tôi biết thân biết phận mình. Tôi chỉ là một gã thị dân bé nhỏ. Chẳng thể nào đưa ra hiệu lệnh cho thời cuộc gì được cả đâu. Cho nên thỉnh thoảng chỉ rời khỏi nhà, lang thang trong cô độc, đá qua đá lại mấy viên đá trên đường thôi. Có lẽ tôi bệnh thật rồi? Có lẽ tôi đã hiểu sai về tiểu thuyết rồi cũng nên. Cho dù tôi thử phủ định điều đó đi nữa thì lại cũng chẳng có chút tự tin nào. Không tìm ra lời nào xác đáng cả. Cho dù cảm thấy lời sắp trào ra khỏi cổ họng rồi mà sao vẫn không hiểu. Tôi là một kẻ phiêu giạt, cứ mặc cho con sóng đẩy đưa và luôn luôn cô độc. Được rồi, tôi ráng sức nhảy qua vũng nước và cảm thấy nhẹ nhõm. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh và mây trắng lững lờ trôi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy nhẹn nhõm một cách u sầu. Tôi lần bước trở về nhà.

Khi tôi về đến nhà thì thấy người của tạp chí đang chờ đợi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có nhân viên tòa soạn báo hay tạp chí ghé thăm hỏi han tình hình. Căn nhà tồi tàn của tôi nằm sâu khuất nẻo ở Mikata, giữa vùng vườn tược thế mà cậu ta bỏ gần cả ngày trời đi quanh tìm kiếm mà ghé thăm, vừa lau mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng vừa nói trời, nhà anh ở xa thật đấy nhỉ. Vì tôi chỉ là một tác giả vô danh, không ăn khách gì cả nên mỗi lần như thế tôi đều sợ hãi khó xử.

“Bệnh tình của anh đã đỡ rồi chứ?”. Thế nào tôi cũng được hỏi như thế ngay câu đầu tiên. Vì đã quen nên tôi cứ thuận miệng trả lời.

“Tốt rồi, còn khỏe hơn cả người thường nữa đấy chứ”.

“Hiện giờ tình trạng của anh ra sao?”

“Chuyện của năm năm trước đấy mà”, tôi trả lời cho qua. Tôi không muốn nói là mình đã bị điên khùng.

“Theo như lời đồn đại” thì, anh bắt đầu nói thẳng “có vẻ tình hình của anh rất tệ đấy”.

“Tôi cứ uống rượu là bệnh tự khỏi thôi”.

“Thế thì thật kỳ lạ nhỉ?”

“Tại sao lại thế nhỉ?”, cả chủ và khách đều lấy làm lạ lùng. “Có lẽ là bệnh không khỏi nhưng tôi quyết định là nó đã khỏi rồi. Chuyện này vốn dĩ không có kết thúc mà”.

“Anh uống rượu nhiều lắm à?”

“Thì cũng uống như người ta thôi mà”.

Chỉ đối đáp đến như thế thì còn ổn thỏa được nhưng càng về sau thì càng lạc lối. Câu chuyện dần trở nên không đầu không đuôi và vô cùng lộn xộn.

“Anh nghĩ như thế nào về mấy truyện ngắn của người đó?”. Khi nghe hỏi vậy thì tôi hoàn toàn mất phương hướng và hoang mang. Tôi không tìm ra từ nào để nói ra cho thật rõ ràng.

“À, thực ra tôi vẫn chưa đọc kỹ nhưng chắc cũng có điểm hay chứ nhỉ? Nếu mà đọc được thì cũng thấy khá là cảm động. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mọi người ai cũng có thể viết văn trơn tru được như thế nữa. Hoàn toàn không có ý gì mỉa mai ở đây đâu. Tại vì có có một sức khỏe thể chất sung sức mà. Thực sự thì họ đều viết rành mạch không vấp váp gì cả”.

“Thế anh đã đọc mấy truyện ngắn của anh A chưa?”

“À, vì có thấy đăng trên tạp chí nên tôi cũng có đọc”.

“Anh thấy có tệ lắm không?”

“À, bản thân tôi thì thấy thú vị. Chẳng phải còn có nhiều tác phẩm khác tệ hơn nữa hay sao chứ? Tôi không cố ý phê phán chỉ trích gì đâu. Như thế nào à? Tại vì tôi không biết rõ mà?”. Câu trả lời của tôi không phải kiểu mập mờ nước đôi của kẻ giảo hoạt mà đúng ra thì đó là sự mập mờ xuất phát từ một tâm hồn thấp kém. Tôi cảm thấy ai cũng giỏi giang hơn tôi hết cả. Khi hiểu ra được là ai cũng đang cố gắng hết sức tận tâm tận lực để sống còn khiến tôi không còn có thể nói gì hết.

“Anh có biết ông B không?”

“À, có biết”.

“Lần này tôi định thúc giục ông ấy viết một quyển tiểu thuyết mới”.

“A, điều đó nghe hay đấy. Ông B là một người rất tốt. Chắc chắn ông ta sẽ viết cho mà xem. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ viết ra một tác phẩm tuyệt diệu. Ông B trước đây cũng đã từng giúp đỡ tôi nhiều mà”. Tôi có lần đã mượn tiền ông ta.

“Thế còn anh thì sao? Có viết được gì không?”

“Tôi thì không được rồi. Hoàn toàn bế tắc. Toàn viết ra những điều tệ hại. Có lần viết thử truyện yêu đương mà thành ra giọng điệu diễn thuyết đến nỗi tôi phát chát và tự cười mình luôn”.

“Làm gì có chuyện đó chứ? Cho đến bây giờ chẳng phải anh là ngọn cờ đầu của thế hệ trẻ hay sao?”

“Đừng đùa như vậy chứ. Dạo này tôi như tiến sĩ Faust vậy. Giờ đây tôi đã hiểu rõ những lời lẩm bẩm trong thư phòng của ông tiến sĩ già đó rồi. Mình đã quá đỗi già nua. Nghe nói Napoleon mới ngoài ba mươi tuổi đã than thở “mảnh đời tàn” của ta mà. Biết được điều đó khiến tôi thấy quá đỗi thú vị”.

“Không lẽ anh cảm thấy mình đang sống mảnh đời tàn dư sinh hay sao?”

“Tôi đâu phải là Napoleon, quả thực tôi quá khác biệt với ông ta. Nhưng đôi lúc bất chợt tôi cảm thấy mình đang sống những năm tháng còn lại của đời tàn tạ. Tôi cũng chẳng đọc vạn quyển sách như tiến sĩ Faust dù đôi lúc tôi cũng cảm giác trống rỗng hư vô giống như ông ta vậy”. Chà, mình lại nói năng loạn xạ hết cả rồi.

“Thực ra cảm thấy chuyện đó cũng đành phải chịu thôi. Xin thất lễ chứ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

“Ba mươi mốt rồi”.

“Vậy anh còn trẻ hơn anh C một tuổi. Mà anh C lúc nào tôi gặp cũng thấy khỏe lắm. Bình luận văn học nói năng rành mạch lưu loát ghê. Quả nhiên anh ta có cặp mắt rất tinh đời”.

“Đúng vậy, anh C vốn là tiền bối ở trường cấp ba ngày xưa tôi học. Cặp mắt anh ấy lúc nào cũng sáng ngời nhiệt tình. Từ bây giờ chắc anh ta sẽ dồn hết tâm huyết cho văn chương đấy. Tôi rất thích anh ta”. Năm năm trước đây, tôi đã gây cho anh C phiền phức không biết bao nhiêu mà kể.

“Còn với riêng anh”, người khách có vẻ tức giận vì những lời đối đáp mập mờ của tôi liền đổi giọng điệu mà hỏi. “Thường người ta viết tiểu thuyết vì một tín điều nào đó. Ví dụ như chủ nghĩa nhân văn, tình yêu, hay chính nghĩa công bằng xã hội, cái đẹp…đại khái là thế, Còn anh từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay và từ bây giờ trở đi nữa, anh có một tín điều nào hay không?”

“Có chứ, đó là sự hối hận”. Lần này giống như nhịp điệu hô ứng tương đồng, tôi có thể cất giọng trả lời ngay lập tức. “Văn học mà không có sự hối hận thì chẳng là gì cả. Hối hận, tự thú và phản tỉnh đó là những thứ chắc chắn được sinh ra từ nền văn học cận đại, không từ tinh thần cận đại đấy. Vì thế cho nên…”, tự nhiên tôi lại ngắc ngứ.

“Quả nhiên là vậy”, vị khách cũng liền hưởng ứng. “Đúng là văn đàn đang thiếu trào lưu này. Vậy chắc là anh thích những tác giả như Kajii Motojirou lắm nhỉ?”

“Dạo này không hiểu sao tôi càng lúc càng trở nên hoài niệm. Có lẽ tôi trở nên thủ cựu, cũ kỹ mất rồi. Chẳng thấy có thứ gì có thể khích lệ động viên tâm hồn mình cả. Mà đừng nói là động viên, nó còn làm tôi xấu hổ vì cảm thấy mình nhơ nhớp nữa. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “nghiệp báo” cho lắm nhưng tôi cảm thấy điều đó gần đúng với bản thân mình. Đứa con tội lỗi rồi thì mục sư, không biết nói thế nào cho phải. Tôi đã làm nhiều điều ác đức, tôi ý thức mình là một tên dơ bẩn. Vì không thể nào làm tiêu tan cái ý thức đó nên tôi lúc nào cũng đê tiện. Dù tôi lúc nào cũng im lặng khổ sở nhưng mà…”. Tôi định nói tiếp nhưng lại ngắc ngứ nữa. Tôi định nói về Kinh Thánh. Tôi định nói Kinh Thánh đã cứu vớt tôi nhưng vì xấu hổ quá nên không thể nói. Sự sống chẳng phải quý trọng hơn đồ ăn sao, thân thể chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy nhìn chim bay trên trời, chẳng có gieo gặp cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng. Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào. Chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ. Nhưng dẫu vua Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như hoa nào trong giống đó. Loài cỏ ngoài đồng nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp đẽ thay huống chi là các người. Các ngươi chẳng phải quý trọng hơn loài chim sao…Những lời khích lệ của Thánh Kinh đã có lần cho tôi thêm nghị lực sống. Tuy nhiên bây giờ tôi ngại ngùng xấu hổ quá nên không thể nói ra được. Cái gọi là niềm tin mà mình giữ trong im lặng thực sự tôi có không nhỉ. Ngay cả từ “niềm tin” tôi cũng thấy mình khó có thể nói ra được rõ ràng.

Sau đó chúng tôi lan man sang nhiều chuyện khác nhưng chắc vị khách có vẻ thất vọng vô cùng vì cách nói mơ mơ hồ hồ của tôi nên sửa soạn ra về. Tôi cảm thấy vô cùng tội nghiệp cho anh ta. Vì không nói được điều gì rành mạch rõ ràng cả nên cứ lan man chuyện này chuyện kia cuối cùng chẳng nắm bắt được gì hết cả. Tôi cứ thờ thẫn ngu độn mà nghệch mặt ra. Chắc chắn anh ta nghĩ rằng từ giờ trở đi tôi sẽ có thể phát huy tài năng nên đến xem thử tình hình ra sao đây mà. Tôi hiểu rõ sự tử tế của anh ta nhưng chính vì vậy mà tôi càng khổ sở không cùng. Sau khi vị khách về rồi, tôi cứ ngồi thẫn thờ trước bàn làm việc, nhìn cánh đồng Musashino ngả bóng chiều loang. Thế nhưng tâm tư không khởi một niềm cảm khái mới mẻ nào mà chỉ cảm thấy nỗi sầu cô đơn vô hạn.

Khi con đi trên đường với kẻ tố cáo mình, hãy nhanh chóng hòa giải với người ấy; nếu không, người ấy sẽ nộp con trước quan tòa, quan tòa giao cho cai ngục và con sẽ bị bỏ tù. Thật, ta bảo con, con sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Tôi bất chợt nghĩ có lẽ nào địa ngục lại một lần nữa đến tìm mình chăng? Cảm giác bất an như nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển từ đáy sâu đáng sợ vọng đến. Có lẽ chỉ có mình tôi như vậy chăng?

“Này, đưa anh chút tiền đi em. Nhà mình còn bao nhiêu thế?”

“À, còn khoảng bốn năm yên gì đó”.

“Anh xài có được không?”

“Được nhưng nhớ để lại cho em chút chút”.

“Anh hiểu rồi. Khoảng chín giờ tối anh về nhé”.

Tôi cầm cái ví vợ đưa cho rồi rời khỏi nhà. Trời đã hoàng hôn. Sương mù lẩn khuất giăng mờ lối đi.

Tôi đến quán sushi gần nhà ga Mitaka. Mang rượu ra đây. Giọng nói sao mà sa đọa ghê gớm. Mang rượu ra đây. Một cung cách cũ mèm. Không biết tôi đã lặp lại câu này mấy trăm mấy ngàn lần rồi nhỉ? Những lời bẩn thỉu ngu ngốc. Nếu bây giờ có gã thanh niên nào than vãn khổ sở vì thời thế, làm ra vẻ nghiêm túc đắc ý uống rượu say quên đời, chắc chắn tôi sẽ đấm cho gã một phát. Đấm không chần chừ do dự. Nhưng tôi bây giờ có khác gì gã thanh niên đó đâu? Chẳng phải như nhau ư? Chỉ khác biệt về tuổi tác mà điều đó lại càng làm mình bẩn thỉu hơn thôi. Cứ vênh váo đắc ý mãi vậy.

Tôi uống rượu với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Cho đến giờ tôi đã uống mấy ngàn mấy vạn thăng rồi nhỉ. Tôi vừa cảm thấy căm ghét vừa tiếp tục uống. Tôi chưa từng nghĩ rượu ngon lành chỗ nào. Thứ đắng nghét đó tôi không hề muốn uống. Tôi muốn từ bỏ. Tôi nghĩ uống rượu là một loại tội lỗi. Chắc chắn là tội lỗi. Thế nhưng rượu đã cứu vớt đời tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Có vẻ vì tôi là một khối tội lỗi nên thích hợp uống rượu để dùng độc trị độc chăng? Rượu giúp tôi khỏi phát điên, giúp tôi tránh khỏi việc tự sát. Tôi là một người yếu đuối ti tiện đến mức nếu không uống rượu để lừa gạt cảm xúc của mình thì không thể nói chuyện với bạn bè đàng hoàng được.

Tôi đã chếnh choáng say. Cô phục vụ ở quán sushi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nghe nói cô đã lập gia đình nhưng ly hôn rồi đến làm việc ở đây.

“Mình à”, cô nói và ghé sát chỗ bàn tôi ngồi. Vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. “Chuyện này nghe hơi kỳ lạ một chút nhưng mà”, cô xoay người nhìn về chỗ quầy tính tiền rồi hạ giọng thì thầm. “Không biết trong số bạn bè quen biết của mình có thể lấy một người như em không nhỉ?”

Tôi nhìn chăm chú vào mặt cô ta. Đúng là cô phục vụ rất nghiêm túc, không cười một chút nào. Ngay từ đầu cô đã là người đàng hoàng nghiêm túc nên chắc không có vẻ gì là bỡn cợt đùa giỡn tôi đâu.

“Chà, chuyện này”, tôi cũng không thể không nghiêm túc. “Không phải là không có đâu nhưng sao lại nhờ tôi chuyện này cơ chứ?”

“À, em định sẽ nhờ hết những người khách dễ tính đến quán này giúp em luôn”.

“Kỳ lạ thế nhỉ?”, tôi khẽ mỉm cười.

Cô phục vụ cũng nhếch một bên má mà cười.

“Càng ngày em càng có tuổi. Mà lại truân chuyên một lần đò rồi nên người già chút cũng không sao hết. Em cũng chẳng mong cầu được chỗ tốt đẹp như người ta đâu”.

“Chà ba chuyện này thì tôi cũng không biết gì”.

“Cũng không vội vàng gì đâu mà. Mình cứ lưu tâm giúp em là được. À, mà em cũng có danh thiếp đây”. Cô ta nói rồi vội vàng lấy ra cái danh thiếp nhỏ giấu trong ống tay áo. “Mặt sau danh thiếp em có ghi địa chỉ chỗ này cho nên nếu tìm được người thích hợp mình vui lòng gửi danh thiếp hay gì đến đây báo em biết trước nhé. Rất xin lỗi đã làm phiền mình nhiều. Cho dù người ta có mấy đứa con riêng em cũng không phiền hà gì đâu”.

Tôi im lặng cầm lấy tấm danh thiếp, nhét vào tay áo.

“Để tôi tìm thử xem nhưng tôi không thể hứa trước gì đâu. Phiền cô tính tiền giùm nhé”.

Tôi rời quán sushi, trên đường quay về nhà cứ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một phần của xu hướng, trào lưu hiện đại. Một thế kỷ nghiêm túc đến mức trắng trợn. Chúng ta không thể tác động vào được chút gì. Về đến nhà tôi lại trở nên câm nín. Tôi im lặng đưa cái ví đã vơi bớt mấy phần cho vợ mình, định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Tôi ăn món cơm trà rồi đọc báo buổi chiều. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Bây giờ qua núi, bây giờ qua vịnh, qua chiếc cầu sắt bắt ngang… Bài ca của người thiếu nữ sao mà buồn thảm.

“Này than còn đủ dùng không em. Anh nghe nói là thiếu hụt ghê lắm”.

“Không sao đâu anh. Báo đài làm quá lên thôi. Đến lúc đó thì tùy hình mà xoay xở vậy”.

“Đúng nhỉ. Em trải mền ra giùm anh đi. Tối nay anh ngừng viết một đêm để nghỉ ngơi”.

Hơi rượu đã tan. Mỗi khi tỉnh rượu tôi lại trằn trọc khó ngủ. Giả vờ ngủ ngáy lớn tiếng một chút rồi tôi dậy đọc tờ báo phát hành buổi chiều. Tự nhiên tôi thấy tờ báo hiện đầy những khuôn mặt cười giả lả đê tiện rồi thoáng chốc lại biến mất đi. Tôi nghĩ thầm tất cả đều đê tiện thật. Tất cả đều không có chút tự tin nào. Tôi ném tờ báo đi, dùng hai lòng tay áp lên tròng mắt một lúc lâu. Tôi tin rằng làm như vậy mình sẽ nhanh chóng buồn ngủ. Tôi nhớ lại vũng nước sáng nay. Chừng nào vũng nước kia còn thì mình cũng tiếp tục… tôi nghĩ. Tôi cố gắng bắt mình phải nghĩ như thế. Quả nhiên tôi là một nghệ sĩ đường phố. Cho dù khổ sở đến mấy thì tôi cũng chỉ còn cách tiếp tục chơi chiếc đàn violon của riêng mà thôi. Đường hướng của con tàu đi cứ giao cho những nhà chí sĩ vậy. Hai từ “chờ đợi” chợt hiện ra sáng ngời trên trán của tôi. Chờ đợi điều gì tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng đó là một từ cao quý. Loài chim hải âu câm nín kia cứ lang thang quanh quẩn ngoài khơi nghĩ như thế nhưng vẫn tiếp tục im lặng mà luẩn quẩn loanh quanh.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Cafe sáng