Sáng tác

Truyện ngắn: Con khỉ Shinagawa (Murakami Haruki)

Dạo gần đây cô gặp chút khó khăn với việc nhớ tên mình. Chuyện này thường xảy ra nhất mỗi khi có người bất thần hỏi tên cô.

Published

on

Bản dịch tiếng Việt của tác phẩm này được đặc biệt dành tặng Kodaki Adi.

1

Dạo gần đây cô gặp chút khó khăn với việc nhớ tên mình. Chuyện này thường xảy ra nhất mỗi khi có người bất thần hỏi tên cô. Như việc vào trong một cửa hiệu, nhờ người ta chỉnh giúp ống tay áo của bộ váy, và khi nhân viên hỏi cô “Xin chị vui lòng cho cửa hàng chúng em biết tên ạ, thưa chị?” Hay là lúc ở sở làm, trên điện thoại có người muốn biết tên của cô là gì, và cô bắt đầu trở nên hoàn toàn trống rỗng. Cách duy nhất giúp cô nhớ lại được là lôi bằng lái của mình ra nhìn, kiểu phụ thuộc này khiến cho những người đang nói chuyện với cô cũng cảm thấy có điểm kỳ quặc. Nếu tình cờ lúc đó là khi đang nói chuyện điện thoại, những khoảnh khắc im bặt đầy lúng túng cô lục lọi túi xách hẳn cũng khiến đối phương ở đầu dây bên kia tự hỏi chuyện quái gì đang xảy ra.

Nếu cô là người chủ động giới thiệu tên mình, cô sẽ không bao giờ khổ sở trong việc ghi nhớ cả. Miễn là biết rõ những gì sắp diễn ra, cô thường không gặp rắc rối gì với bộ nhớ của mình. Nhưng nếu là lúc đang vội quắn lên, hoặc đột nhiên có người hỏi tên cô, y như là đã có đứa phá hoại nào đó ra tay sập nguồn khiến tâm trí cô hoàn toàn trở nên rỗng tuếch ấy. Càng cố nhớ lại bao nhiêu, sự trống rỗng lại càng bao phủ lấy bấy nhiêu và cô hầu như quên luôn cả đời này mình đã được gọi là gì.

Cô vẫn có thể nhớ mọi thứ khác. Không bao giờ cô quên tên của những người xung quanh mình. Rồi địa chỉ, số điện thoại, ngày sinh, số hộ chiếu của cô cũng không gặp chút rắc rối nào. Cô có thể đọc làu làu thuộc lòng số điện thoại bạn bè mình, cả số điện thoại của khách hàng quan trọng nữa. Cô vẫn luôn có một trí nhớ tốt – chỉ là cái tên của của cô đã trốn thoát khỏi cô. Vấn đề này khởi nguồn khoảng một năm trước, khi lần đầu tiên những chuyện như vầy bắt đầu xảy đến với cô.

Tên sau khi cưới của cô là Mizuki Ando, còn tên thời con gái là Ozawa. Cả hai cũng chả phải là những cái tên độc đáo hay kịch tính gì, nhưng điều này cũng không đồng nghĩa với việc có thể giải thích vì sao trong lịch trình làm việc đầy bận rộn của mình, tên cô có thể bốc hơi khỏi bộ nhớ.

Cô đã trở thành bà Mizuki Ando vào mùa xuân ba năm trước, khi cô kết hôn với một người đàn ông tên là Takashi Ando. Lúc đầu, cô không quen với cái tên mới. Cách viết và nghe nó có vẻ chả ăn rơ gì với cô sất. Nhưng sau khi đọc đi đọc lại cái tên mới của mình, và thử ký nó vài lần, cô dần dần nghĩ rằng điều này cũng không tệ đến thế. So với các khả năng khác – Mizuki Mizuki hoặc Mizuki Miki hay một cái-gì-đó (thực tế thì có thời cô cũng từng cặp kè với một anh chàng tên là Miki thật) – thì Mizuki Ando cũng chả phải là tệ lắm. Phải mất một quãng lâu, nhưng rồi dần dần cô cũng bắt đầu cảm thấy thoải mái với tên theo họ chồng của mình.

Tuy nhiên, một năm trước, cái tên đó bắt đầu chạy trốn khỏi cô. Ban đầu, điều này xảy ra chỉ một tháng một lần, nhưng theo thời gian nó đã trở nên thường xuyên hơn. Bây giờ chuyện này phải xảy ra ít nhất mỗi tuần một lần. Một khi “Mizuki Ando” trốn thoát, cô như bị bỏ lại một mình trên thế gian này, không còn là ai cả, một người phụ nữ vô danh. Miễn là cô còn mang theo ví bên mình, thì cô vẫn còn ổn – có thể mang bằng lái ra và nhớ lại mình là ai. Còn nếu cô bị mất ví, thì mọi đầu mối sẽ bị mất sạch. Dĩ nhiên cô sẽ không biến ngay thành một con mẹ bất toàn – vì việc cô có bị lạc mất tên mình trong một lúc cũng đâu thể phủ nhận một thực tế rằng cô vẫn còn tồn tại, và cô vẫn nhớ địa chỉ và số điện thoại của mình đấy thôi. Đây nào phải mấy trường hợp bị mất trí nhớ kiểu phường xi-nê. Thế nhưng, kỳ thực mà nói, chuyện quên mất tên mình của cô vẫn vô cùng khó chịu. Một cuộc sống mà không có tên tuổi gì, cô cảm thấy cũng giống như cứ chiêm bao mãi mà chả chịu thức dậy.

Mizuki đi đến một cửa tiệm kim hoàn, mua một chiếc vòng tay mỏng đơn giản, có khắc tên trên đó: Mizuki (Ozawa) Ando. Không phải địa chỉ hay số điện thoại, chỉ vỏn vẹn tên của cô. Vầy làm cho mình cảm thấy bản thân y như một con mèo hay con cún gì ấy, cô thở dài. Cô chắc chắn mình sẽ đeo vòng tay mỗi khi rời khỏi nhà, thành thử nếu cô quên tên mình thì tất cả những gì phải làm chỉ là nhìn vào cái vòng thôi. Không còn phải lôi bằng lái của mình ra nữa, cũng chẳng phải hứng chịu những cái nhìn kỳ cục từ phía người khác.

Cô cũng không kể cho chồng biết về chuyện này. Cô biết kiểu gì anh ta cũng sẽ bảo rằng nó chứng tỏ cô không hài lòng về cuộc sống giữa hai người họ với nhau. Anh ta quá logic với tất cả mọi thứ. Dù anh không có ý làm hại gì cả; Chỉ là anh ta luôn luôn lý thuyết hoá mọi thứ một cách quá rạch ròi trắng đen. Tuy nhiên, cách anh ta nhìn thế giới thế nào cũng chả phải quyền của cô. Chồng cô cũng là một lão lắm lời, và sẽ không dễ dàng rút lui quan điểm một khi đã bắt đầu chủ đề. Vậy nên cô quyết định giữ im lặng về toàn bộ mọi chuyện.

Ấy nhưng mà, cô đã nghĩ, những gì chồng cô nói – hoặc có thể nói nếu anh ta biết thật – đều sẽ lạc đề hết. Cô chẳng có lo lắng hay bất mãn gì với cuộc hôn nhân của họ. Ngoài sự hợp lý đôi khi quá mức của anh, cô cũng không có phàn nàn gì về chồng mình cả, và cũng chẳng có những sự ác cảm nào về bố mẹ chồng mình nốt. Cha chồng của cô là bác sĩ điều hành một phòng khám nhỏ ở thành phố Sakata, nơi quận phía Bắc xa Yamagata. Bố mẹ chồng của cô chắc chắn là những người bảo thủ, nhưng chồng cô là con trai thứ nên họ cũng không quản đến cuộc sống của Mizuki và chồng. Mizuki đến từ Nagoya, và thế nên lúc đầu cô đã bị áp đảo bởi những mùa đông lạnh giá ở Sakata, nhưng trong một, hai chuyến thăm hàng năm, cô bắt đầu cảm thấy thích nơi này. Hai năm sau khi cô và chồng kết hôn, họ đã lấy một khoản thế chấp và mua một căn hộ trong tòa nhà mới ở Shinagawa. Chồng cô, bây giờ bước qua hàng ngũ tuổi băm, đang làm việc trong phòng thí nghiệm của một công ty dược phẩm. Mizuki hai mươi sáu và đi làm tại một đại lý của Honda. Cô trả lời điện thoại, mời khách hàng vào phòng khách, mang cà-phê, phô-tô-cóp-pi khi cần, quản lý mọi hồ sơ và cập nhật danh sách khách hàng trên máy vi tính.

Ông cậu của Mizuki, một giám đốc điều hành của hãng Honda, đã tìm việc làm cho cô sau khi cô tốt nghiệp từ trường cao đẳng nữ sinh ở Tokyo. Đó không phải công việc hấp dẫn nhất có thể tưởng tượng ra, nhưng họ đã trao cho cô một số trách nhiệm và tổng thể cũng không tệ lắm. Nhiệm vụ của cô không bao gồm cả việc bán xe hơi, nhưng bất cứ khi nào nhân viên bán hàng đi ra ngoài thì cô sẽ tiếp quản nó, luôn luôn làm tốt việc trả lời các câu hỏi của khách hàng. Cô đã học được bằng cách theo dõi các nhân viên bán hàng, và nhanh chóng nắm bắt được những thông tin kỹ thuật cần thiết cùng sở thích bán xe ô tô. Cô ghi nhớ kỹ xếp hạng tổng cước hành trình của tất cả các mô hình ô tô trong phòng trưng bày, và có thể thuyết phục bất cứ ai, ví dụ, cách một chiếc Odyssey xử lý ít giống xe minivan nhất và giống xe sedan thông thường nhất ở chỗ nào. Mizuki là một người nói chuyện có duyên, với nụ cười cuốn hút của mình cô đã mang lại cho khách hàng sự thoải mái. Cô cũng biết làm thế nào để biến hóa bản thân tinh tế dựa trên việc đọc vị tính cách của mỗi khách hàng. Tuy nhiên, không may là, cô không có thẩm quyền để giảm giá, thương lượng giá thương mại, hoặc khuyến mãi các tùy chọn miễn phí, thế nên ngay cả khi cô đã có khách hàng sẵn sàng để ký tên vào ô chấm hợp đồng, thì cuối cùng cô vẫn phải quay lại thỏa thuận với nhân viên bán hàng. Cô có thể làm được hầu hết mọi công việc, nhưng rồi một trong những nhân viên bán hàng sẽ tiếp nhận nó và ăn hoa hồng. Phần thưởng duy nhất cô có thể mong đợi là bữa tối tự chọn không thường xuyên từ một trong những người bán hàng muốn chia sẻ sự may mắn của anh ấy.

Thỉnh thoảng lại có ý nghĩ vụt qua đầu cô rằng, nếu họ để cho cô bán hàng thì họ sẽ bán được nhiều xe hơn và doanh thu chung của đại lý sẽ được cải thiện. Nếu có những nhân viên bán hàng trẻ, vừa mới bước ra từ cổng trường đại học, chỉ cần đặt tâm trí của họ vào nó, họ có thể bán được nhiều xe hơn vào mỗi hai lần. Tuy nhiên, đã chẳng có ai nói với cô rằng ô kìa chị bán xe giỏi quá, thôi chị đừng lãng phí đời mình vào công việc bàn giấy chi cho cực, hay chị chuyển quách sang làm công việc bán hàng luôn đi. Đó là cách mà một công ty vận hành. Bộ phận bán hàng là một chuyện, nhân viên văn thư là chuyện khác, và ngoại trừ trong những trường hợp rất hiếm hoi, đó là ranh giới không thể tiếp cận được. Bên cạnh đó, cô không đủ tham vọng để cố gắng thúc đẩy sự nghiệp của mình theo cách ấy. Cô thích cách cô đặt mình vào tám giờ đồng hồ, từ 9 giờ đến 5 giờ, nhận tất cả khoảng thời gian nghỉ phép mình có, và tận hưởng những ngày xuống ca.

Ở nơi làm việc Mizuki tiếp tục sử dụng tên thời con gái của mình. Nếu cô chính thức đổi tên, thì tất cả những dữ liệu liên quan đến cô trong hệ thống máy tính của họ sẽ phải thay đổi hết, mà đó lại còn là công việc cô phải làm. Đã có quá nhiều rắc rối và cô vẫn kiên trì, cuối cùng cô đành quyết định lấy luôn tên thời con gái. Đối với chuyện đóng thuế, cô được liệt vào hàng đã lập gia đình, nhưng tên của cô không thay đổi. Cô biết là không đúng lắm khi làm điều đó, nhưng không ai ở sở làm nói gì cả (họ bận quắn cả đít để đi lo lắng đến từng chi tiết), vì vậy cô vẫn giữ cái tên Mizuki Ozawa. Đó vẫn là cái tên trong danh thiếp, thẻ tên, sổ chấm công của cô. Mọi người thường gọi cô là Ozawa-san, Ozawa-kun, Mizukisan, hoặc thậm chí là Mizuki-chan đầy thân mật. Không phải cô cố gắng để tránh sử dụng tên kết hôn của mình. Chỉ là tốn quá nhiều giấy tờ để thay đổi nó, vì vậy cô cứ phóng theo lao mà không có bất cứ sự thay đổi nào. Nếu có ai đó có thể nhập tất cả những thay đổi cho cô, cô nghĩ, cô sẽ rất vui khi được là Mizuki Ando.

Chồng cô cũng biết cô đang dùng tên thời con gái ở nơi làm việc (đôi khi anh ta cũng có gọi đến sở làm cho cô), nhưng không có vấn đề gì với chuyện đó. Dường như anh ta cảm thấy rằng bất cứ cái gì cô dùng trong công việc chỉ là vấn đề tiện lợi. Chừng nào anh ta còn bị thuyết phục về logic, chừng đó anh ta cũng sẽ không phàn nàn gì. Theo lý ấy thì anh khá dễ chịu.

2

Mizuki bắt đầu lo sợ rằng việc quên của cô hoàn toàn có thể là triệu chứng của một căn bệnh khủng khiếp nào đó, có lẽ là một dấu hiệu sớm của bệnh Alzheimer. Thế giới đầy những loại bệnh tật bất ngờ, gây chết người như chơi. Cô cũng chưa bao giờ biết tới, cho đến gần đây, đã có những căn bệnh như chứng suy cơ và bệnh Huntington. Phải có hằng hà sa số ti tỉ ti tỉ thứ bệnh khác nữa mà cô chưa bao giờ nghe đến. Và với hầu hết các chứng bệnh này thì các triệu chứng ban đầu đều khá nhẹ. Những triệu chứng ấy vốn không bình thường, nhưng nhẹ như kiểu quên-tên-của-mình á? Một khi cô đã bắt đầu suy nghĩ theo lối này, cô thực sự lo lắng rằng một căn bệnh lạ đã lan truyền khắp cơ thể cô.

Mizuki bèn đến một bệnh viện lớn và giải trình về các triệu chứng. Tuy nhiên, tay bác sỹ trẻ – một gã xanh rớt và đầy mệt mỏi, nom còn giống bệnh nhân hơn là bác sĩ – đã không coi trọng những lời cô nói. “Cô còn quên cái gì khác ngoài tên mình không?” Anh ta hỏi. Không, cô đáp. Giờ thì chỉ có tên tôi thôi. ” Hừm. Điều này nghe như một dạng tâm thần ấy, ” anh ta nói, giọng nói của anh ta không có bất kỳ sự quan tâm hoặc thông cảm nào. “Nếu cô bắt đầu quên những thứ khác ngoài tên của của cô thì hãy đến chỗ chúng tôi kiểm tra lại. Rồi sau đó chúng tôi có thể làm một số bài kiểm tra cho cô” Ở chỗ chúng tôi còn đầy người có triệu chứng nặng hơn cả cô ấy chứ, anh ta ngụ ý. Quên tên riêng của mình trong thoáng chốc cũng không phải việc to tát gì.

Một ngày nọ, giữa mục thông báo của tổ dân phố nhét vào hộp thư, cô bắt gặp một mẩu tin thông báo rằng văn phòng phường sẽ mở một trung tâm tư vấn. Đó chỉ là mẩu tin nhỏ, loại tin cô vẫn thường lướt qua. Trung tâm sẽ mở cửa hai lần một tháng và có một chuyên gia tư vấn, với mức phí giảm đáng kể, sẽ tư vấn cho mọi người một đối một. Bất kỳ cư dân nào của phường Shinagawa từ mười tám tuổi đều được tự do sử dụng các dịch vụ này, mẩu tin cho biết, và được tổ chức với sự kín đáo chặt chẽ đáng tin cậy nhất. Mizuki thấy hồ nghi về việc một trung tâm tư vấn được phường tài trợ liệu có thể làm gì cho ra tấm ra món hay không, nhưng cô cũng quyết định thử. Cũng chả mất gì, cô kết luận. Đại lý chỗ cô làm thường lu xu bu vào những ngày cuối tuần, nhưng nghỉ một ngày trong tuần không phải là việc quá khó khăn gì và cô có thể điều chỉnh thời gian biểu của mình để phù hợp với lịch trình của trung tâm tư vấn, điều này vốn không thực tế đối với những người làm việc bình thường. Trung tâm đề nghị một cuộc hẹn, vì vậy cô gọi điện thoại trước. Một buổi tư vấn ba mươi phút tốn hai ngàn yên, cũng không phải là một khoản tiền quá đắt phải trả. Cô đã hẹn trước một giờ chiều. Vào thứ Tư tuần sau.

Lúc cô đến trung tâm tư vấn ở tầng ba của văn phòng phường, Mizuki nhận ra cô là khách hàng duy nhất. “Người ta bắt đầu chương trình này khá đột ngột”, chị tiếp tân giải thích, “và hầu hết mọi người vẫn chưa hay biết gì về nó. Một khi mọi người biết đến, tôi chắc rằng sẽ có thêm nhiều người tìm đến đây. Nhưng bây giờ chúng tôi đang rất rộng chỗ, chị may mắn lắm đấy.”

Người tư vấn, tên là Tetsuko Sakaki, là một người đàn bà vui vẻ, thân hình thấp đậm, tuổi ngoại tứ tuần. Mái tóc ngắn của chị nhuộm màu nâu nhạt, khuôn mặt tròn trịa nở một nụ cười đáng mến. Chị mặc trên mình một bộ đồ mát mùa hè màu sáng, áo lụa bóng loáng, đeo chiếc vòng cổ ngọc trai nhân tạo, và đi giày gót thấp. Nom chị còn giống một bà nội trợ thân thiện, hay đỡ đần người khác ở nhà bên hơn là một tư vấn viên.

“Chồng tôi làm việc ở văn phòng phường trong này luôn, cô em biết đó. Ông ấy là trưởng bộ phận của Công trình Công cộng “, chị nói với lối giới thiệu thân thiện. “Đó là cách chúng tôi có thể nhận được hỗ trợ từ phường và mở trung tâm tư vấn này. Thực tế mà nói, cô em là khách hàng đầu tiên của chúng tôi luôn và chúng tôi rất vui khi được gặp cô em. Hôm nay tôi không có cuộc hẹn nào khác cả, vì vậy hãy dành thời gian cho chúng tôi và nói chuyện thẳng thắn với nhau nhé. ” Người đàn bà nói từ tốn, mọi thứ xung quanh chị đều có vẻ chậm rãi và thận trọng.

Rất vui được gặp chị, Mizuki nói. Mặc dù trong lòng cô đang tự hỏi liệu kiểu người như vậy có giúp được gì cho mình không.

“Cô em có thể yên tâm rằng tôi có bằng tư vấn và khá nhiều kinh nghiệm. Vì vậy hãy cứ kể hết mọi chuyện cho tôi nhé, “người đàn bà nói thêm, nghe có vẻ như chị đã đọc được tâm tư của Mizuki.

Chị Sakaki ngồi sau chiếc bàn làm việc phẳng lì làm từ kim loại. Còn Mizuki ngồi trên một chiếc ghế sofa nhỏ, cũ kỹ trông như thể mới được người ta kéo từ trong kho ra. Các khung lò xo rệu rã, và mùi ẩm mốc khiến mũi cô giật giật.

“Tôi đã thậm mong chờ sẽ nhận được một trong những chiếc ghế dài thoải mái, để nó ra dáng một văn phòng tư vấn hơn, nhưng này là tất cả những gì chúng tôi có thể nhận vào lúc này. Chúng tôi đang thỏa thuận với một tòa thị chính ở đây, thế nên mình cứ phải vật vã từng ngày với cái thói làm ăn quan liêu kiểu đó. Một nơi gớm ói. Tôi hứa lần sau chúng ta sẽ có một thứ gì đó tốt hơn để cô em có thể ngồi lên, nhưng mà tôi cũng hy vọng hôm nay cô em sẽ không quá bận tâm. “

Mizuki quay lại chìm mình vào chiếc sofa cũ mỏng dính và bắt đầu giải thích về chuyện cô thường quên tên mình nhiều như thế nào. Trong lúc đó chị Sakaki chỉ gật gật đầu. Chị không yêu cầu bất cứ câu hỏi nào, cũng không hiển lộ chút gì ngạc nhiên. Hầu như chị không thể hiện bất cứ âm thanh nào chứng tỏ là mình đang dõi theo Mizuki. Chị chỉ lắng nghe câu chuyện của Mizuki một cách nghiêm cẩn, và trừ những cái cau mày thi thoảng như thể chị đang cân nhắc điều gì đó, thì khuôn mặt của chị vẫn không hề biến đổi. Nụ cười nửa miệng của chị, cũng giống như một mảnh trăng xuân vào lúc xế tà, chẳng có chút gì dao động.

“Đúng là một ý tưởng tuyệt hay khi khắc tên em lên chiếc vòng tay”, chị nhận xét sau khi Mizuki kết thúc. ” Tôi thích cách em giải quyết nó. Điều đầu tiên là đưa ra một giải pháp thiết thực, để giảm thiểu bất cứ sự bất tiện nào. Tốt nhất là đối phó với vấn đề một cách thực tế còn hơn là bị tra tấn bởi cảm giác tội lỗi, ôm rơm nặng bụng mà, rồi cứ phải bồn chồn không yên. Tôi thấy được cô em khá thông minh. Và đấy cũng là một chiếc vòng tay rất đẹp. Nhìn nó vừa xinh khi đeo lên tay em. “

“Chị có nghĩ rằng việc quên mất tên mình có thể liên quan đến một căn bệnh nghiêm trọng hơn không ạ? Đã có ca nào giống như thế này chưa?” Mizuki hỏi.

Chị Sakaki nói, “Tôi không tin là có bất cứ căn bệnh nào lại có triệu chứng biểu hiện sớm như vậy. Tôi thấy khá lo, mặc dù các triệu chứng đã trở nên tệ hơn trong năm qua. Tôi đồ rằng cái này có thể dẫn đến các triệu chứng khác, hoặc chứng mất trí nhớ của cô em có thể lây lan sang các khu vực khác. Vì vậy hãy cùng chia sẻ từng bước từng bước một và xác định điểm bắt đầu. Tôi có thể tưởng tượng được từ khi em làm việc bên ngoài nhà, chứng quên tên của cô em hẳn phải lôi theo cả tá vấn đề khác. “

Chị Sakaki bắt đầu bằng cách hỏi một vài câu cơ bản về cuộc sống hiện tại của Mizuki. Em kết hôn bao lâu rồi? Em đang làm công việc gì? Sức khoẻ của em như thế nào? Chị đặt câu hỏi về thời thơ ấu của cô, về gia đình, việc học hành của cô. Những điều cô thích, cả những thứ cô không ưa. Sở trường, sở đoản. Mizuki cố gắng trả lời mỗi câu hỏi một cách trung thực, nhanh chóng và chính xác nhất có thể.

Mizuki lớn lên trong một gia đình khá bình thường, cùng cha mẹ và chị gái. Cha cô làm việc cho một công ty bảo hiểm lớn, và mặc dù theo nghĩa nào đó họ không giàu có gì, thì cô cũng không nhớ rằng họ đã làm tổn thương cô vì vấn đề tiền bạc bao giờ. Cha cô là một người nghiêm túc, trong khi mẹ cô vừa có chút kỹ tính và hay càm ràm. Chị gái cô thường đứng đầu lớp học, mặc dù theo Mizuki chị ấy là một cô nàng hời hợt và thích giấu diếm. Tuy vậy Mizuki chẳng có bất cứ vấn đề gì với gia đình mình và vẫn sống chung bình thường với họ. Cả nhà hầu như chưa hề tranh cãi to tiếng bao giờ. Bản thân Mizuki đã từng là một đứa con nít chẳng có gì nổi bật. Cô luôn khỏe mạnh, chả mấy khi ốm, nhưng điều đó cũng không nói lên rằng cô là một đứa bé chơi cừ thể thao – làm gì có. Cô cũng không mấy ủ dột về vẻ ngoài của mình, dù chưa có bất cứ ai khen cô thật là xinh hay từa tựa thế. Mizuki thấy mình khá thông minh, nhưng không nổi trội trong bất cứ lãnh vực nào. Thứ hạng của cô ổn – nếu đang tìm kiếm tên cô trong danh sách lớp, sẽ nhanh hơn nếu đếm từ đầu danh sách xếp hạng từ dưới lên. Cô cũng từng có một vài bạn tốt ở trường, nhưng tất cả họ đã chuyển đến những nơi khác sau khi kết hôn và bây giờ ít giữ liên lạc với nhau.

Cô không có bất kỳ phàn nàn đặc biệt nào về cuộc sống hôn nhân. Lúc đầu, cô và chồng cũng mắc phải những lỗi lầm thường có, có thể đoán trước được của những người trẻ mới cưới, nhưng theo thời gian họ cùng tự điều chỉnh với nhau để có được một cuộc sống tươm tất hơn. Chồng cô chẳng hoàn hảo ở bất kỳ phương diện nào (trừ tính thích tranh luận của anh ta, chứ gu thời trang của lão dường như không hề tồn tại), nhưng anh cũng có nhiều điểm tốt – anh tử tế, có trách nhiệm, sạch sẽ, không kén ăn và chẳng càm ràm. Anh hầu như hòa đồng với mọi người trong công việc, cả đồng nghiệp và ông chủ của mình. Tất nhiên đã có những lúc phát sinh khó chịu trong công việc, một kết quả không thể tránh được của chuyện hợp tác gần gũi với nhiều người mỗi ngày, nhưng anh vẫn không có vẻ quá căng thẳng vì nó.

Khi trả lời hết những câu hỏi này, Mizuki bị đánh thức bởi một cuộc sống thiếu hứng thú mà cô đã lèo lái. Chẳng có chút kịch tính nào sờ nổi vào cô. Nếu cuộc đời của cô là một bộ phim, ấy hẳn sẽ là một trong những bộ phim tài liệu về môi trường có ngân sách thấp đảm bảo ru khán giả ngủ lăn quay cu đơ ráo trọi. Cảnh quan trắng sáng kéo dài đến vô tận. Không có chuyển cảnh, không có cận cảnh, không có gì thú vị, chỉ là một kinh nghiệm bằng phẳng không hơn để thu hút người khác. Chẳng có gì đáng ngại, chẳng có gì được gợi lên. Thỉnh thoảng góc quay của máy sẽ biến chuyển từng chút một như thể lướt ra khỏi sự an phận của nó. Mizuki biết rằng công việc của một tư vấn viên là phải lắng nghe khách hàng của mình, nhưng cô bắt đầu cảm thấy tiếc cho người đàn bà đang phải nghe những câu chuyện về cuộc sống tẻ nhạt như vậy. Chắc chắn chị ta không thể ngăn nổi một cái ngáp dài vô tận. Nếu đó mà là mình và mình cứ phải nghe những câu chuyện dài lê thê về cuộc sống mòn như thế, Mizuki tự nghĩ, đến một lúc nào đó chắc mình sẽ ngã gục vì buồn chán mất.

Thế mà, Tetsuko Sakaki lại lắng nghe Mizuki một cách chăm chú, còn viết một vài ghi chép ngắn gọn nữa. Thỉnh thoảng chị hỏi một câu hỏi nhanh, nhưng phần lớn là chị im lặng, như thể tập trung hoàn toàn vào quá trình lắng nghe câu chuyện của Mizuki. Vài lần chị cất giọng nói, trong giọng của chị không hề gợi lên nỗi chán nản, thay vào đó là một sự ấm áp thể hiện mối quan tâm thực sự của chị. Lắng nghe giọng nói đặc biệt của Tetsuko, Mizuki thấy mình bình tĩnh hơn. Chưa bao giờ có ai chịu kiên nhẫn lắng nghe với mình trước đó cả, cô nhận ra. Khi cuộc nói chuyện của họ kết thúc hơn một tiếng sau, Mizuki cảm giác như trút được cả gánh nặng ra khỏi lồng ngực.

“Cô Ando, ​​cô có thể đến đây vào giờ này thứ Tư tuần tới không? ” Chị Sakaki hỏi, với nụ cười tươi.

“Dạ, được chứ chị” Mizuki đáp. “Chị không thấy phiền nếu em đến chứ ạ?”

“Dĩ nhiên là không rồi. Miễn là cô em cảm thấy ổn với nó. Tư vấn mất rất nhiều đợt trước khi em có thể nhìn ra bất kỳ sự tiến bộ nào. Đây không giống như một chương trình gọi điện thoại vô tuyến mà em có thể dễ dàng kết nối mọi thứ, và chỉ cần thông báo cho người gọi đến “Cứ ở yên đó nhé!” Có thể mất thời gian, nhưng chúng mình cũng giống hội chị em bạn dì hàng xóm thôi mà, cả hai lại đều ở Shinagawa, vậy thì hãy dùng thời gian của mình để cùng làm nên chuyện nào.”

3

“Tôi tự thắc mắc là, liệu có bất kỳ sự kiện nào có thể gợi nhớ lại có liên quan đến tên của em không?” Chị Sakaki hỏi trong buổi tư vấn thứ hai. “Tên em này, tên của ai đó, tên đám thú cưng, hay tên của một địa danh em đã ghé thăm, hoặc không thì cũng là nick name? Bất cứ điều gì làm được với một cái tên. Nếu em có bất cứ ký ức nào liên quan đến một cái tên, tôi muốn em kể cho tôi nghe về nó. “

“Những thứ đã làm với cái tên ấy ạ?”

“Tên này, cách đặt tên, chữ ký, tên điểm danh… Nó có thể là một thứ rất bình thường, miễn là nó có liên quan đến cái tên. Ráng nhớ thử xem. “

Mizuki nghĩ về chuyện đó trong một lúc lâu.

“Em không nghĩ là mình có bất cứ ký ức đặc biệt nào về một cái tên,” cô nói. “Ít nhất là không có cái gì đang gợi lên trong em ngay bây giờ. A… Nhưng em có mang máng nhớ về một cái thẻ tên.”

“Một cái thẻ tên. Hay lắm.”

“Nhưng đó không phải là thẻ tên của em,” Mizuki nói. “Của ai đó khác cơ chị ạ.”

“Không thành vấn đề. Cứ nói cho tôi biết về nó, ” chị Sakaki nói.

“Như em đã đề cập hồi tuần trước, em từng đi học ở trường nữ sinh tư nhân cho cả cấp hai và cấp ba”, Mizuki bắt đầu. “Em đến từ Nagoya còn trường học ở tít tận Yokohama nên em sống trong ký túc xá trường và về nhà vào mỗi cuối tuần. Em thường đi tàu hỏa Shinkansen về nhà vào mỗi tối thứ Sáu rồi trở lại vào đêm Chủ Nhật. Chỉ hai giờ đồng hồ là đến Nagoya, thành thử em cũng không cảm thấy cô đơn lắm. “

Chị Sakaki gật đầu. “Nhưng Nagoya không có nhiều trường nữ sinh tư nhân à? Sao em phải ra khỏi nhà và đi đến tận Yokohama? “

“Mẹ em tốt nghiệp ở trường đó và muốn một trong hai đứa con gái cũng vậy. Với lại em nghĩ sẽ tốt hơn nếu không sống cạnh bố mẹ mình. Trường ấy là một trường truyền giáo nhưng lại khá tự do. Em đã có những đứa bạn rất tốt ở đó. Bọn nó đều giống như em, đến từ những nơi khác nhau, với những bà mẹ đã tốt nghiệp từ trường này luôn. Em ở đó được sáu năm và cũng thích nó lắm. Có điều thức ăn lại dở ẹc. “

Chị Sakaki mỉm cười. “Em nói em có một chị gái nhỉ?”

“Vâng. Chị ấy lớn hơn em hai tuổi. “

“Thế sao cô ấy không đến trường đó học?”

“Chị ấy là một cô nàng thích ru rú ở nhà chính hiệu. Mà từ bé chị ấy cũng hay đau ốm vặt liên miên nữa. Vậy nên chị ấy đi học ở một trường làng và sống ở nhà luôn. Thành ra mẹ em muốn em vào trường ấy. Em luôn khỏe mạnh và độc lập hơn chị mình. Hồi em mới tốt nghiệp tiểu học xong, họ hỏi em có muốn đi học ở Yokohama không, em nói “Chơi luôn”. Ý tưởng leo lên tàu Shinkansen về nhà vào mỗi cuối tuần cũng là một điều thú vị. “

“Xin lỗi vì đã làm gián đoạn,” Chị Sakaki nói, mỉm cười. “Em nói tiếp đi.”

“Hầu hết mọi người đều có một đứa bạn cùng phòng trong ký túc xá, nhưng khi chị trở thành đàn chị, chị sẽ được cấp cho một phòng riêng. Em đã sống trong một trong những phòng riêng đó cho đến khi mọi chuyện xảy ra. Từ khi em còn là học sinh năm cuối, mọi người đã bầu cho em trở thành đại diện ký túc xá. Có một cái bảng ở lối vào ký túc với những thẻ tên treo trên đó cho mỗi đứa học sinh. Mặt trước thẻ tên ghi tên chị là màu đen, mặt sau là màu đỏ. Bất cứ khi nào chị đi ra ngoài, chị phải lật thẻ tên, và quay ngược lại khi đã về. Nghĩa là, tên ai có màu đen thì đứa đó còn đang ở trong ký túc xá; Còn nếu nó đỏ thì nghĩa là bạn đó đã ra ngoài. Nếu chị qua đêm ở đâu đó hoặc xin nghỉ phép một thời gian, thẻ tên của chị sẽ được tháo khỏi bảng. Học sinh thay phiên trực tại bàn làm việc và khi chị nhận được điện thoại từ một trong những học sinh, chị có thể dễ dàng thông báo tình hình của họ chỉ qua một cái liếc nhìn. Đó là một hệ thống rất tiện lợi. “

Chị Sakaki lại đưa ra lời khuyến khích để cô tiếp tục.

“Thế nhưng, chuyện xảy ra vào tháng Mười. Lúc đó là trước giờ ăn tối và em đang ngồi trong phòng mình để làm bài tập về nhà, khi ấy có một bạn học tên là Yuko Matsunaka đến gặp em. Bạn ấy là cô nàng xinh đẹp nhất trong cả ký túc xá này – làn da mướt rượt, mái tóc suôn dài, đẹp toàn diện, giống như búp bê ấy. Bố mẹ bạn ấy chèo chống một quán trọ kiểu Nhật nổi tiếng ở Kanazawa và khá vất vả. Vì bạn ấy không học cùng lớp em nên em cũng không chắc lắm, nhưng em nghe nói điểm của bạn ấy rất cao. Nói cách khác là, bạn ấy nổi bật theo nhiều phương diện. Thực tế có rất nhiều đàn em lớp dưới xin trồng cây si bạn ấy. Nhưng Yuko rất dễ gần và chẳng hề vênh váo tí nào. Bạn ấy là một cô gái an tĩnh, không phô bày nhiều cảm xúc của mình. Một cô gái rất đáng yêu, nhưng đôi khi em không thể hiểu được bạn ấy nghĩ gì. Các bạn gái khác có thể rất ngưỡng mộ bạn ấy nhưng em đồ rằng bạn ấy chỉ có vài người bạn thân mà thôi.”

4

Mizuki đang ngồi bên bàn học, nghe đài radio trong phòng mình khi nghe thấy tiếng gõ cửa khe khẽ. Cô mở cửa ra, và nhìn thấy Yuko Matsunaka đứng đó, mặc một chiếc áo len ôm sát cao cổ với quần bò. Mình muốn nói chuyện với cậu, Yuko nói, nếu như cậu có thời gian. “Được mà,” Mizuki nói, thẳng thắn đến mức làm người ta phải ngạc nhiên. Mizuki chưa bao giờ trò chuyện riêng chỉ hai người với Yuko, và cô cũng không bao giờ tưởng tượng được Yuko sẽ đến phòng cô để hỏi ý kiến của cô về bất cứ điều gì về cá nhân. Mizuki ra hiệu cho cô ngồi xuống, và pha một ít trà với nước sôi trong ấm giữ nhiệt của mình.

“Mizuki này, cậu có bao giờ cảm thấy ghen không?” Yuko bất ngờ lên tiếng.

Mizuki bị ngạc nhiên với câu hỏi đột ngột này, nhưng cô cũng nghiêm túc suy nghĩ.

“Không, mình nghĩ là mình chưa bao giờ ghen cả” cô trả lời.

“Chưa một lần nào luôn?”

Mizuki lắc đầu. “Ít nhất là khi cậu hỏi mình một cách đường đột như thế, nhưng mà mình không nhớ đã có lần bất kỳ nào. Ghen ấy hử… Nhưng mà ý cậu là gì? “

“Giống như khi cậu yêu ai đó nhưng người ấy lại yêu người khác. Giống như có thứ gì cậu thèm muốn lắm lắm nhưng lại có người có được nó. Hoặc có điều gì đó cậu muốn làm được, và ai đó khác có thể làm nó mà không cần nỗ lực chút gì… Kiểu kiểu vậy”.

“Mình không nhớ là mình đã từng cảm thấy như thế”, Mizuki nói. “Cậu thì sao?”

“Nhiều lắm.”

Mizuki không biết phải nói gì. Một cô gái như thế này còn mong muốn gì hơn trong cuộc sống? Cô xinh đẹp, con nhà giàu, học thì giỏi và nổi tiếng ở trường. Bố mẹ lại thương yêu cưng chiều cô như trứng mỏng. Mizuki có nghe loáng thoáng rằng hồi cuối tuần cô ấy đã đi chơi với một sinh viên đại học bảnh trai. Vậy cô ta còn muốn cái giống gì trên quả đất này nữa chứ?

“Giống như cái gì, cậu ví dụ thử xem?” Mizuki hỏi.

“Mình không muốn nói,” Yuko nói, lựa lời cẩn thận. “Với lại, có liệt kê hết từng chi tiết ra đây cũng vô ích thôi. Mình muốn hỏi cậu lâu lắm rồi – đã bao giờ cậu thấy ghen tị chưa. “

“Thật hử?”

“Ừm.”

Mizuki không biết đó là chuyện gì, nhưng quyết tâm trả lời một cách trung thực nhất có thể. “Mình không nghĩ rằng mình đã từng có những trải nghiệm như thế”, cô bắt đầu. “Mình không biết tại sao, và có vẻ hơi lạ nếu cậu bận tâm về nó. Ý mình là, nó không giống như việc có cả tấn tự tin, hoặc có được mọi thứ mình muốn. Trên thực tế có rất nhiều thứ làm mình nên cảm thấy thất vọng, nhưng vì bất cứ lý do nào, nó cũng không khiến mình phải đi ghen tỵ với ai cả. Mình cũng tự thắc mắc vì sao. “

Yuko Matsunaka mỉm cười dịu dàng. “Mình thì không nghĩ rằng ghen có nhiều liên quan đến điều kiện khách quan hay thực tế. Giống như là nếu cậu may mắn thì cậu sẽ không ghen tị, nhưng nếu cuộc sống đã không ban phước cho cậu, thì cậu sẽ ghen tị thôi. Ghen tị không vận hành theo cách đó. Nó giống như một khối u đang bí mật phát triển bên trong chúng ta và ngày càng lớn hơn, vượt quá mọi lý do. Ngay cả khi cậu đã phát hiện ra nó ở đó, cậu vẫn không thể làm gì để ngăn chặn nó. Giống như bảo rằng những người may mắn thì không bị mọc khối u, trong khi những người bất hạnh lại dễ mắc chúng hơn – không đúng, phải không? Đại khái là vậy.”

Mizuki lắng nghe mà không nói gì. Yuko cũng hầu như không có gì để nói cùng lúc.

“Thật khó để giải thích sự ghen tị với ai đó chưa từng cảm nhận nó. Có duy nhất một điều mình biết rõ là rất khó sống với nó. Nó giống như việc phải đeo theo một phiên bản ác quỷ thu nhỏ của mình, ngày này qua ngày khác. Cậu nên biết ơn vì cậu đã không bao giờ cảm thấy thế. “

Yuko ngừng nói và nhìn thẳng vào Mizuki với một nụ cười chớp nhoáng lướt qua trên mặt. Bạn ấy thực sự rất dễ thương, Mizuki nghĩ lần nữa. Quần áo hợp mốt, điện nước đầy đủ. Mình sẽ cảm thấy thế nào nếu trở thành một người giống như bạn ấy – với một vẻ đẹp tuyệt vời khiến người khác phải dừng chân dù ở bất cứ đâu? Mình có thể tự hào về nó? Hay nó chính là gánh nặng?

Mặc dù nghĩ những điều này, nhưng Mizuki vẫn không bao giờ cảm thấy ghen tị với Yuko.

“Mình phải về nhà ngay bây giờ,” Yuko nói, nhìn chằm chằm vào bàn tay đang đặt trước bụng. “Một trong những người thân của mình vừa qua đời và mình phải đi dự tang lễ. Quản lý ký túc xá đã cho phép rồi. Mình sẽ trở lại vào sáng thứ Hai, nhưng trong lúc mình đi, mình đã tự hỏi liệu cậu có thể giữ giùm mình thẻ tên được không?”

Cô lấy thẻ tên của mình cất trong túi và đưa nó cho Mizuki. Mizuki không hiểu chuyện gì đang xảy ra.

“Mình không phiền gì cả nếu mình giữ nó cho cậu,” Mizuki nói. “Nhưng tại sao cậu lại nhờ mình? Sao cậu không cất nó vào ngăn kéo bàn học? “

Yuko nhìn sâu hơn vào mắt Mizuki, khiến cô không thoải mái.

“Mình chỉ muốn cậu giữ nó cho mình lần này thôi,” Yuko nói. “Có vài thứ làm phiền mình, và mình không muốn giữ nó trong phòng mình.”

“Mình không bận tâm đâu,” Mizuki nói.

“Mình chỉ không muốn có con khỉ nào trốn đi với cái thẻ tên trong lúc mình vắng mặt thôi,” Yuko bảo.

“Mình ngờ rằng có mấy con khỉ nào đó ở đây đấy,” Mizuki láu lỉnh. Câu này không phải để chọc cười như Yuko. Rồi Yuko rời khỏi phòng, để lại đằng sau là chiếc thẻ tên với tách trà chưa chạm đến, và một chỗ trống nơi cô mới vừa ngồi.

5

“Đến thứ Hai, Yuko vẫn chưa về ký túc xá,” Mizuki kể với người tư vấn, chị Sakaki. “Giáo viên chủ nhiệm lớp bạn ấy rất lo lắng, nên thầy đã gọi điện cho bố mẹ bạn. Bạn ấy không hề về nhà. Không có ai trong gia đình bạn ấy qua đời, và chẳng có tang lễ nào cho bạn ấy đến dự. Bạn ấy đã nói dối về mọi chuyện và rồi biến mất. Người ta tìm thấy thi thể bạn ấy ngay tuần sau đó, vào lúc cuối tuần. Em nghe nói về chuyện đó khi em từ nhà lên sau kỳ nghỉ cuối tuần ở Nagoya. Bạn ấy đã tự sát nơi đâu đó trong rừng, cắt cổ tay. Khi người ta tìm thấy thì bạn ấy đã chết, toàn thân đẫm máu. Không ai biết tại sao bạn ấy lại làm vậy. Bạn ấy không hề để lại một di ngôn nào, và cũng không có động cơ gì rõ ràng cả. Bạn cùng phòng của bạn ấy nói trông bạn ấy vẫn giống như mọi khi. Không hề có vẻ bị khó chịu bởi chuyện gì. Yuko đã tự sát mà không nói một lời với bất cứ ai “

“Nhưng không phải cô bạn Matsunaka này đang cố nói gì với em ư?” Chị Sakaki hỏi. “Nên là cô ấy đã đến phòng của em, để lại thẻ tên của cô ấy cho em. Và còn nói về sự ghen tị của cô ấy. “

“Đúng là bạn ấy có nói về sự ghen tị với em. Em đã không làm được gì nhiều vào lúc đó, mặc dù sau đó em mới nhận ra bạn ấy đã muốn nói với ai đó về điều đó trước khi bạn qua đời. “

“Em có nói với ai rằng cô bé ấy đã đến phòng em trước khi tự sát chưa?”

“Không, em chưa bao giờ làm thế.”

“Tại sao không?”

Mizuki nghiêng đầu và đưa ra vài suy nghĩ. “Nếu em kể với mọi người về chuyện đó, chỉ tổ gây ra thêm nhầm lẫn thôi. Không ai hiểu được cả, và nó cũng chẳng tạo ra chuyện tốt đẹp gì. “

“Ý em là ghen tị có thể là lý do cho việc tự tử của cô ấy?”

“Vâng. Nếu em nói với mọi người, họ có thể bắt đầu nghĩ điều gì đó sai về em. Ai trên cõi đời này có thể khiến một cô gái như Yuko ghen tị cơ chứ? Sau đó mọi người sẽ bị rối tung lên, và cực kỳ khó chịu, vì vậy em quyết định tốt nhất là giữ im lặng. Chị có thể tưởng tượng bầu không khí trong ký túc xá toàn là bánh bèo rồi đấy – nếu em tiết lộ bất cứ điều gì, thì cũng giống như đi châm một que diêm trong căn phòng toàn khí gas.”

“Chuyện gì đã xảy ra với cái thẻ tên?”

“Em vẫn giữ nó. Nó nằm trong một cái hộp nhét sau tủ quần áo của em. Cùng với thẻ tên của em luôn”

“Sao em vẫn giữ nó bên mình?”

“Mọi thứ đã trở nên om sòm ở trường và em mất luôn cơ hội để trả nó. Em càng chờ đợi lâu hơn thì lại càng trở nên khó khăn hơn để trả lại. Nhưng em cũng không thể tự mình vứt nó đi được. Với lại, em bắt đầu nghĩ rằng có lẽ Yuko muốn em giữ cái thẻ tên đó. Thế nên bạn ấy đã đến phòng em ngay trước khi bạn ấy mất và để nó lại với em. Tại sao bạn ấy lại chọn em, em cũng không biết nữa. “

“Kỳ lạ nhỉ. Em và Yuko vốn cũng không thân thiết gì, nhưng cô bé ấy lại chọn em. “

“Sống trong một ký túc xá nhỏ, tự nhiên bọn em sẽ biết mặt nhau thôi,” Mizuki nói. “Mỗi lần như thế bọn em chỉ trao đổi một vài từ. Nhưng bọn em học ở hai khối khác nhau, và cả hai chưa bao giờ nói về bất cứ chuyện gì riêng tư cả. Có khi bạn ấy đến gặp em vì em là đại diện học sinh trong ký túc xá. Chứ em cũng không thể nghĩ ra lý do nào khác. “

“Có lẽ Yuko quan tâm đến em vì vài lý do khác. Có thể cô ấy bị em thu hút. Mà cũng có thể cô ấy đã nhìn thấy một điều gì đó trong em nên cô ấy bị cuốn về phía em. “

“Em không biết về điều đó,” Mizuki nói.

Chị Sakaki im lặng, nhìn chằm chằm một lúc lâu vào Mizuki như thể cố gắng chắc chắn về điều gì đó.

“Bỏ hết những chuyện đó sang một bên, cô em thực sự đã bao giờ cảm thấy ghen tị chưa? Chưa một lần trong đời em?”

Mizuki không vội đáp lại ngay. “Em không thấy thế. Thậm chí chưa một lần nào. “

“Có nghĩa là em không hiểu được ghen tị là gì?”

“Nhìn chung ,em nghĩ rằng em có thể hiểu – ít nhất là căn nguyên có thể gây ra nó. Nhưng em không biết ghen tị thực sự sẽ cảm thấy thế nào. Làm thế nào áp đảo được nó, khi nào nó trôi qua, mình phải dằn vặt vì nó bao lâu. “

“Em nói đúng,” chị Sakaki nói. “Sự ghen tị đi qua nhiều giai đoạn. Tất cả cảm xúc của con người đều là thế. Khi nó không nghiêm trọng, mọi người gọi nó là sự giày vò hay cơn tị nạnh. Có sự khác biệt trong cường độ, nhưng hầu hết mọi người cảm thấy những cảm xúc ít căng thẳng hơn như là một vấn đề đương nhiên phải thế. Giống như việc một trong những đồng nghiệp của em được thăng tiến trước em, hoặc một học trò trong lớp em trở thành cục cưng của cô giáo. Hay là một lão hàng xóm trúng Vietlott chẳng hạn. Đó chỉ là sự ghen tị. Dường như không công bằng, và em ba máu sáu cơn lên. Một phản ứng hoàn toàn tự nhiên. Em có chắc là em chưa bao giờ cảm thấy điều đó chứ? Em thậm chí không bao giờ ghen tị với người khác? “

Mizuki đưa ra vài suy nghĩ. “Em không nghĩ là em có. Tất nhiên có rất nhiều người may mắn hơn em. Nhưng điều đó không đồng nghĩa là em phải đi ghen tị với họ. Em hình dung cuộc sống của mọi người đều khác nhau. “

“Vì mọi người khác nhau thì thật khó để so sánh họ với nhau?”

“Em cho là vậy.”

“Một quan điểm rất thú vị …”, chị Sakaki nói, hai tay đan vào nhau đặt lên bàn làm việc, giọng nói thoải mái của chị lộ rõ niềm vui thích. “Dù sao, đó chỉ là những trường hợp nhẹ, ghen tị như chúng ta đã nói. Trong trường hợp cơn ghen dữ dội, mọi thứ không đơn giản như vậy đâu. Với ghen tị như một loại ký sinh trùng có gốc rễ trong tim em, và như cô bạn của em đã nói, nó sẽ trở nên giống một căn bệnh ung thư đục khoét tâm hồn em. Trong một vài trường hợp thậm chí có thể dẫn người ta đến đường chết. Họ không kiểm soát nổi nó, và cuộc sống của người đó thật sự trở thành một địa ngục sống. “

Sau khi Mizuki trở về nhà, cô lấy ra một chiếc hộp bìa cứng cũ được bọc trong băng dính từ sau tủ quần áo của cô. Cô đã đặt chiếc thẻ tên của Yuko vào đó cùng với thẻ của mình bên trong một cái phong bì, vì vậy chúng vẫn còn ở đó. Tất cả các sự kiện trong cuộc đời của Mizuki đều được nhồi vào trong những bức thư cũ của trường, nhật ký, album ảnh, sổ liên lạc. Cô từng có ý định vứt chúng đi, nhưng lại luôn bận tối mặt, vì vậy cô vẫn kéo chúng theo mỗi khi chuyển nhà. Nhưng không có chiếc phong bì nào cả. Cô bèn vứt bớt đồ trong hộp đi và xếp lại kỹ càng, nhưng vẫn không tìm thấy. Cô đâm bối rối quá. Khi cô dọn đến căn hộ này, cô đã kiểm tra nhanh qua các món đồ trong hộp và nhớ rõ ràng là mình có thấy chiếc phong bì. Thế là mình vẫn có, cô nghĩ tiếp, ấn tượng với nó chứ. Cô đã đóng dấu tên vào trong chiếc phong bì và không hề mở hộp ra một lần nào kể từ ngày đó. Vì vậy, phong bì phải ở đây chứ. Nó có thể biến đi đằng quái nào được?

6

Kể từ lúc cô đến phòng tư vấn của phường mỗi tuần một lần, và trò chuyện với chị Sakaki, Mizuki không còn lo nghĩ nhiều về việc quên tên mình nữa. Cô vẫn quên nhiều như trước, nhưng các triệu chứng dường như đã ổn định, và không có gì khác bốc hơi khỏi bộ nhớ của cô. Nhờ chiếc vòng đeo tay, cô cũng tránh được sự bối rối. Thi thoảng cô thậm chí còn bắt đầu cảm thấy việc quên tên mình chỉ là một phần của cuộc sống.

Mizuki giữ bí mật về các buổi tư vấn với chồng mình. Cô không có ý định giấu diếm với anh ta, nhưng giải thích hết mọi chuyện có khi còn lôi thôi hơn là đáng để kể. Cô hiểu tính chồng mình, chồng cô sẽ yêu cầu cô giải thích mọi chi tiết. Và ngoài ra, việc tự dưng quên mất tên mình rồi còn đi gặp tư vấn tâm lý mỗi tuần một lần thì cũng chẳng ảnh hưởng gì đến anh ta cả. Mà lệ phí lại còn thấp ở mức tối thiểu nữa chứ.

Hai tháng trôi qua. Mỗi thứ Tư hàng tuần Mizuki đều đến văn phòng trên tầng ba của văn phòng phường để được tư vấn. Số lượng khách giờ đã tăng lên một chút, vì vậy người ta phải giảm thời lượng một tiếng xuống còn 30 phút. Tuy nhiên, thời gian giảm bớt cũng không quan trọng gì, vì họ đã có cùng tần số và tận dụng tốt thời gian của mình với nhau. Đôi khi Mizuki muốn cả hai có thể nói chuyện lâu hơn, nhưng với mức phí thấp đến vô lý ấy, cô còn thể phàn nàn gì được.

“Đây là buổi tư vấn thứ chín của chúng ta với nhau,” chị Sakaki nói, năm phút trước khi kết thúc buổi trò chuyện. “Em không đỡ quên tên của em, nhưng nó cũng không trở nên tệ hơn, phải không?”

“Không ạ, không có,” Mizuki nói. “Các triệu chứng khá ổn định.”

“Tuyệt lắm” chị Sakaki nói. Chị đút lại cây bút bi đen vào túi và đặt hai nắm tay lên bàn. Chị thoáng ngưng lại một chốc. “Có lẽ-có lẽ thôi nhé-khi em đến đây vào tuần tới, chúng mình có thể đạt được những bước tiến lớn hơn về vấn đề mình đang thảo luận.”

“Ý chị là việc em quên tên mình?”

“Chính xác. Nếu mọi thứ trở nên tốt hơn, chúng ta sẽ có thể xác định được nguyên nhân chủ yếu và thậm chí em có thể nhìn nhận nó. “

“Về lý do sao em quên tên mình ấy ạ?”

“Phải.”

Mizuki không thể nắm bắt được những gì cô đang nghe. “Khi chị nói là một nguyên nhân rõ ràng… Ý chị là nó có thể nhìn thấy được?”

“Dĩ nhiên là nó có thể nhìn thấy rồi,” chị Sakaki nói, xoa xoa hai tay vào nhau với sự hài lòng. “Một thứ gì đó chúng ta có thể đặt lên đĩa và nói, “Của cưng đây”! Tôi không thể đi sâu vào chi tiết cho đến tuần tới. Ở thời điểm này, tôi vẫn không chắc chắn liệu nó có thể lộ ra hay không. Tôi chỉ hy vọng là có. Và nếu có thật thì cũng đừng lo lắng; Tôi sẽ giải thích toàn bộ chuyện này cho cô em. “

Mizuki gật đầu.

“Dù sao đi nữa, những gì tôi đang cố nói là chúng mình đã lên bờ xuống ruộng với ca này nhưng rốt cuộc mọi thứ cũng đang hướng về một lời giải đáp. Em nghe các cụ nói chưa – “Lùi một bước tiến ba bước”? Thế nên đừng có lo gì cả. Chỉ cần tin vào chị đại thành tinh Sasaki này thôi. Tôi sẽ gặp em vào tuần tới nhé. Và đừng có quên lên lịch hẹn trên đường về. “

Chị Sasaki kết chuyện bằng một cái nháy mắt.

7

Một giờ chiều tuần kế tiếp khi Mizuki bước vào phòng tư vấn, chị Sakaki đã ngồi sẵn sau bàn làm việc của mình với nụ cười rạng rỡ nhất Mizuki từng thấy.

“Tôi đã khám phá ra lý do tại sao em lại quên tên mình,” chị tự hào tuyên bố. “Và chúng tôi đã tìm ra lời giải.”

“Vậy là em sẽ không quên tên mình nữa ạ?” Mizuki hỏi.

“Chính xác. Em sẽ không còn quên tên của em nữa. Chúng tôi đã giải quyết được vấn đề và “săn sóc” nó. “

“Vậy cái khỉ gì trên đời này là nguyên do dẫn đến chuyện ấy cơ?” Mizuki hỏi một cách đầy nghi ngờ.

Chị Sasaki lấy ra một thứ gì đó từ chiếc túi xách tráng men đen để bên cạnh và đặt vật đó lên bàn.

“Tôi tin rằng cái này là của em.”

Mizuki nhổm dậy từ ghế sofa và đi đến chỗ bàn làm việc. Trên bàn là hai chiếc thẻ tên. “Mizuki Ozawa” được viết trên một mặt, và “Yuko Matsunaka” ở mặt còn lại. Mặt Mizuki tái mét. Cô quay lại ghế sofa và ngồi thụp xuống, không nói nổi nên lời suốt một lúc lâu. Cô bịt chặt tay lên miệng mình như cố cản mọi lời nói muốn thoát ra.

“Không ngạc nhiên khi thấy em kinh ngạc,” chị Sakaki nói. “Nhưng em đừng lo, tôi sẽ giải thích hết mọi thứ. Thả lỏng đi nào. Không có gì phải sợ hãi cả. “

“Nhưng làm sao mà… ?” Mizuki ấp úng.

“Làm sao mà tôi lại có được thẻ tên ở trường trung học của em phải không?”

“Vâng. Em chỉ không … “

“Không hiểu là ra mô tê gì?”

Mizuki gật gật đầu.

“Tôi đã phục hồi chúng cho em,” chị Sakaki nói. “Những thẻ tên đó đã bị đánh cắp từ chỗ em và đó là lý do khiến em gặp khó khăn khi nhớ tên em. Vậy nên chúng tôi đã lấy lại thẻ tên để em nhớ lại được tên của mình.”

“Nhưng kẻ nào đã… ?”

“Kẻ nào đã đột nhập vào nhà của em và ăn cắp hai thẻ tên này chứ gì? Và với mục đích gì phải không? ” Chị Sakaki nói. “Thay vì để tôi trả lời, tôi nghĩ rằng tốt nhất là em nên yêu cầu đương sự trực tiếp chịu trách nhiệm”.

“Người làm ra những chuyện này đang ở đây ư?” Mizuki hỏi với vẻ ngạc nhiên.

“Tất nhiên rồi. Chúng tôi đã bắt được “nó” và lấy lại các thẻ tên. Tôi không có tự mình bắt “nó” đâu, em đừng có tưởng tượng lung tung nữa. Ông xã tôi và một trong những đàn em của ông ấy mới làm chuyện đó. Có nhớ là tôi có nói với em rằng ông xã tôi là trưởng phòng của Vụ Công trình Shinagawa không? “

Mizuki gật đầu không suy nghĩ.

“Nên em sẽ nói gì khi chúng ta đi gặp thủ phạm? Sau đó hãy trình bày suy nghĩ của mình với nó khi cả hai đối diện nhau.”

Mizuki đi theo chị Sakaki ra khỏi văn phòng tư vấn, xuống hành lang, và vào thang máy. Họ đến một tầng hầm, lại đi xuống một hành lang dài vắng vẻ, lộ ra một cánh cửa nơi cuối đường. Chị Sakaki gõ cửa, một giọng đàn ông lên tiếng mời họ vào, và chị mở cửa.

Trong phòng là một người đàn ông cao dong dỏng, khá gầy, tuổi trạc ngũ tuần, và một cậu thanh niên khác đô con hơn cỡ chừng đầu hai đít chơi vơi, cả hai đều mặc đồng phục chất vải kaki phản quang. Người đàn ông lớn tuổi đeo một thẻ tên trên ngực có dòng chữ “Sakaki,” còn cậu chàng nhỏ tuổi hơn thì đeo dòng chữ “Sakurada “. Trong tay Sakurada cầm một cây dùi cui đen xì dùng để tuần đêm.

“Tôi đoán cô là cô Mizuki Ando phải chứ?” Anh Sakaki hỏi. “Tôi tên là Yoshio Sasaki, chồng của Tetsuko. Tôi là trưởng phòng Cục Công trình công cộng ở đây. Còn đây là chú Sakurada, đồng nghiệp của tôi.”

“Rất vui được gặp anh,” Mizuki nói.

“Nó có gây rắc rối gì cho các anh không?” Chị Sakaki hỏi chồng.

“Không, anh nghĩ là nó khá biết thân biết phận đấy,” anh Sakaki nói. “Chú Sakurada này đã để mắt tới nó suốt cả ngày, và có vẻ nó rất biết điều.”

“Nó câm như hến ấy”, Sakurada nói, nghe giọng ỉu xìu. “Nếu nó dám càn rỡ thì em đã tẩn cho nó một bài học nhớ đời, nhưng không có chuyện gì kiểu kiểu vậy xảy ra.”

“Sakurada là đội trưởng của đội karate ở Đại học Meiji, và là một trong những chàng trai trẻ triển vọng của bọn anh”, anh Sakaki nói.

“Thế thì… Đây là kẻ đã đột nhập vào nhà em và chôm chỉa mất mấy cái thẻ tên ư?” Mizuki băn khoăn.

“Đúng vậy cô em ạ. Sao chúng ta không giới thiệu cô em với nó nhỉ?” Chị Sakaki nói.

Có một cánh cửa ở phía sau căn phòng. Anh Sakurada mở cửa, bật đèn. Anh quét mắt nhanh khắp lượt cả căn phòng rồi quay sang bảo những người khác. “Có vẻ OK đấy. Đi vào trong thôi.”

Anh Sakaki đi vào đầu tiên, tiếp theo là vợ anh, cùng Mizuki bước theo phía sau.

Phòng này giống như một dạng nhà kho. Không có đồ đạc gì, chỉ có một cái ghế và một con khỉ đang ngồi lên. Nom nó lớn hơn khỉ thường nhưng lại khá thấp bé so với con người trưởng thanh, chỉ lớn hơn học sinh tiểu học một tí thôi. Lông nó dài hơn mức bình thường so với một con khỉ và rải màu muối tiêu. Thật khó để đoán tuổi của nó, nhưng chắc chắn nó không còn nhỏ nữa. Tay và chân của con khỉ bị buộc chặt bằng một sợi dây mỏng vào chiếc ghế gỗ, cái đuôi dài của nó buông thõng xuống sàn nhà. Khi Mizuki bước vào, con khỉ ném một ánh mắt rất nhanh về phía cô, sau đó nó nhìn chằm chằm xuống dưới mặt đất.

“Một con khỉ?” Mizuki kinh ngạc hỏi.

“Đúng thế cô em ạ” chị Sakaki trả lời. “Một con khỉ đánh cắp mấy cái thẻ tên trong căn hộ em ở.”

Mình không muốn có con khỉ nào tẩu thoát cùng với thẻ tên của mình đâu, Yuko đã nói như thế. Hóa ra nó không phải là một câu đùa, giờ Mizuki mới vỡ lẽ. Yuko đã biết tất cả về điều này. Một cơn ớn lạnh trào lên cột sống của Mizuki.

“Nhưng làm sao chị có thể?…”

“Làm sao tôi có thể biết về điều này chứ gì?” Chị Sakaki nói. “Như tôi đã nói với em khi chúng ta gặp nhau lần đầu, tôi là một chuyên gia. Một người hành nghề được cấp phép, với nhiều năm kinh nghiệm. Đừng trông mặt mà bắt hình dong chứ. Em đừng cho rằng một con mụ cung cấp dịch vụ tư vấn rẻ tiền ở văn phòng phường thì sẽ có kỹ năng hạn hẹp hơn mấy ông bà ngồi trong các tòa nhà xa xỉ bật điều hòa phà phà cả ngày. “

“Tất nhiên là không rồi. Chỉ là em rất rất ngạc nhiên, và em… “

“Đừng quắn quéo lên thế. Tôi chỉ đùa thôi! “Chị Sakaki cười. “Nói thật, tôi biết mình là một người cổ quái. Thành thử tôi không làm việc lâu được ở những tổ chức và các viện nghiên cứu. Tôi thích làm theo cách riêng của mình ở một nơi như thế này. Vì như em đã quan sát được đấy, cách làm việc của tôi hơi bị độc. “

“Nhưng rất hiệu quả”, ông chồng chị bổ sung.

“Vậy là con khỉ đã đánh cắp cái thẻ tên ạ?” Mizuki hỏi.

“Phải, nó đã lẻn vào căn hộ em ở và xu mấy cái thẻ tên từ tủ quần áo của em. Ngay khoảng thời gian em bắt đầu quên tên mình, khoảng một năm trước, tin được không? “

“Vâng, chính là khoảng thời gian đó.”

“Nhà cháu rất xin lỗi,” con khỉ cất giọng nói, đây là lần đầu tiên nó lên tiếng, giọng của khỉ thấp nhưng rất sinh động, gần với nhạc tính cao.

“Nó có thể nói được này!” Mizuki kêu lên, mặt đần thối ra.

“Vâng, nhà cháu nói được ạ,” con khỉ trả lời, vẻ mặt của nó không biến hóa gì. “Có một điều khác nhà cháu phải xin lỗi cô. Khi nhà cháu đột nhập vào chỗ của cô để lấy cắp thẻ tên, nhà cháu đã tự tiện vặt lấy mấy quả chuối. Nhà cháu đã không có ý định lấy bất cứ thứ gì ngoài thẻ tên, nhưng nhà cháu đói sôi lên và mặc dù biết là không nên, rốt cuộc nhà cháu vẫn ăn mất hai quả chuối để trên bàn. Bọn chuối nom ngon đến không thể hoãn cái sự sung sướng lại ạ, khẹc khẹc!”

“Con khỉ hâm dở này,” Cậu Sakurada nói, đập đập cái dùi cui trong tay. “Ai biết được mày còn muốn cái gì nữa chứ? Mày có thích tao nướng mày lên để khảo không hả? “

“Nhẹ nhàng thôi nào,” anh Sakaki nói với cậu ta. “Nó đã thú nhận về cả chuyện mấy quả chuối, mà bên cạnh đó, nó cũng có chống trả tôi như loại trẻ trâu trẻ khỉ gì đâu. Ta không nên làm điều gì dữ dằn quá cho đến khi nghe được thêm nhiều chuyện. Nếu người ta phát hiện ra chúng ta ngược đãi một con vật trong văn phòng phường, chúng ta có thể gặp rắc rối to đấy. “

“Sao khỉ lại lấy cắp thẻ tên của tôi?” Mizuki hỏi con khỉ.

“Nhà cháu phải làm thế. Nhà cháu là một con khỉ phải lấy tên người khác, “con khỉ trả lời. “Đó là loại bệnh mà nhà cháu phải chịu đựng. Một khi nhà cháu nhìn thấy một cái tên nào thì nhà cháu không thể ngăn lại bản thân mình. Không phải bất cứ cái tên nào nhà cháu cũng lấy đâu ạ. Nhà cháu sẽ đi tìm một cái tên thu hút cháu nhất, một cái tên thực đặc biệt, nhà cháu phải có được nó. Nhà cháu lẻn vào nhà người ta và ăn trộm những cái tên đó. Nhà cháu biết thế là sai, nhưng nhà cháu không kiểm soát bản thân được. “

“Có phải khỉ là kẻ đã cố đột nhập vào ký túc xá của bọn tôi và ăn trộm thẻ tên của Yuko không?”

“Vâng ạ. Nhà cháu trót yêu nàng Matsunaka điên lên được. Nhà cháu chưa bao giờ bị ai đó thu hút trong cuộc đời khỉ này. Nhưng nhà cháu làm sao biến nàng ấy thành của mình được. Nhà cháu thấy nó quá nhiều vấn đề phải xử lý, với tư cách một con khỉ, vì vậy nhà cháu quyết định rằng dân chơi không sợ mưa rơi, ít nhất nhà cháu phải có được tên nàng cho riêng mình. Nếu nhà cháu có thể sở hữu tên của nàng thì sẽ mãn nguyện lắm. Là một con khỉ mình có thể đòi hỏi gì thêm nữa? Nhưng trước khi nhà cháu có thể thực hiện kế hoạch của mình, thì nàng đã mất rồi. “

“Khỉ có liên quan gì đến việc tự tử của bạn ấy không?”

“Không, không hề,” con khỉ nói, lắc đầu một cách dứt khoát. “Nhà cháu không làm gì dính đến chuyện đó. Nàng bị choáng ngợp bởi bóng tối bên trong nội tại, và không ai có thể cứu rỗi nàng.”

“Nhưng sau bao nhiêu năm khỉ lại biết rằng thẻ tên của Yuko đang ở chỗ tôi?”

“Phải mất một thời gian dài để theo dõi nó. Chẳng bao lâu sau khi nàng Matsunaka qua đời, nhà cháu đã cố gắng lấy được thẻ tên của nàng, nhưng nó đã biến mất tăm trước khi nhà cháu lấy được. Không ai biết nó ở đâu. Nhà cháu đã cố gắng lục lọi đến từng xó xỉnh một để tìm ra nó, nhưng cho dù có làm gì, nhà cháu cũng không thể định vị được nó. Nhà cháu không nghĩ ra lúc ấy nàng Matsunaka đã để lại thẻ cho cô giữ, vì cô không đặc biệt gần gũi với nàng ấy. “

“Đúng,” Mizuki nói.

“Nhưng một ngày nọ nhà cháu đã có chút linh tính, có lẽ – có lẽ thôi – nàng ấy đã để lại thẻ tên của mình cho cô. Ấy là vào mùa xuân năm ngoái. Phải mất một thời gian dài để theo dõi cô – để tìm ra là cô đã kết hôn, tên của cô bây giờ là Mizuki Ando, ​​rằng cô đang sống trong một căn hộ ở Shinagawa. Là một con khỉ thì điều tra chậm như thế nào, cô có thể tưởng tượng được đấy. Dù sao đi nữa, đó cũng là cách nhà cháu lẻn vào căn hộ của cô để trộm lấy nó. “

“Nhưng tại sao khỉ lại ăn cắp thẻ tên của tôi? Sao không phải chỉ Yuko thôi? Tôi đã phải chịu đựng rất nhiều vì những gì khỉ đã làm. Tôi không thể nhớ nổi cả tên của mình!”

“Nhà cháu thực rất, rất xin lỗi,” con khỉ nói, ngúc ngắc đầu trong nỗi xấu hổ. “Khi nhà cháu nhìn thấy một cái tên nhà cháu thích, nhà cháu sẽ lấy nó. Điều này thật đáng hổ thẹn, nhưng tên của cô thật sự làm cho trái tim cháu có chút rung cảm. Như nhà cháu đã nói, đó là một loại bệnh tật. Nhà cháu đã quá phận vì không thể kiểm soát nổi mình. Nhà cháu biết thế là sai, nhưng vẫn cứ làm. Nhà cháu thật tình xin lỗi sâu sắc về tất cả những vấn đề nhà cháu gây ra cho cô. “

“Con khỉ này trốn trong hầm cống ở Shinagawa,” chị Sakaki nói, “thế nên tôi đã yêu cầu chồng tôi và mấy cậu đệ tử đi vây bắt nó. Thành công tốt đẹp hết sức, vì anh ấy là trưởng bộ phận Công trình Công cộng và họ phụ trách hệ thống cống rãnh. “

Anh Sakaki nói thêm: “Chú em Sakurada đây đã làm hầu hết mọi việc đấy chứ.”

“Đội Công trình công cộng phải nhổm dậy để ý khi thấy một nhân vật đáng ngờ như thế này đang trốn trong cống của chúng ta.”, Sakurada nói giọng đầy tự hào. “Dường như con khỉ này đã có một nơi ẩn náu bên dưới Takanawa – nơi nó sử dụng như một trụ sở cho các hoạt động tìm kiếm trên khắp Tokyo.”

“Không có chỗ cho chúng cháu sống trong thành phố,” con khỉ nói. “Không còn nhiều cây xanh, ít nơi râm mát vào ban ngày. Nếu chúng cháu đi trên mặt đất, mọi người sẽ vây chúng cháu lại và cố bắt lấy bọn cháu. Bọn con nít ném đồ đạc vào người bọn cháu hoặc bắn bọn cháu bằng những cây súng bắn bi. Những con chó to rộ lên xông vào cắn xé bọn cháu. Nếu bọn cháu nghỉ mệt trên cây, các nhân viên ở đài truyền hình sẽ lại ùa đến và chiếu đèn vào bọn cháu. Bọn cháu không bao giờ được nghỉ ngơi dù chỉ giây lát, vì vậy bọn cháu phải ẩn nấp dưới lòng đất. Xin hãy tha thứ cho chúng cháu. “

“Nhưng làm thế nào mà chị biết con khỉ này đã trốn trong ống cống?” Mizuki hỏi chị Sakaki.

“Như chúng mình đã trò chuyện trong vòng hai tháng qua, nhiều điều dần trở nên sáng tỏ với tôi, giống như gạt bỏ được lớp sương mù,” chị Sakaki nói. “Tôi nhận ra hẳn phải có kẻ nào đã trộm mất tên em, và đã có thứ gì đó được cất giấu dưới lòng đất ở quanh đây. Nếu như em đã hỏi về lòng ngầm dưới thành phố này,thì trong giới hạn các khả năng – nơi nó có thể ẩn nấp một là bến tàu điện ngầm, hai là hệ thống ống cống.Vậy nên tôi đã kể với ông xã rằng tôi nghĩ là có một số loài sinh vật nào đó không phải là con người, đang sống trong các ống cống và nhờ ông ấy để mắt đến. Thế cũng vừa hay, họ tìm ra được luôn con khỉ này.”

Mizuki cạn lời trong một lúc lâu. “Nhưng mà… Làm sao để chị nghĩ thế khi chỉ nghe lời kể của em?”

“Có lẽ tôi không nên nói những điều này với tư cách là chồng bà ấy”, anh Sakaki nói với một vẻ mặt nghiêm túc, “nhưng vợ tôi là một người đặc biệt, có năng lực dị thường. Trong suốt hai mươi hai năm chung sống cùng bà ấy, tôi đã chứng kiện nhiều sự kiện lạ xảy ra. Thế nên tôi đã cày cật lực để phụ bà ấy mở trung tâm tư vấn này trong văn phòng phường. Tôi thừa hiểu miễn là bà ấy có được một nơi để vận dụng tốt sức mạnh của mình, thì các cư dân của Shinagawa sẽ được hưởng phúc lợi nhiều nhất. Nhưng mà tôi rất mừng vì chúng ta đã bóc được màn bí mật. Phải thừa nhận là tôi đã thở phào nhẹ nhõm đấy. “

“Các anh tính làm gì với con khỉ?” Mizuki hỏi.

“Không thể để cho nó sống,” Sakurada bất chợt phát biểu. “Cho dù nó có bẻm mép viện ra đủ thứ lý do lý trấu gì với cô, một khi nó đã làm được mấy trò con bò này một lần thì vẫn có thể sẽ giở trò thêm nhiều lần nữa, cô không đếm xuể đâu. Cho nó thăng thiên luôn. Thế là ngon nhất. Rồi phơ cho nó một quả chất khử trùng là gọn gàng như lên sàn.”

“Gượm đã, bây giờ,” anh Sakaki nói. “Cho dù chúng ta có bất cứ lý lẽ gì, nhưng nếu có những nhóm hội bảo vệ động vật phát hiện ra chúng ta đã sát sinh một con khỉ, người ta sẽ làm ầm ĩ to chuyện lên và rồi chú có cày hộc cơm ra cũng không đủ mà đền đâu. Chú có nhớ khi ta khử bớt lũ quạ, mùi hôi thối bốc lên không ai chịu nổi không? Tôi muốn tránh lặp lại chuyện đó. “

“Nhà cháu cầu xin mọi người, xin đừng giết nhà cháu,” con khỉ bị trói gô nài nỉ, cúi đầu càng sâu hơn. “Những gì nhà cháu đã làm là sai. Nhà cháu hiểu được điều đó chứ. Nhà cháu đã gây ra cho con người rất nhiều rắc rối. Nhà cháu không cố gắng để tranh cãi với mọi người, nhưng cũng có những ưu điểm xuất phát từ hành động của nhà cháu mà. “

“Điều gì có thể là ưu điểm trong chuyện đi chôm chỉa tên người khác chứ? Giải thích coi”, anh Sakaki nói gay gắt.

“Nhà cháu đã đi trộm tên của người khác, không nghi ngờ gì về điều đó nữa. Tuy nhiên khi làm chuyện đó, nhà cháu cũng có thể xóa bỏ được vài yếu tố tiêu cực với cái tên ấy. Nhà cháu không có ý khoe khoang, nhưng nếu quay lại lúc ấy mà có thể trộm được tên của Yuko Matsunaka, thì nàng có lẽ đã không tự tước đi mạng sống của chính mình rồi.”

“Tại sao khỉ lại nói thế?” Mizuki hỏi.

“Nếu nhà cháu thành công trong việc trộm mất tên nàng, thì nhà cháu có thể lấy đi được những mảng hắc ám bị ẩn giấu bên trong nàng,” con khỉ nói. “Mang bóng tối của nàng đi xa, cùng với cái tên đẹp đẽ của nàng trở lại thế giới ẩn sâu dưới lòng đất ấy.”

“Nghe tiện nhỉ. Tao không tin đâu” Sakurada nói. “Mạng sống con khỉ này đang ngàn cân treo sợi tóc, nên đương nhiên nó sẽ dùng bất cứ mánh khóe nào để bào chữa cho hành động của nó thôi.”

“Hình như không phải thế đâu” chị Sakaki nói, khoanh tay lại, sau khi đã suy nghĩ về những lời khỉ nói. “Sau rốt nó vẫn có thể có ưu điểm mà.” Chị quay sang con khỉ. “Khi chú mày ăn trộm tên người ta thì chú mày phải lấy đi cả cái tốt lẫn cái xấu phải không?”

“Vâng, đúng vậy,” con khỉ nói. “Nhà cháu không có sự lựa chọn. Nếu trong họ tồn tại những điều xấu ác, thì nhà khỉ cũng phải chấp nhận nó thôi. Nhà khỉ bao trọn gói mọi khởi thủy của cái tên mà. Nhà cháu xin mọi người – đừng giết nhà cháu, nhà cháu là một con khỉ với thứ thói hư tật xấu, nhà cháu biết thế, nhưng nhà cháu vẫn có thể giúp đỡ có ích cho mọi người mà.”

“Ừm, vậy những điều tiêu cực gì đã bị đưa vào tên tôi?” Mizuki hỏi con khỉ.

“Nhà cháu không muốn nói trước mặt cô,” con khỉ nói.

“Xin khỉ hãy cho tôi biết đi” Mizuki khẳng định. “Nếu khỉ nói cho tôi biết, tôi sẽ tha thứ cho khỉ. Và tôi cũng sẽ xin những người có mặt ở đây tha cho khỉ hết.”

“Ý cô là thế nào ạ?”

“Nếu con khỉ này kể cho tôi biết sự thật, anh sẽ tha cho nó chứ?” Mizuki hỏi anh Sakaki. “Bản chất của nó không xấu. Nó đã phải chịu đựng rất nhiều rồi, nên mình hãy nghe nó giải thích rồi có thể đem nó lên núi Takao hay chỗ nào đó thả về cũng được. Nếu anh làm thế, tôi nghĩ là nó sẽ không làm phiền ai nữa đâu. Anh nghĩ sao?”

Anh Sakaki nói: “Tôi không phản đối miễn là cô thấy được”. Anh quay sang hỏi con khỉ. “Sao nào? Chú mày có thề nếu chúng tao thả chú mày ở vùng núi, thì mày sẽ không trở lại Tokyo nữa không? “

“Vâng thưa ngài. Nhà cháu thề nhà cháu sẽ không dám quay trở lại,” con khỉ hứa, với một cái nhìn hiền lành trên khuôn mặt mình. “Nhà cháu sẽ không bao giờ làm phiền mọi người nữa. Không bao giờ lại đi lang thang quanh cống. Nhà cháu không còn nhỏ nữa, vì vậy đây sẽ là cơ hội tốt cho một khởi đầu mới trong cuộc đời.”

“Để bảo đảm, sao ta không ịn dấu lên đít nó để có thể nhận ra nó lần nữa,” Sakurada nói. “Em nhớ chúng ta có một cái que hàn ở đây, có khắc biểu tượng trong con dấu chính thức của phường Shinagawa mà nhỉ.”

“Làm ơn đi mà, anh giai ơi, đừng làm thế!” Con khỉ nài nỉ, mắt ngước lên. “Nếu anh đánh dấu một biểu tượng kỳ lạ trên mông của nhà cháu thì những con khỉ khác sẽ không bao giờ để nhà cháu nhập đàn cùng họ. Nhà cháu sẽ cho mọi người biết tất cả mọi thứ mọi người muốn biết, nhưng xin đừng làm đau nhà cháu! “

“À, chúng ta hãy quên cái que hàn ịn tên ấy đi,” anh Sakaki nói, cố gắng xoa dịu mọi thứ. “Nếu chúng ta sử dụng con dấu chính thức của Shinagawa, chúng ta phải chịu trách nhiệm về nó sau này đấy.”

“Em e rằng bác nói đúng,” Sakurada nói, tràn ngập thất vọng.

“Được rồi, tại sao khỉ không muốn nói cho tôi biết những điều tà ác đã dính vào tên của tôi?” Mizuki nói, nhìn chăm chú vào đôi mắt đỏ nhỏ của con khỉ.

“Nếu nhà cháu nói với cô điều đó, nó có thể làm tổn thương cô.”

“Tôi không quan tâm đâu. Khỉ cứ nói đi. “

Trong một lúc lâu, con khỉ vẫn nghĩ ngợi về điều này, những nếp nhăn hằn sâu lên trán. “Nhà cháu vẫn nghĩ tốt hơn là cô không nghe thấy chuyện này.”

“Tôi đã nói với khỉ rồi. Tôi thực sự muốn biết.”

“Thôi được,” con khỉ nói. “Vậy nhà cháu sẽ kể cho cô nghe. Mẹ của cô không yêu thương gì cô cả. Bà ấy không bao giờ thương cô, thậm chỉ dù chỉ một lần, từ khi cô còn bé. Nhà cháu cũng không biết tại sao, nhưng đó là sự thật. Chị gái của cô cũng vậy. Cô ấy không thích cô. Mẹ cô đã đưa cô đi học ở Yokohama bởi vì bà ấy muốn thoát khỏi cô mà thôi. Mẹ và chị cô muốn đuổi mặt cô đi càng xa càng tốt. Cha của cô không phải là người xấu, nhưng ông ấy nhu nhược, và ông không thể bênh vực gì cho cô cả. Vì những lý do này, kể từ khi cô còn bé, cô chưa bao giờ nhận được đủ đầy tình yêu thương. Nhà cháu cho rằng cô thừa biết vụ này, nhưng cô đã cố tình mắt lấp tai ngơ với nó, chôn thứ thực tế đau đớn ấy ở một nơi tối tăm nhỏ bé sâu tận trong trái tim cô và đóng nắp lại, rồi cố gắng không nghĩ về nó nữa. Cố gắng để đè nén bất kỳ cảm xúc tiêu cực nào. Tư tưởng phòng thủ ấy đã trở thành một phần của bản thân cô. Bởi vì tất cả những điều này, cô không bao giờ có thể yêu thương một ai sâu sắc và vô điều kiện hết.”

Mizuki im lặng.

“Cuộc sống hôn nhân của cô có vẻ rất êm ấm và không có vấn đề gì. Dường như là thế. Nhưng cô không thực sự yêu chồng mình. Nhà cháu nói có phải không? Ngay cả khi cô đã có con, nếu mọi thứ không thay đổi, thì nó vẫn sẽ chỉ giống thế thôi. “

Mizuki không nói gì. Cô ngồi bệt xuống sàn nhà và nhắm mắt lại. Toàn bộ cơ thể cô cảm giác như mọi chuyện đã sáng tỏ. Da cô, nội tại cô, từng đốt xương một đều cảm giác như từng mảnh sắp rơi xuống. Tất cả những gì cô nghe thấy đều chỉ là tiếng hít thở của chính cô.

“Cũng khá khen thay trò khoa môi múa mép của mày,” Sakurada nói, lắc đầu. “Đội trưởng, em không thể chịu được nữa. Mình tẩm quất nó luôn đi!”

“Thôi đừng,” Mizuki nói. “Những lời chú khỉ này nói đều đúng cả. Tôi đã biết điều đó trong một thời gian dài, nhưng tôi vẫn luôn cố tránh né. Vẫn cứ luôn tai ngơ mắt lấp, vờ như không biết. Chú khỉ này đã nói thật, vậy xin mọi người hãy tha thứ cho nó. Chỉ cần đưa nó lên núi và thả nó đi thôi. “

Chị Sakaki nhẹ nhàng đặt một tay lên vai Mizuki. “Cô em có chắc là em ổn với điều đó chứ?”

“Em không quan tâm nữa, miễn là em có lại được tên của mình. Kể từ bây giờ em sẽ sống với những gì diễn ra xung quanh nó. Đó là tên của em, và đó cũng là cuộc sống của em. “

Chị Sakaki quay sang chồng. “Mình ơi, cuối tuần sau sao hai vợ chồng mình không lái xe đến núi Takao và thả chú em lông lá này đi. Ý mình thế nào?”

“Anh không có vấn đề gì với chuyện ấy cả” anh Sakaki nói. “Chúng mình vừa mua một con xe ô tô mới và nó sẽ tạo thành một cuộc thử nghiệm nhỏ thú vị đây.”

“Nhà cháu biết ơn lắm. Nhà cháu không biết phải làm thế nào để cảm ơn cô, “con khỉ xúc động.

“Chú mày không bị xỉn xe ô tô, phỏng khỉ?” Chị Sakaki hỏi con khỉ.

“Không ạ, nhà cháu sẽ ô kê thôi,” con khỉ đáp. “Nhà cháu hứa là sẽ tuyệt đối không ói ọe hay tè dầm lên ghế của con xe mới nhà hai bác đâu ạ. Nhà cháu sẽ tự điều chỉnh mình. Không thành cục nợ phiền hà gì cho hai bác đâu. “

8

Khi Mizuki nói lời tạm biệt với con khỉ, cô đưa cho nó thẻ tên của Yuko Matsunaka.

“Khỉ nên có nó, chứ không phải tôi,” cô nói. “Khỉ thích Yuko mà, phải không?”

“Vâng, nhiều lắm thưa cô. Nhà cháu thực sự yêu mến nàng. “

“Nhớ giữ gìn cái tên của bạn ấy cẩn thận nhé. Và đừng đi chôm chỉa tên người nào nữa. “

“Nhà cháu sẽ chăm nó thật kỹ. Nhà cháu cũng sẽ không bao giờ ăn trộm tên nữa, nhà cháu xin hứa đấy, “con khỉ nói, với một cái nhìn nghiêm túc trên mặt.

“Nhưng tại sao Yuko lại đưa cái thẻ này cho tôi ngay trước khi bạn ấy qua đời? Tại sao bạn ấy lại chọn tôi? “

“Nhà cháu cũng không biết câu trả lời,” con khỉ nói. “Nhưng nhờ nàng ấy làm như thế, mà ít nhất cô và nhà cháu đã có thể gặp gặp và trải lòng với nhau. Cháu đồ rằng đó là một cơ duyên run rủi.”

“Khỉ nói đúng đấy,” Mizuki nói.

“Những gì nhà cháu nói có làm cô đau lòng không ạ?”

“Có,” Mizuki nói. “Đau rất nhiều.”

“Nhà cháu rất xin lỗi. Nhà cháu thật sự không muốn nói với cô. “

“Không sao đâu. Tận sâu thẳm trong lòng, tôi nghĩ tôi đã biết tất cả những chuyện này rồi. Đó là điều tôi phải đối mặt – vào một ngày nào đó. “

“Nhà cháu cảm thấy nhẹ nhõm khi nghe thấy điều đó,” con khỉ nói.

“Tạm biệt,” Mizuki nói. “Tôi không tưởng tượng được rằng chúng mình sẽ lại gặp nhau nữa đâu.”

“Cô hãy bảo trọng nhé,” con khỉ nói. “Và tạ ơn cô vì đã cứu mạng của những đứa khỉ như nhà cháu.”

“Tốt hơn hết là mày đừng có chường mặt ra quanh cái khu Shinagawa này nữa,” Sakurada cảnh báo, đập đập chiếc dùi cui vào lòng bàn tay. “Lần này tao còn tha cho mày vì đội trưởng đã đứng ra nói như vậy, nhưng mà nếu phải tay tao còn bắt được mày lần nữa, thì mày sẽ không sống sót thoát khỏi nơi này đâu nhé con.”

Con khỉ biết đây không phải là lời đe dọa suông.

“À, vậy chúng ta nên làm gì trong tuần tới?” Chị Sakaki hỏi sau khi họ trở lại trung tâm tư vấn. “Cô em có còn điều gì muốn trao đổi với tôi chứ?”

Mizuki lắc đầu. “Không ạ. Cảm ơn chị, em nghĩ vấn đề của em đã được giải quyết. Em thực rất biết ơn tất cả mọi thứ chị đã làm cho em. “

“Em không muốn bàn về những điều mà con khỉ nói với em ư?”

“Không ạ, tự em có thể tự giải quyết. Đó là chuyện em phải suy nghĩ một mình trong một thời gian. “

Chị Sakaki gật đầu. “Em có thể xử lý được chuyện đó. Nếu em đã để tâm đến nó, tôi biết em có thể trưởng thành mạnh mẽ hơn. “

“Nhưng nếu em không làm được, liệu em có thể đến gặp chị không?” Mizuki hỏi.

“Dĩ nhiên rồi!” Chị Sakaki nói. Khuôn mặt đôn hậu của chị nở một nụ cười rạng rỡ. “Chúng ta có thể bắt được một cái gì khác với nhau.”

Họ bắt tay nhau và nói lời tạm biệt.

Sau khi trở về nhà, Mizuki lấy chiếc thẻ tên “Mizuki Ozawa” và vòng tay có khắc chữ Mizuki (Ando) Ozawa, khẽ cho chúng vào một bao thư doanh nghiệp màu nâu giản dị, rồi đặt nó vào trong hộp bìa cứng đựng trong tủ quần áo của cô. Cuối cùng, cô cũng đã có lại được tên mình, và có thể quay về với cuộc sống bình thường. Mọi chuyện sau này có thể xảy ra thêm lần nữa. Và cũng thể không. Nhưng ít ra cô cũng đã có được tên riêng của mình, một cái tên thuộc về cô, và chỉ riêng mình cô thôi.

Hết.

Truyện ngắn Con khỉ Shinagawa (Shinagawa saru) được in trong tuyển tập truyện ngắn Hợp tuyển bí ẩn Tokyo (Tokyo Kitanshu) phát hành năm 2005.

Nguyễn Thảo Trang
dịch từ bản tiếng Anh của Phillip Gabriel

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Sáng tác

Truyện ngắn | Đành Tâm Chối Bỏ – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

ĐÀNH TÂM CHỐI BỎ

Dazai Osamu

Khi đó, hai người đã bàn bạc với nhau.

“Được rồi. Chúng ta sẽ hoàn thành chuyện này nào. Ngay từ đầu em đã quyết ý rồi. Thật đấy anh ạ”, Kazue thì thầm bằng giọng khác lạ.

“Không thể được. Chuyện em quyết ý thì anh hiểu. Anh không phải là định chết một mình mà nghĩ đến chuyện là tự buông xuôi một mình bản thân anh thôi. Em còn có cả cha mẹ và em trai nữa. Anh biết là em còn để tâm đến chuyện đó nên không thể chấp nhận được đâu”, vừa phân trần những lý lẽ thiệt hơn như thế, Kashichi vừa quyết ý chết.

“Nếu anh định chết thì chúng ta sẽ cùng chết. Chắc thần linh sẽ tha thứ cho chúng ta thôi”.

Rồi hai người bắt đầu nghiêm túc chuẩn bị.

Một người vợ yêu tha thiết một con người sai trái với một người chồng hủy hoại cuộc sống hàng ngày của mình đến mức đẩy người vợ mình vào hành động như thế cả hai đều gắn kết với nhau trong ý định tìm đến cái chết. Đó là một ngày chớm xuân. Tiền sinh hoạt phí tháng này còn khoảng mười bốn, mười lăm yên. Hai người lén mang đi theo. Ngoài ra, tất cả những bộ quần áo mặc đắp đổi của hai người chỉ là một manh áo dotera của Kashichi, một bộ awase của Kazue, hai cái đai lưng. Tất chỉ còn có thế. Kazue gói tất cả vào chiếc khăn kuroshiki, cắp nách mang rồi hai vợ chồng cùng sánh vai nhau đi ra ngoài, một điều thật hiếm thấy. Người chồng không có áo măng tô. Thay vào đó, anh mặc một chiếc kimono vải vùng Kurume, đội chiếc mũ lưỡi trai, quàng chiếc khăn lụa màu xanh nước biển tồi tàn, chỉ có đôi guốc gỗ geta là còn trắng tinh như mới. Người vợ cũng không có áo khoác. Cả áo choàng haori và kimono đều dệt bằng vải meisen hoa văn mũi tên, chiếc khăn choàng đỏ nhạt hàng ngoại quốc khoác phía nửa nửa thân người trên không cân xứng. Hai người tạm chia tay nhau ngay gần chỗ tiệm cầm đồ.

Vào buổi trưa nơi nhà ga Ogikubo, dòng người ra vào tấp nập. Kashichi lặng lẽ đứng đợi trước nhà ga, châm một điếu thuốc. Kazue đảo mắt tìm kiếm anh và khi nhận ra hình dáng của Kashichi, nàng chạy bổ đến như thể gần như vấp ngã.

“Thành công, thành công lớn rồi”, nàng nói như reo lên. “Người ta cho em mượn đến mười lăm yên đấy, ngu ngốc quá nhỉ”.

Người đàn bà này không thể chết được. Mình không thể để cho nàng chết. Nàng có bị đời vùi dập tàn nhẫn như mình đâu chứ. Nàng vẫn còn sức để mà sống còn cơ mà. Đây đâu phải là một người chết. Chỉ việc lên kế hoạch tự sát chắc chắn đã là lời tạ lỗi dành đến thế gian rồi. Chỉ vậy thôi là đủ. Chắc chắn nàng sẽ được tha thứ thôi. Vậy là đủ rồi. Còn mình sẽ chết một mình.

“Em khéo xoay xở thật đấy”, Kashichi mỉm cười khen ngợi. Anh muốn vỗ nhẹ lên vai nàng.

“Vậy tất cả là mình có chừng ba mươi yên. Mình có thể đi du lịch đây đó một chút đấy anh”.

Hai người mua vé tàu đến Shinjuku. Xuống ga Shinjuku, hai người đi đến hiệu thuốc. Họ mua một hộp thuốc ngủ loại lớn rồi lại đi đến một tiệm khác mua thêm một hộp nữa. Vì Kazue đứng đợi bên ngoài, chỉ có mình Kashichi bước vào mỉm cười hỏi mua nên người bán thuốc không nghi ngờ gì cả. Cuối cùng hai người vào cửa hàng Mitsukoshi, đến quầy dược phẩm. Vì khách hàng qua lại đông đúc nên hai người có chút can đảm mà mua thêm hai hộp thuốc ngủ nữa. Nữ nhân viên thu ngân khuôn mặt nhỏ thó đầy nghiêm túc, liếc đôi mắt đen nhìn anh có vẻ hồ nghi, nếp nhăn hiện rõ nơi ấn đường. Khuôn mặt của cô ta tỏ vẻ khó chịu. Kashichi cũng cảm thấy hoảng loạn. Anh không thể nặn ra được một nụ cười mỉm gượng gạo nào. Hộp thuốc lạnh lùng được giao ra. Phía sau chúng ta người ta đang kiễng chân lên mà nhìn đấy. Kashichi biết vậy nên cố tình nép sát vào Kazue, đi xuyên qua dòng người. Mặc dù hai người điềm tĩnh bước đi nhưng người ngoài nhìn vào sẽ thấy một vẻ gì đó dị dạng. Kashichi cảm thấy buồn bã vô cùng. Sau đó, cũng tại Mitsukoshi, Kazue mua một đôi tất trắng, Kashiochi cũng mua thêm một gói thuốc lá ngoại thượng hạng rồi mới rời đi. Hai người đón taxi đi đến Asakusa. Hai người vào rạp chiếu phim, xem bộ phim “Trăng mọc trên hoang thành” đang công chiếu. Mở đầu phim là hình ảnh hàng rào và mái trường tiểu học ở một vùng quê và tiếng ngân nga của trẻ nhỏ. Điều đó làm Kashichi rơi nước mắt.

“Nghe nói các đôi tình nhân”, Kashichi nói với vợ mình trong bóng tối rạp chiếu. “Họ vừa xem phim vừa nắm tay nhau như thế này đấy”. Nói rồi Kashichi ngại ngùng dùng cánh tay phải của mình giấu dưới cái mũ lưỡi trai tìm đến tay trái của Kazue, thử nắm chặt lấy bàn tay nhỏ bé xem sao nhưng giữa hai vợ chồng đang ở trong tình thế khổ sở nên Kashichi cảm thấy mình chẳng sạch sẽ gì và sợ hãi nữa nên lặng lẽ buông tay ra. Kazue cười khúc khích. Nhưng không phải nàng cười vì trò đùa vụng về của Kashichi mà cười vì một động tác gây hài chán ngắt trên bộ phim đó.

Đây đúng là người phụ nữ tuyệt vời, hiền thục mà chỉ việc xem phim cũng khiến nàng trở nên hạnh phúc. Mình không thể giết một người như thế này được. Thật sai lầm khi để cho nàng phải chết.

“Mình sẽ chết đấy. Em thấy vậy được không?”

“Được mà anh”, Kazue vừa chăm chú xem phim vừa trả lời anh.

“Bởi vì anh muốn chết một mình thôi mà”.

Kashichi chợt cảm thấy cơ thể người phụ nữ thật là kỳ diệu. Khi hai người rời khỏi rạp chiếu phim thì trời đã tối. Kazue nói nàng muốn ăn sushi. Kashichi không thích sushi lắm vì có mùi tanh. Hơn nữa đêm nay anh muốn ăn thứ gì đó cao cấp hơn chút.

“Thôi anh không thích sushi đâu”.

“Nhưng em muốn ăn mà”.

Chính Kashichi đã dạy cho Kazue cái tính ích kỷ như thế, đã minh họa cho nàng cái cách uy hiếp giả vờ bằng khuôn mặt ngoan hiền nhu thuận đó.

Tất cả hành vi rồi sẽ quay trở lại mình thôi.

Tại tiệm sushi, hai người có uống chút rượu. Kashichi gọi món hàu chiên. Anh tự nhủ thầm với mình rằng đây là bữa ăn cuối cùng ở Tokyo rồi mỉm cười gượng gạo. Kazue ăn sushi cá ngừ.

“Có ngon không em?”

“Dở lắm anh”, nàng còn phồng má lên mà nhấn mạnh “dở thật đấy”.

Cả hai người không nói chuyện gì nhiều.

Rời khỏi quán sushi, hai người đến rạp biểu diễn hài kịch manzai. Rạp đông không có chỗ ngồi. Ngay cửa rạp người đứng lố nhố nhưng hai người vẫn cố gắng chen vào đứng xem, thỉnh thoảng lại còn phá ra cười nữa. Khán giả quá đông chen chúc nên Kazue dần bị kéo xa khỏi Kashichi đến gần mười mét. Kazue dáng người thấp bé nên nàng phải cố rướn người nhìn lên sân khấu qua vai người khác trông khổ sở vô cùng. Nhìn nàng như một thiếu nữ nhà quê vậy. Giữa vòng vây khán giả, Kashichi chốc chốc lại rướn người lên dõi theo bóng dáng của Kazue. Anh dõi nhìn nàng còn nhiều hơn nhìn lên sân khấu. Kazue ôm chặt cái túi được bọc bằng khăn furoshiki màu đen trước ngực, trong đó có cất mấy hộp thuốc ngủ nhưng vẫn xoay đầu bên này bên kia để nhìn lên sân khấu xem nghệ sĩ biểu diễn. Thỉnh thoảng nàng quay lại tìm bóng dáng của Kashichi. Thỉnh thoảng hai mắt chạm nhau nhưng hai người đều không cười. Kashichi làm ra vẻ mặt bình thản nhưng trong lòng anh lại rất yên tâm.

Nàng chăm sóc mình biết bao nhiêu. Không được quên điều đó. Tất cả trách nhiệm mình sẽ gánh vác. Nếu thế gian chỉ trích nàng, mình phải ra sức bảo vệ bằng mọi giá. Nàng là một người tốt. Điều đó thì mình biết. Và mình tin.

Chuyện sắp tới thì sao? Không được, không thể được. Mình đâu thể mỉm cười cho qua. Chỉ riêng chuyện này là mình không thể bình tĩnh nổi. Không thể nào chịu nổi nữa.

Hãy tha thứ cho tôi. Đây là chủ nghĩa vị kỷ cuối cùng của tôi đấy. Lý luận tôi có thể chịu đựng được. Thế nhưng cảm giác thì không thể nào chịu đựng nổi. Tôi không thể gắng gượng thêm được nữa rồi.

Làn sóng cười đùa lan rộng trong rạp hài kịch. Kashichi nháy mắt với Kazue rồi hai người cùng bước ra ngoài.

“Mình đi Minakami em nhé?”

Trước đó, vào mùa hè năm ngoái hai người đã cùng đi nghỉ ở một lữ quán suối nước nóng tên là Tanigawa Onsen sâu trong núi, cách ga Minakami khoảng một giờ đi bộ.

Tuy là một mùa hè khổ sở thật đấy nhưng mà cũng vì quá khổ sở mà giờ đây nó lại trở thành một kỷ niệm đẹp đẽ ngọt ngào như tấm bưu thiếp đậm đà màu sắc. Núi sông trong cơn mưa rào trắng xóa thật là buồn đến chết người.

Nghe đến Minakami, tinh thần Kazue chợt phấn chấn hẳn lên.

“Nếu vậy em phải mua hạt dẻ ngào đường mới được, bà chủ cứ nói thèm ăn mãi thôi”.

Kazue cũng hay làm nũng với bà chủ lữ quán và bà chủ cũng có vẻ mến nàng nữa. Lữ quán như một dãy trọ nghiệp dư, chỉ có mỗi ba phòng, không có bồn tắm riêng trong nhà. Hai người phải đi đến cái lữ quán lớn bên cạnh còn không thì phải ngâm mình nơi bãi tắm lộ thiên nhỏ ven bờ sông xa mãi tít phía dưới Tanigawa mà ngày mưa thì phải mang dù còn đêm thì phải mang theo đèn lồng hay nến thắp nữa. Hai vợ chồng già chủ lữ quán hình như không có con cái gì và tuy chỉ có ba phòng cho thuê nhưng đôi khi khách cũng đến đông. Những lúc như thế vợ chồng chủ quán tất bật và Kazue có xuống giúp đỡ việc bếp núc hay gây phiền hà gì cho họ nữa không biết. Món ăn thì có thêm đậu nành lên men natto cá hồi nữa, nhà trọ bình thường làm gì có món này. Kashichi cảm thấy vô cùng thoải mái khi ở đây. Bà chủ lữ quán bị những cơn đau răng hành hạ, Kashichi nhìn thấy vậy không nỡ mới tặng bà vài viên aspirin. Phương pháp này hiệu quả vô cùng, bà chủ uống xong cứ thế mà lăn ra ngủ khiến ông chủ vốn hay cưng chiều bà vợ cứ đi loanh quanh với vẻ mặt lo lắng. Kazue thấy cảnh đó thì phá lên cười. Một lần Kashichi đang gục đầu đi dạo nơi bãi cỏ gần đó bất chợt nhìn qua chỗ hành lang lữ quán thì thấy vị phu nhân già đó đang ngồi lặng lẽ nơi góc tối dưới cầu thang hành lang nhìn anh thẫn thờ. Điều đó đã trở thành bí mật quý giá của Kashichi. Tuy nói là bà chủ quán nhưng bà cũng chỉ tầm bốn mươi bốn, bốn mươi lăm tuổi, có khuôn mặt phúc hậu quý phái, tính tình điềm đạm dịu dàng. Ông chủ thì cứ như đứa con nuôi của bà chủ vậy. Kazue tìm mua hạt dẻ ngào đường. Kashichi nói nàng mua nhiều nhiều một chút.

Khi đến ga Ueno, hai người đã bắt đầu ngửi thấy mùi quê hương xa cách. Kashichi lúc nào cũng lo sợ không biết có người nào cùng quê nhìn thấy mình không? Đặc biệt tối hôm đó những người bán hàng và nữ phục vụ dáng vẻ hớn hở cứ như đang lang thang trong ngày nghỉ vậy khiến anh càng phải để ý hơn. Tại cửa hàng, Kazue đã mua một ấn bản đặc biệt của truyện trinh thám hiện đại Nhật Bản còn Kashichi thì mua một chai whisky nhỏ. Hai người lên chuyến tàu lửa khởi hành đi Niigata lúc mười giờ rưỡi.

Sau khi an định chỗ ngồi đối diện nhau, hai người mới khẽ mỉm cười.

“Anh này, anh thấy điệu bộ em như vậy bà chủ sẽ lấy làm lạ hay không?”

“Không sao cả đâu. Em cứ nói là chúng ta đến Asakusa xem phim rồi trên đường về chồng tôi say túy lúy cứ nằng nặc đòi đến thăm bà chủ lữ quán ở Minakami nên bất đắc dĩ tôi cứ thế đưa anh ấy đây vậy. Em chỉ cần nói thế là ổn thỏa thôi”.

“Đúng vậy nhỉ”, Kazute đồng tình. Rồi nàng lại nói tiếp.

“Bà chủ mà thấy mình đến chắc sẽ ngạc nhiên lắm đây”, dáng vẻ của nàng đúng là tàu lửa chưa khởi hành thì không sao yên tâm được.

“Chắc bà ấy sẽ vui lắm đấy”, tàu bắt đầu chạy. Kazue làm vẻ mặt điềm nhiên liếc nhìn chỗ sân ga đợi tàu như thể mọi chuyện đã xong xuôi. Với tâm thế đã sẵn sàng mọi chuyện, nàng mở cái gói hành lý quấn bằng khăn furoshiki trên đầu gối, lấy ra tạp chí truyện trinh thám và bắt đầu lật trang. Kashichi cảm thấy đôi chân mỏi nhừ, nhưng ngực thì cứ phập phồng không yên. Anh chậm rãi nhấp whisky với tâm trạng như thể mình đang uống thuốc vậy.

Nếu mình có tiền thì đâu phải để cho Kazue chết chứ. Nếu như người đàn ông của nàng mà tính tình dứt khoát hơn một chút thì mọi chuyện đã khác rồi. Anh không nỡ lòng nào mà nhìn. Sự tự sát của nàng đúng là vô nghĩa.

“Này em có nghĩ anh là một người tốt không?”, Kashichi đột nhiên hỏi. “Anh nghĩ chắc chỉ có mình anh là cố gắng trở thành một người tốt thôi nhỉ?”

Anh bất chợt nói lớn làm Kazue kinh ngạc hoảng sợ sau đó nàng cau mày tức giận. Kashichi lại mỉm cười yếu ớt.

“Nhưng mà”, anh cố tình hạ thấp giọng. “Em vẫn chưa đến mức bất hạnh như vậy. Căn bản em là một người phụ nữ bình thường không xấu cũng chẳng tốt. Bản chất của em vốn là một người phụ nữ bình thường mà. Nhưng anh thì khác. Anh vốn là một kẻ tệ hại lắm, còn dưới mức bình thường nữa kia?”

Con tàu đi qua Akabane, qua Omiya và cứ thế chạy miệt mài trong bóng tối. Có thể vì say rượu whisky và bị tốc độ của đoàn tàu thúc đẩy nên bất giác Kashichi trở nên hoạt bát hùng hồn.

“Bị đàn bà ghét bỏ nhưng không sao thoát khỏi họ, suốt ngày cứ lẽo đẽo quẩn quanh mãi, anh biết đó tệ hại lắm. Ngu ngốc nữa. Nhưng mà anh đâu phải là đứa trẻ ngoan. Anh ghét phải trở thành một đứa trẻ ngoan ngoãn lắm. Anh là người tốt, bị đàn bà lừa gạt nhưng không sao rũ bỏ được người ta còn bắt người ta chết chung nữa. Bạn bè văn nghệ của anh sẽ nói thật là thuần khiết, thế gian sẽ cười chê là một con người yếu đuối bạc nhược. Người ta chắc sẽ nói những lời đồng cảm tùy tiện như thế đấy. Nhưng anh thì thua cuộc trước nỗi đau khổ của mình nên phải chết. Chứ đâu phải chết vì em chút nào đâu. Chỗ tệ hại của anh nhiều không kể xiết. Anh quá dựa dẫm vào người khác, quá tin tưởng vào sức lực con người. Chuyện đó và nhiều thất bại đáng xấu hổ khác của anh, anh biết cả chứ. Dù gì đi nữa anh cũng muốn sống một cuộc đời bình thường như con người ta, và đã không ngừng cố gắng cho đến bây giờ đấy. Em có hiểu không? Đó là cọng rơm duy nhất anh cố bám víu vào. Anh luôn cố gắng hết sức như thể thêm một chút sức nặng nữa cọng rơm sẽ đứt gãy vậy. Em hiểu chứ? Anh không phải là kẻ yếu đuối bạc nhược. Chỉ là phải gánh vác nỗi sầu khổ quá nặng nề mà thôi. Đó là sự ngu si và lòng căm hận. Thế nhưng nếu nói điều đó ra mà không nói một cách rõ ràng thì người ta sẽ căm ghét. Ngay cả em người quá tin tưởng vào sự mạnh mẽ của cái mặt dày trơ trẽn này của anh cũng sẽ xem thường mà nói “người đàn ông này luôn miệng nói là khổ sở nhưng chỉ là làm bộ làm tịch, kiểu cách mà thôi”.

Kazue lầm bầm điều gì đó.

“Nhưng mà, không sao hết. Không phải là anh chỉ trích hay phê phán gì em cả. Em là người tốt, lúc nào cũng ngoan hiền. Em là người mà người ta nói sao thì tin vậy. Anh không hoàn toàn có ý chỉ trích gì đâu. Ngay cả đám bạn cũ của anh, có học vấn hơn em gấp nhiều lần mà còn chẳng hiểu được nỗi đau khổ của anh nữa. Họ còn chẳng tin vào tình yêu của anh nữa. Mà cũng đâu phải là vô lý. Tại anh tệ hại quá mà”.

Khi anh nói vậy và mỉm cười, trong thoáng chốc Kazue trở bên tự đắc.

“Em hiểu mà. Nhưng đủ rồi đó. Người ta nghe được thì kỳ cục lắm anh”.

“Chắc em không hiểu chút gì đâu. Có lẽ với em anh là kẻ vô cùng ngu ngốc. Có lẽ bây giờ trong góc nào đó khuất kín của tim anh, ý định cố gắng làm một người tốt vẫn còn ẩn nấp đâu đó. Chính vì thế mà anh mới khổ sở đây này. Anh đã sống chung với em sáu, bảy năm rồi nhưng em vẫn chưa một lần nào ghét bỏ cả. Không, anh không có ý chỉ trích gì em hết cả đâu. Điều này là đương nhiên thôi. Có phải là trách nhiệm của em đâu mà”.

Kazue không nghe gì hết. Nàng im lặng đọc tạp chí. Kashichi làm vẻ mặt nghiêm trọng, nhìn ra phía cửa sổ toa tàu tối đen, lẩm bẩm một mình như độc thoại.

“Không phải đùa đâu. Tại sao anh lại là người tốt như thế này chứ? Mọi người cứ chê bai anh đủ thứ, nào là nói dối, lười biếng, kiêu ngạo, xa xỉ, kẻ dụ dỗ đàn bà và nhiều tên gọi xấu xa đáng sợ nữa. Thế nhưng anh chỉ im lặng mà thôi. Không biện giải một lời nào cả. Anh cũng có niềm tin riêng của mình chứ. Có điều anh không thể nào nói ra được cả. Nếu vậy thì còn ra thể thống gì nữa chứ. Không, anh nghĩ đó chính là sứ mệnh lịch sử. Anh không thể sống với hạnh phúc của riêng mình thôi. Mình sẽ đóng một vai phản diện trong lịch sử. Tội ác của Giuda càng ghê gớm thế nào thì ánh sáng nhân từ của chúa Giêsu càng lớn lao chừng đó. Anh nghĩ mình là một loại người tự hủy diệt chính mình. Đó là thế giới quan của anh. Anh thử thực hiện một phản đề mạnh mẽ. Càng nhấn mạnh đến cái xấu của việc tự hủy thì cái bàn đạp của nguồn ánh sáng khỏe mạnh sinh ra từ đó càng bật trở lại dữ đội hơn. Anh tin như vậy và nguyện cầu cho điều đó. Còn bản thân anh thì sao cũng được cả. Anh nghĩ nếu vai trò của mình là phản lập pháp mà có thể đóng góp chút gì đó cho sự tươi sáng ngày mai thì anh chết đi cũng được. Thực sự chuyện này sẽ không ai cười chê đâu. Anh nghĩ vậy đấy. Anh ngu ngốc thật. Có lẽ anh đã sai ở chỗ nào rồi đây. Có lẽ anh có chút tự phụ ở chỗ nào đó đây. Có lẽ chính điều đó là một giấc mơ ngọt ngào. Cuộc sống đâu phải là một vở kịch chứ. Dù sao anh đã thua cuộc và gần chết rồi nên những lời nói riêng với em là hãy cố gắng lên thì đúng là sai lầm thật đấy. Ngay cả chó cũng còn không thèm ăn bữa tiệc từ mùi xú uế của xác anh khi vứt bỏ mạng sống của mình nữa. Có lẽ nó còn gây phiền hà cho người được cho nữa. Vì nếu không giúp ích gì cho sự phồn vinh của họ, thì điều đó có nghĩa gì đâu…”

Cửa sổ toa tàu chỉ im lặng, chắc chắn không có câu trả lời.

Kashichi đứng dậy, lảo đảo đi tìm nhà vệ sinh. Sau khi vào nhà vệ sinh, đóng cửa lại đàng hoàng, Kashichi do dự một chút rồi tập trung chắp hai tay lại. Dáng vẻ nguyện cầu. Không có chút làm bộ làm tịch nào cả.

Khi tàu đến ga Minakami thì đã là bốn giờ sáng. Trời vẫn còn tối. Lớp tuyết dày đáng lo ngại gần như đã tan hết, chỉ hai người còn lại trong bóng tối nhạt mờ nơi sân ga. Mặc dù nghĩ rằng với tình hình này mình có thể đi bộ đến suối nước nóng Tanigawa trong núi nhưng Kashichi vẫn thận trọng đánh thức người tài xế taxi đang ngủ phía trước nhà ga.

Chiếc xe lượn vòng theo hình dích zắc, chậm chạp bò lên trên núi. Tuyết bao phủ núi đồi ngập tràn đến mức nhuộm sáng cả bầu trời u tối.

“Trời lạnh thật đấy nhỉ. Tôi không ngờ lại lạnh như thế này. Ở Tokyo giờ này vẫn còn có người mặc áo vải serge mà đi dạo đấy chứ?”

Anh giải thích với người tài xế lúc chỉnh trang lại y phục của mình. “A, rẽ phải ngay chỗ đó nhé”.

Khi đến gần lữ quán, Kazue chợt trở nên hoạt bát. “Chắc giờ hai ông bà vẫn còn đang ngủ đấy chứ?”, rồi nàng nói tiếp với người tài xế. “Vâng, lên trước một chút nữa ạ”.

“Được rồi, dừng lại”, Kashichi nói. “Còn lại chúng ta đi bộ thôi”. Phía trước là con đường chật hẹp.

Rời khỏi xe taxi, Kashichi và Kazue cởi tất chân và cùng nhau đi bộ khoảng năm mươi mét đến chỗ lữ quán. Tuyết trên đường đang tan bám một lớp mỏng ướt át nguy hiểm vào đôi guốc hai người đang mang. Khi Kashichi định gõ cửa lữ quán, thì Kazue đang đi chậm phía sau anh một chút vội vàng chạy lên mà nói.

“Để em gõ cửa cho. Chính em đánh thức bà chủ dậy mới được”.

Vẻ mặt của nàng thật đúng như đứa trẻ đang muốn tranh công vậy.

Vợ chồng chủ lữ quán vô cùng kinh ngạc. Nói đúng hơn là họ hoảng hốt một cách thầm lặng.

Kashichi một mình xăm xăm lên tầng hai, vào căn phòng mà anh từng nghỉ lại mùa hè năm trước, với tay bật công tắc đèn. Anh nghe tiếng Kazue vọng đến.

“Tại vì chồng con cứ nhất quyết phải đến chỗ bà bằng được đấy mà. Nghệ sĩ đúng là trẻ con bà nhỉ?”

Kazue vui vẻ cười đùa như thể không để tâm đến lời nói đối đó. Nàng tiếp tục nói về chuyện ở Tokyo người ta đang mặc áo serge mà đi dạo ngoài đường.

Bà chủ lặng lẽ lên tầng hai, chậm chạp mở cánh cửa chớp rồi nói.

“Lâu rồi cậu mới đến nhỉ?”

Bên ngoài, trời đã sáng hơn mấy phần. Dãy núi trắng tinh gần như hiện ra ngay trước mắt. Khi Kashichi thử nhìn xuống thung lũng, anh có thể thấy lờ mờ một dòng sông đen đang chảy dưới lớp sương mù buổi sáng.

“Lạnh kinh người”, anh nói dối dù trời không lạnh đến mức như vậy. “Muốn uống rượu ghê”

“Cậu vẫn ổn cả chứ?”

“À, ổn lắm. Tôi mập ra đây này”.

Kazue tự mình mang lên một cái bàn sưởi kotatsu lớn.

“A nặng quá. Này bà ơi, con mượn cái bàn sưởi này của ông một chút nhé. Ông cũng nói con có thể mượn đấy. Lạnh ghê nơi”

Không nhìn về phía Kashichi, nàng cứ thế mà nói đùa chơi một mình theo cách rất kỳ khôi.

Nhưng khi chỉ còn lại hai người, nàng ngay lập tức trở nên nghiêm túc.

“Em mệt rồi. Giờ mình đi tắm rồi ngủ một giấc thôi anh”.

“Có lẽ mình xuống chỗ tắm lộ thiên phía dưới được đấy nhỉ?”

“Có lẽ được đấy anh. Ông chủ cũng nói ông xuống đó ngâm mình mỗi ngày mà”.

Ông chủ mang một đôi giày rơm lớn, tiếp tục giẫm lên lớp tuyết mới rơi hôm qua đã bị giẫm cứng tạo thành đường đi chỉ dẫn cho Kashichi và Kazue. Hai người theo sau xuống đến dòng sông dưới thung lũng trong ánh rạng đông. Hai người cởi kimono để trên tấm chiếu rơm do ông chủ mang đến rồi ngâm mình trong làn nước ấm. Thân hình Kazue thật đầy đặn tròn trịa. Thật không sao nghĩ được là tối hôm nay cơ thể đó sẽ trở thành vật chết.

Chờ cho ông chủ đi khỏi, Kashichi mới nói.

“Khu vực đó đấy nhỉ?”

Nói xong Kashichi hất cằm về phía dãy núi trắng với sương mù buổi sáng đang chậm chạp phủ vây.

“Nhưng tuyết dày quá. Không biết mình có leo lên được không anh?”

“Vậy thì mình đi xuống phía hạ lưu một chút. Phía ga Minakami tuyết không dày lắm đâu”.

Hai người cùng nhau thảo luận về nơi sẽ chết.

Khi trở về lữ quán, hai người đã thấy chăn mền trải sẵn. Ngay lập tức Kazue trườn vào và bắt đầu đọc tạp chí. Phía dưới chân nàng là một lò lửa lớn, có vẻ ấm áp vô cùng. Còn Kashichi cuộn tấm chăn của mình lại, ngồi khoanh chân trước bàn, sát với lò than và uống rượu. Mồi nhắm là cua đóng hộp và nấm đông cô sấy khô. Còn có cả táo nữa.

“Này, em có muốn ở thêm một đêm nữa không?”

“Vâng”, Kazue vừa đọc tạp chí vừa trả lời. “Em thì sao cũng được. Nhưng có vẻ mình không còn đủ tiền đấy anh”.

“Vậy mình còn khoảng bao nhiêu?”, Kashichi vừa hỏi vừa cảm thấy xấu hổ đỏ bừng mặt mũi.

Vẫn còn do dự. Đáng căm ghét. Điều cẩu thả nhất trên đời. Mình thật vô dụng. Mình vẫn còn chưa quyết ý như vậy phải chăng là vì vẫn còn quyến luyến ham muốn thân hình của người phụ nữ này chăng?

Kashichi khổ sở.

Mình còn ý muốn sống tiếp với người phụ nữ này nữa sao? Nhưng còn nợ nần, số tiền vay mượn bất chấp đạo lý thì sao? Thanh danh nhơ nhuốc, tiếng xấu nửa dại nửa điên thì phải làm sao đây? Nỗi khổ sở bệnh tật mà ai cũng mỉa mai không chịu tin thì phải làm sao chứ? Rồi còn gia đình họ hàng nữa chứ.

“Này, có vẻ như em phải chịu thua trước gia đình của anh rồi nhỉ. Có vẻ là vậy rồi”.

Kazue mắt vẫn nhìn vào quyển tạp chí, trả lời ngay lập tức.

“Đúng vậy. Dù sao em cũng là người con dâu mà không ai ưa nổi cả”.

“Không, không thể nói hoàn toàn như vậy được. Nhưng em cũng có một phần thiếu cố gắng nữa”.

“Đủ rồi đấy”, Kazue nói và ném quyển tạp chí đi. “Anh chỉ suốt ngày nói lý lẽ. Vì thế mà em rất ghét đấy”.

“A, ra vậy? Thì ra em căm ghét anh à? Thật là thất lễ quá đi”, Kashichi nói giọng say sưa lè nhè.

Tại sao mình không ghen tức nhỉ? Phải chăng mình quá tự phụ kiêu ngạo chăng? Chắc chắn là mình không căm ghét chính mình rồi? Mình có thể tin điều đó đấy. Mình cũng không thèm nổi giận nữa. Một người như vậy có phải là quá đỗi yếu đuối bạc nhược hay không? Có lẽ chính cái cách cảm nhận của mình như vậy mới là ngạo mạn không biết chừng? Nếu như vậy thì tất cả những suy nghĩ của mình đều là tệ hại hết cả. Cách sống của mình từ xưa đến giờ cũng đều là hư hỏng hết. Đó cũng chẳng phải là điều vô lý hay bí ẩn gì mà tại sao mình không thể đơn giản là cảm thấy căm ghét được chứ? Chẳng phải lòng ghen tuông như thế mới đơn thuần và đẹp đẽ hay sao? Chính cơn nổi giận lôi đình muốn trừng phạt kẻ ngoại tình mới là sự trung thực cao nhất chứ? Chính cái tư thế uất ức muốn chết đi vì bị đả kích do bị vợ mình phản bội mới là nỗi buồn thanh thuần chứ nhỉ? Nhưng mà mình là gì chứ? Mình là người do dự không dứt khoát, là người tốt, nào là đạo đức, tôn nghiêm, tiền vay mượn, trách nhiệm, sự nhờ vả, phản đề, nghĩa vụ lịch sử, gia đình họ hàng… A, không thể nào được.

Kashichi nghĩ mình muốn vung gậy loạn xạ để đập vỡ đầu mình.

“Ngủ một giấc rồi xuất phát. Quyết định vậy đi”.

Kashichi với tay lấy đại tấm nệm futon của mình rồi vùi người vào đó.

Có vẻ đã khá say nên Kashichi có thể ngủ được. Khi anh mơ màng thức dậy thì đã quá trưa. Kashichi không thể nào chịu nổi sự cô đơn hiu quạnh. Anh bật ngay dậy vừa nói lạnh quá lạnh quá rồi gọi người ở nhà dưới mang rượu lên.

“Này, dậy đi em. Mình xuất phát nào”.

Kazue ngủ với cái miệng he hé mở ra. Nàng mở mắt dậy thảng thốt.

“A, mình ngủ đến giờ này luôn à?”

“Không, chỉ mới quá trưa một chút thôi. Nhưng anh không chịu nổi nữa rồi”.

Mình không muốn nghĩ ngợi thêm gì nữa. Mình chỉ muốn chết thật nhanh thôi.

Rồi sau đó mọi chuyện diễn biến nhanh chóng. Kashichi để Kazue nói với ông bà chủ là hai người muốn đi tham quan suối nước nóng gần đây rồi rời lữ quán. Bầu trời xanh thoáng đãng, vì hai người vừa xuống núi vừa muốn ngắm quang cảnh trên đường đi nên không gọi xe taxi. Đi đến một quãng xa ngoái nhìn lại thì thấy bà chủ lữ quán đang chạy đuổi theo sau.

“Này bà chủ đang đến đấy”, Kashichi nói với vẻ bất an.

“Này, cầm lấy”, bà chủ lữ quán đỏ mặt đưa cho Kashichi một gói giấy.

“Vải sồi đấy. Tôi tự se sợi làm thành đấy. Không có gì đâu”.

“Cám ơn bà nhé”, Kashichi nói.

“Bà lo lắng cho chúng cháu quá”, Kazue nói. Rồi hai người cảm thấy nhẹ nhõm làm sao.

Khi Kashichi hăm hở bước đi thì nghe bà chủ nói.

“Đi cẩn thận nhé”.

“Chà bà chủ cũng giỏi giang ghê nơi”.

Phía sau hai người, bà chủ vẫn còn đứng chào. Kashichi đột nhiên quay người lại và nói.

“Bà chủ, bắt tay cái nào”.

Bị nắm tay thật chặt, vẻ mặt bà chủ trở nên ngượng ngùng và có phần sợ hãi nữa.

“Anh ấy say rượu đó mà”, Kazue đứng bên cạnh giải thích.

Thì ra say rượu à? Hai người chia tay bà chủ tươi cười rồi chậm chạp xuống núi. Tuyết đã mỏng dần. Kashichi bắt đầu thì thầm bàn bạc với Kazue là chỗ này nhỉ hay là chỗ kia thì được. Kazue nói thôi để gần phía ga Minakami hơn một chút để bớt cảm thấy cô đơn. Và rồi khu phố Minakami bắt đầu hiện ra dưới tầm mắt.

“Không còn do dự gì nữa hết nhỉ?”, Kashichi làm ra vẻ vui vẻ mà nói.

“Vâng”, Kazue nghiêm túc gật đầu.

Kashichi cố ý đi vào khu rừng sam phía bên trái con đường. Kazue lầm lũi theo sau. Tuyết gần như đã tan hết. Lá rụng chất chồng dày đặc ẩm ướt. Không sao cả, cứ tiến lên thôi. Chỗ dốc thì lần mò leo lên. Ngay cả cái chết cũng phải cần nỗ lực. Cuối cùng cũng tìm được bãi cỏ rộng đủ chỗ cho hai người ngồi. Chỗ này cũng có ít nắng rọi vào và cả một con suối nhỏ nữa.

“Chỗ này đi nhé”, hai người đã thấm mệt.

Kazue lấy cái khăn tay trải ra ngồi xuống và bị Kashichi cười chế nhạo. Kazue gần như im lặng. Kashichi lấy từng hộp thuốc ra và xé bao bì. Anh lấy thuốc ra và nói.

“Loại thuốc này anh rành lắm. Em chỉ cần uống chừng này là đủ thôi”.

“Sao ít vậy? Chùng này có đủ chết không anh?”

“Người mới sử dụng lần đầu chỉ cần như vậy thôi là đủ chết rồi đấy. Còn anh uống tùy tiện đã quen nên phải gấp mười lần em mới được. Nếu còn sống thì anh thật không thể nào nhìn em mà chịu nổi đâu”. Nếu còn sống thì đúng là ngục tù đấy.

Tuy vậy, chẳng phải việc mình để cho Kazue sống sót chính là cách trả thù ti tiện đó hay sao? Không lẽ lại giống tiểu thuyết thông tục viết để chiều lòng người đến thế? Kashichi thậm chí còn cảm thấy phát cáu lên, đổ hết thuốc đầy cả lòng bàn tay, rồi dùng nước suối mà uống cạn. Kazue thấy thế cũng vụng về lấy thuốc uống cùng.

Hai người hôn nhau rồi cùng ngả người nằm xuống.

“Chà, thôi vĩnh quyết từ đây. Người nào còn sống sót thì phải sống cho mạnh mẽ lên nhé”.

Kashichi biết rằng chỉ với số thuốc ngủ này thì mình vẫn chưa thể chết được. Anh lặng lẽ di chuyển thân mình ra đến rìa vách đá, tháo dây đai lưng áo, buộc ngang cổ, một đầu buộc vào thân cây gì giống như cây dâu để đến khi anh vừa thiếp ngủ thì người cũng trượt ra ngoài vách đá rồi bị siết cổ đến chết. Anh đã lên kế hoạch trước. Vì thế mà Kashichi mới cố ý chọn bãi cỏ trên vách đá này. Anh thiếp đi và lơ mơ nhận thấy mình bị trượt ngã.

Lạnh quá. Anh mở mắt ra. Trời đất tối đen. Ánh trăng lênh láng. Đây là nơi đâu?

Hốt nhiên anh nhận ra mình còn sống.

Kashichi đưa tay lên cổ. Dây đai lưng vẫn quấn chặt. Lưng anh lạnh ngắt. Anh đã trượt xuống vũng nước. Và bất chợt hiểu ra. Anh đã không rơi thẳng theo vách đá mà cơ thể anh nghiêng qua trượt xuống vũng nước trên mỏm đá thôi. Nước rỉ ra từ con suối đọng thành vũng lạnh đến nỗi anh muốn đông cứng lại từ đầu đến chân. Mình vẫn sống. Chưa thể chết được. Đây là một sự thực nghiêm túc. Nhưng trên tất cả, không được để cho Kazue chết. A, còn phải ráng sống, ráng mà sống thôi.

Tứ chi bải hoải, đứng dậy cũng chẳng phải dễ dàng gì. Dùng toàn bộ sức lực, Kashichi ráng ngồi dậy, tháo chiếc đai lưng một đầu đang buộc vào thân cây ra khỏi cổ, khoanh chân ngồi trong vũng nước, nhìn quanh quẩn. Không thấy bóng dáng của Kazue đâu cả.

Kashichi bò xung quanh tìm kiếm Kazue. Dưới vách đá có một vật thể màu đen. Nhìn giống như một con chó nhỏ. Khi anh lần mò bò xuống vách đá để nhìn cho kỹ hơn thì đúng là Kazue. Kashichi thử nắm lấy chân nàng xem thử thì thấy lạnh toát. Không lẽ chết rồi sao? Anh dùng lòng bàn tay đặt nhẹ lên miệng của Kazue để kiểm tra hơi thở. Không có. Ngu ngốc thật. Chết luôn rồi à? Sao ích kỷ như thế chứ? Tự nhiên anh cảm thấy tức giận một cách kỳ lạ. Kashichi thô bạo nắm lấy cổ tay Kazue để xem mạch đập. Mạch đập yếu ớt như tơ. Còn sống. Vẫn còn sống. Anh đưa tay lên ngực nàng thử xem. Vẫn còn ấm. Gì đây chứ. Thật là ngu ngốc mà. Mình ghét phải sống. Cũng ghê gớm, ghê gớm đấy. Anh thấy tội nghiệp quá đỗi. Chỉ với chừng đó thuốc làm sao có thể chết được cơ chứ. Cảm thấy chút gì đó như niềm hạnh phúc, Kashichi nằm xuống cạnh Kazue và sau đó anh cũng chẳng biết trời trăng mây gió gì nữa.

Khi Kashichi thức dậy lần thứ hai, anh thấy Kazue bên cạnh đang ngáy rền. Kashichi nghe thấy mà cảm thấy xấu hổ. Đúng là một người phụ nữ khỏe mạnh thật.

“Này, Kazue, tỉnh dậy đi em. Mình còn sống. Hai đứa mình vẫn còn sống cả đấy”. Kashichi vừa mỉm cười khổ sở vừa lay bờ vai của Kazue.

Kazue nằm ngủ rất yên bình. Những cây sam núi cao vút đứng lặng lẽ trong đêm khuya, nửa vầng trăng lạnh lẽo treo trên đầu ngọn cây hình mũi kim sắc nhọn. Không hiểu sao Kashichi trào nước mắt. Rồi anh bật khóc thổn thức. Mình vẫn còn là một đứa trẻ. Tại sao một đứa trẻ lại phải chịu đớn đau khổ sở như thế này?

Đột nhiên Kazue nằm bên cạnh anh hét lên.

“Đau quá bà ơi. Ngực con đau quá”, giọng nàng nghe như tiếng sáo.

Kashichi kinh ngạc. Giọng nàng lớn đến mức nếu có người đi qua nơi con đường dưới núi mà nghe thấy thì chắc chịu không nổi.

“Kazue à. Đây không phải là lữ quán đâu. Bà chủ không có ở đây đâu mà”.

Chắc chắn Kazue không hiểu. nàng cứ kêu gào đau lắm đau lắm rồi lăn lộn khổ sở nhào xuống phía dưới. Kashichi nghĩ không khéo con dốc thoai thoải này sẽ đưa thân hình Kazue xuống đến tận con đường phía dưới núi nên vội vàng ráng sức lăn người đuổi theo theo sau. Bị một cây sam lớn ngáng đường, Kazue bám chặt vào đó rồi gào lớn.

“Lạnh quá, bà ơi. Mang cho con cái lò sưởi kotatsu đi”.

Khi Kashichi tiến lại gần và nhìn khuôn mặt Kazue phản chiếu dưới ánh trăng thì thấy hình dáng nàng gần như không phải là con người nữa. Mái tóc sổ tung ra bám dính đầy lá mục, rối tung rối mù như thể tóc của nhân vật bị sư tử nhập trong kịch Kabuki, như tóc của Sơn mụ trong truyền thuyết.

Mình phải mạnh mẽ lên, chỉ còn lại một mình cũng phải mạnh mẽ lên. Kashichi lảo đảo đứng dậy, ôm lấy thân hình Kazue, cố sức đưa nàng về lại phía khu rừng sam. Ngã quỵ, bò lên, trượt xuống, bám vào thân cây, cấu cào mặt đất, từng chút từng chút, Kashichi đưa Kazue về phía khu rừng. Nỗ lực miệt mài suốt mấy tiếng đồng hồ liên tục.

A, thôi đủ rồi. Người đàn bà này quá nặng nề với mình. Nàng là người tốt nhưng quá thừa với mình. Mình là kẻ yếu ớt vô lực. Mình phải khổ sở vì con người này cho đến hết đời sao? Không được, chán rồi. Chia tay đi thôi. Mình đã cố gắng tận cùng sức lực. Đó là lúc Kashichi quyết tâm dứt khoát. Người đàn bà này không được. Chỉ có mình cứ bám víu mãi. Thôi người đời nói gì cũng mặc kệ. Mình sẽ chia tay với người đàn bà này thôi.

Bình minh đến gần, bầu trời chuyển sang màu trắng. Kazue cũng dần dần trở nên ngoan hiền trở lại. Sương sớm phủ khắp khu rừng.

Cứ đơn giản thẳng thắn thôi. Thẳng thắn đơn giản vào. Đừng cười sự đơn giản của từ “nam tính”. Con người không có cách sống nào khác hơn sống đơn giản đâu.

Kashichi cẩn thận dùng tay gỡ từng chiếc lá sam bám trên đầu Kazue đang nằm ngủ bên cạnh mình.

Mình yêu người đàn bà này. Mình yêu nàng mà không hiểu tại sao. Chính nàng là nguồn cơn của nỗi khổ đau của mình. Nhưng mà thôi đủ rồi. Mình đã có được sự mạnh mẽ để vừa yêu vừa cách xa. Để sống sót thì ngay cả tình yêu cũng phải hy sinh. Điều này chẳng phải là đương nhiên hay sao chứ? Con người trên thế gian này đều sống như vậy cả mà. Sống đương nhiên như thế. Đâu còn cách sống nào khác đâu. Mình không phải thiên tài cũng chẳng phải kẻ điên khùng gì.

Kazue cứ ngủ ngon lành cho đến quá trưa. Trong khoảng thời gian đó, Kashichi cứ vừa loạng choạng mà làm đủ việc như cởi bộ quần áo kimono sũng nước của mình phơi khô rồi đi quanh quẩn tìm đôi guốc của Kazue, chôn những hộp thuốc rỗng xuống đất, dùng khăn tay lau những vết bùn đất trên quần áo của Kazue.

Khi Kazue thức dậy và nghe Kashichi kể về chuyện đêm hôm qua, nàng liền vội cúi đầu.

“Xin lỗi anh”. Kashichi mỉm cười.

Kashichi giờ có thể đi bộ nhưng Kazue thì vẫn chưa. Hai người cứ ngồi yên một lúc lâu, bàn bạc chuyện hôm nay và về sau. Tiền bạc thì còn khoảng gần mười yên. Kashichi thì có ý muốn hai người cùng quay trở về Tokyo nhưng Kazue thì nói là bộ quần áo kimono của mình quá bẩn thỉu không thể cứ thế mà lên tàu được đâu. Cuối cùng hai người thống nhất phương án là Kazue sẽ đón xe taxi, quay trở lại lữ quán Tanigawa, nói dối với bà chủ là mình đi tản bộ đến chỗ suối nước nóng kia rồi bị té ngã mà lấm lem hết quần áo, rồi ở lại đó nghỉ ngơi tĩnh dưỡng còn Kashichi thì lên tàu về Tokyo trước mang theo tiền bạc và quần áo quay trở lại đón sau. Vì quần áo của Kashichi đã khô nên anh một mình rời khỏi khu rừng sam, xuống đến phố Minakami mua bánh gạo, kẹo caramal và nước chanh rồi quay về cùng ăn với Kazue. Kazue nhấp một ngụm nước chanh và nôn ra.

Hai người ở bên nhau cho đến khi trời tối. Cuối cùng Kazue cũng có thể nhúc nhắc đi lại được. Hai người cùng nhau lẻn ra khỏi khu rừng. Sau khi đón taxi cho Kazue quay về lữ quán suối nước nóng, Kashichi một mình trở về Tokyo bằng tàu lửa.

Sau đó Kashichi bộc bạch mọi chuyện với chú của Kazue và nhờ vả mọi chuyện còn lại. Người chú vốn kiệm lời, nghe thế thì nói.

“Thật là đáng tiếc quá”.

Vẻ mặt chú thể hiện sự tiếc nuối thật sự.

Người chú đi đón Kazue trở về cho nàng tá túc ở nhà mình.

“Con bé Kazue này cứ như con gái của ông bà chủ lữ quán vậy. Đêm đến nó cứ trải nệm futon giữa hai ông bà mà ngủ ngon lành. Đúng là kỳ lạ thật”. Người chú nói và lắc đầu cười. Ngoài ra không còn nói thêm bất cứ điều gì nữa.

Người chú này rất tốt. Cho dù là Kashichi đã chia tay hẳn hoi với Kazue mà vẫn không giữ kẽ gì, thỉnh thoảng vẫn cứ cùng Kashichi đi chơi bời uống rượu. Nhưng có đôi lúc, người chú như nhớ ra điều gì và bất chợt nói.

“Kazue cũng tội nghiệp thật đấy chứ”.

Mỗi lần như vậy, Kashichi lại cảm thấy yếu đuối và khó xử vô cùng.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Truyện ngắn | Hải Âu – Dazai Osamu

Published

on

Lời người dịch:

Dazai Osamu (1909-1948) là một đại văn hào Nhật Bản, thành viên chủ chốt của nhóm văn học “Vô lại phái” (Buraiha 無頼派), một nhóm nhà văn có khuynh hướng nổi loạn và tự hủy sau chiến tranh thế giới thứ hai. Ông rất thành công với thể loại “tiểu thuyết tự thuật” (shi shosetsu 私小説 – tư tiểu thuyết). Những tác phẩm quan trọng của ông như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Nữ sinh” hay những truyện ngắn đặc sắc khác đều có liên hệ đến cuộc đời bi thảm của ông. Dazai trầm mình tự sát cùng với người tình Tomie vào năm 1948 ở tuổi ba mươi chín, sau bốn lần nỗ lực trước đó không thành.

Nhân dịp kỷ niệm 77 năm ngày mất của văn hào Dazai, chúng tôi xin được gửi đến quý độc giả hai truyện ngắn mang tính tự thuật nhất của Dazai, lần đầu tiên được dịch ra Việt ngữ là “Hải âu” và “Đành tâm chối bỏ”.

Truyện ngắn “Hải âu” là bản tuyên ngôn tư tưởng của Dazai Osamu về văn học cũng như về niềm tin yêu gửi gắm vào thế hệ trẻ tuổi. Nhiều quan điểm riêng của ông về niềm tin yêu cái đẹp, sự cố gắng sống và viết thành thật, vai trò của sự hối hận, phản tỉnh trong văn chương…đều được miêu tả đậm nét, không dấu giếm. Có thể xem đây là một truyện mang tính tự thuật nhất của văn hào Dazai về nghề văn. Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “Kamome” (鷗) trong tập “Tiếng dế nỉ non” (きりぎりす), nhà xuất bản Shinchosha tái bản lần thứ 73 năm 2018 , từ trang 123 đến 145.

Còn truyện ngắn đặc sắc “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute) viết về chuyến tự sát đôi không thành với H, một người phụ nữ trong đời Dazai, đã phản bội Dazai đi theo một người họa sĩ. Ở ranh giới sinh tử, nhân vật Kashichi (là hình bóng Dazai) đã lấy lại sức mạnh để thẳng thắn chia tay và sống tiếp tục cuộc đời mình. Trong tác phẩm chúng ta cũng nhận thấy rõ nỗi dằn vặt day dứt về thế gian, cuộc sống và tình yêu của Dazai.

Chính Dazai trong một truyện ngắn tự thuật khác “Tám cảnh sắc Tokyo” đã viết về truyện ngắn này như sau:

“Vào mùa hè năm ba mươi tuổi, lần đầu tiên tôi mới nghiêm túc quyết ý đi theo con đường văn chương. Nghĩ lại thì đó là một ý nguyện muộn màng. Tôi đã ráng hết sức viết văn trong căn phòng bốn chiếu rưỡi không có lấy một đồ đạc gì cho ra hồn. Cơm tối của nhà trọ tôi để lại một phần trong hộp cơm, lén nắm lại thành cơm nắm để lót dạ khi làm việc khuya. Lần này tôi không viết di thư di chúc gì cả. Mà là viết để sống. Có một vị tiền bối đã khích lệ tôi. Cho dù thế gian khinh ghét cười nhạo tôi thì chỉ có vị tác gia tiền bối đó trước sau vẫn đối xử với tôi thân thiết. Tôi phải báo đáp lại sự tin tưởng đáng quý ấy. Cuối cùng tôi cũng viết xong tác phẩm “Đành tâm chối bỏ” (Ubasute). Truyện này tôi viết lại thành thực việc tôi và H dự tính tự sát tại suối nước nóng Minakami…” (*)

(*) Dazai Osamu, “Tám cảnh sắc Tokyo” trích trong tập “Thất lạc cõi người”, Hoàng Long dịch, Nxb Hội Nhà Văn và Phương Nam ấn hành, tái bản lần thứ 12, trang 218.

Truyện được chúng tôi dịch từ nguyên tác “姥捨て” trên trang mạng kho sách ngoài trời Aozora: https://www.aozora.gr.jp/cards/000035/files/2256_19985.html.

Xin trân trọng giới thiệu cùng quý độc giả như một nén tâm hương tưởng nhớ một đời văn tài hoa “nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”. Mong rằng chúng ta luôn giữ cho mình một tấm lòng thành thực “nhất phiến băng tâm tại ngọc hồ” (一片冰心在玉壺 (một mảnh lòng trong sáng như băng trong bình ngọc, thơ Vương Xương Linh) cùng với văn chương.

Hoàng Long

./.

HẢI ÂU

Dazai Osamu

ひそひそ聞える。なんだか聞える。

Hãy nghe lời thì thầm. Người có nghe gì không?

“Tôi cười tôi khóc bâng quơ, người nghe người khóc có ngờ chi không?”

 (Bùi Giáng)

Hải âu là loài chim câm. Nghe như vậy hầu hết mọi người đều thản nhiên thừa nhận mà nói rằng à, ra vậy, có lẽ vậy nhỉ. Nhưng tôi nghe thế thì vô cùng hoảng hốt buồn thương mà thú nhận cảm xúc thất thường của mình là “Trời, sao tội vậy? Thật ư? Bị câm thì thật là buồn”. Đôi khi tôi cảm thấy mình như loài chim hải âu câm lặng đó.

Đã đủ tuổi chín chắn rồi vậy mà ban ngày vì buồn bã chán chường ra ngoài đi dạo, lấy chân đá vào viên sỏi nhỏ trên đường cho nó lăn lăn rồi đi một lúc lại lén lấy chân đá tiếp đến khi định thần thì thấy mình đã chạy đuổi mà đá cùng một viên sỏi đến hai ba quãng đường. Tôi lại đuổi theo đá tiếp. Cứ hai tay đút túi, đá viên sỏi rồi đi như một kẻ ngớ ngẩn ngu si. Quả thật mình là một kẻ bệnh tật quá nhỉ? Mình đã sống sai cách rồi. Có lẽ mình đã hiểu nhầm về việc viết tiểu thuyết. “Được rồi”, tôi thử cất lên một tiếng thì thầm với mình rồi lấy đà nhảy qua vũng nước giữa đường. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh với mây trắng lững lờ. Vũng nước sao mà đẹp quá, tôi nghĩ thầm. Hốt nhiên, gánh nặng trên vai được tháo xuống, tôi muốn mỉm cười. Chừng nào vũng nước nhỏ này còn tồn tại thì nghệ thuật của tôi sẽ có nền tảng mà dựa vào. Tôi quyết định mình sẽ không bao giờ lãng quên vũng nước đó.

Mình là một gã đáng hổ thẹn. Sống không có phương hướng gì hết. Có lẽ mình chỉ là một người trong số “đám đông” trôi dạt vô định ngả nghiêng phải trái theo từng con sóng đời đưa đẩy thôi chăng? Bây giờ mình lại lên chuyến tàu lửa tốc hành với tốc độ kinh người này để làm gì cơ chứ? Chuyến tàu này đi về đâu mình còn chẳng biết nữa mà. Mà cũng chẳng có ai chỉ cho mình biết. Tàu cứ thế mà chạy với những tiếng rền vang ầm ĩ. Bây giờ là qua núi, bây giờ là bãi biển, bây giờ là cầu sắt, vừa qua cầu thì đến một đường hầm tối tăm, và rồi cánh đồng trải rộng. Tàu đi mải miết, cảnh sắc cứ trôi miệt mài… Tôi bâng quơ thờ thẫn nhìn phong cảnh lướt qua cửa sổ toa tàu. Tôi dùng ngón tay vẽ vời dáng vẻ khuôn mặt nhìn nghiêng trên cửa kính rồi lại xóa đi. Ngày dần tàn, ngọn đèn điện trong toa tàu sáng lên hiu hắt. Tôi lần giở hộp cơm nghèo nàn mang theo ăn trong lặng lẽ. Món cá khô sao mà cô đơn vô hạn, tôi ăn không sót một hạt cơm nào, rồi hút điếu thuốc Bat giá chín xu. Đêm khuya rồi, mình phải ngủ thôi. Thế là tôi ngủ. Dưới gối, tiếng tàu nghiến trên đường ray rền rĩ. Dù vậy thì mình cũng phải ngủ thôi. Tôi nhắm mắt lại. Bây giờ tàu đang qua núi, bây giờ tàu qua vịnh biển…Giọng cô trinh nữ tội nghiệp hát bài ca đó như vang vọng từ dưới đáy thịnh nộ của tiếng tàu rền vang.

Có người nào mà không nhiệt tình ái quốc chứ? Nhưng tôi không thể nói ra điều đó. Tôi không thể trâng tráo nói lớn giọng về điều đó được. Từ trong đám đông, có lần tôi đã lén nhìn những người lính ra trận rồi khóc thút thít. Mình sức khỏe hạng ba. Bẩm sinh cơ thể đã yếu đuối bạc nhược. Ngay cả khi hít xà đơn, tôi cũng cứ thế treo người mà không thể làm nổi một động tác nào. Còn tập thể dục theo đài radio thì còn không tập hết bài luôn. Thân thể đã yếu ớt như thế mà tinh thần lại còn bạc nhược nữa. Đúng là hết thuốc chữa. Mình không có lấy một chút lực nào mà đi chỉ dẫn người ta. Ngay cả lòng ái quốc lặng thầm đây mình nào có thua ai mà không không thể nói ra được. Tôi cảm thấy như những lời tuyên ngôn ái quốc dâng trào đến tận cổ họng mà sao mình vẫn không thế nói được. Không phải là mình biết mà không nói. Lời sắp sửa trào ra khỏi họng luôn mà sao lại không thốt ra được. Tôi cảm giác đó là những lời rất đẹp đẽ và mình bây giờ đang nắm chặt lấy những ngôn từ kia rồi mà càng vội vàng thì nó càng chạy bay chạy biến đi mất. Chỉ còn tôi đỏ mặt tía tai, như kẻ ngu ngốc vô năng mà cứ thế đứng thẫn thờ. Mình không thể viết được một đoạn thơ về lòng ái quốc. Mình chẳng viết được điều gì cả. Có ngày những lời nói ấp ủ của tôi được trút ra với điệu bộ khổ sở thì chỉ là câu “chết đi, vạn tuế” mà thôi. Vốn chẳng biết phương pháp nào diễn tả sự trung thành ngoài cái sự chết ra thì tôi đúng là một gã quê mùa ngu ngốc quá.

Mình chỉ là một thị dân yếu đuối và nhỏ bé. Làm được một túi quà úy lạo nghèo nàn, liền đưa cho vợ bảo ra bưu điện gửi đi. Rồi từ chiến trường có thông báo biên nhận trang trọng gửi về. Tôi đọc những dòng chữ đó mà mặt mũi phừng phừng như lửa cháy. Thật xấu hổ làm sao. Nói cho đúng từ thì là sợ hãi đến mức co rúm cả người lại. Tôi chẳng làm được tích sự gì cả. Tôi chẳng thốt ra được lời nào kiên quyết mãnh liệt. Những câu yêu nước trâng tráo tôi không thể nào nói ra. Tôi chỉ có thể viết được những bức thư yếu đuối xun xoe gửi cho những người bạn ở chiến trường. (Nhưng bây giờ tôi đang viết thành thật về mọi thứ). Bức thư ủy lạo của tôi thật là tệ hại, chỉ toàn những lời dối trá mà thôi. Những lời giả dối nịnh bợ trâng tráo đến mức tôi cũng phải nghiến răng kinh ngạc. Tại sao như thế chứ? Tại sao mình lại trở nên ti tiện đối với những người lính đang ngoài chiến trường như vậy? Không phải là mình đã nỗ lực cả sinh mệnh để làm ra một thứ nghệ thuật tuyệt diệu sao? Ngay cả một niềm kiêu hãnh nhỏ nhoi duy nhất đó mà mình cũng đang tâm vứt bỏ à? Người bạn từ chiến trường cũng gửi về bản thảo truyện ngắn, nhờ tôi giới thiệu cho tòa soạn báo. Bản thảo đó viết đầy trên xấp giấy phương Tây, với những nét chữ nhàu nhĩ chen chúc bé như hạt gạo mà có truyện cũng khá dài, kín hết hai trang giấy. Tôi đọc nghiêm túc chăm chú. Không hay chút nào. Cảnh sắc nơi chiến trường được viết trong truyện chẳng có chút khác biệt gì với cảnh sắc tôi tưởng tượng ra khi chống cằm suy tư nơi cái bàn viết ở nhà mình cả. Không có một chút cảm động mới mẻ nào hết. Mặc dù bản thảo viết “tôi vô cùng cảm kích” thế nhưng cái nỗi cảm kích đó được nhồi nhét bởi thứ văn học phổ thông ra vẻ công phu cảm kích theo kiểu tiểu thuyết mà nói ngắn gọn lại thì đầy rẫy những tính chất nông cạn, hời hợt với những dòng tâm đắc tùy tiện mà thôi. Tôi chỉ cần nghĩ đến nỗi vất vả của những binh sĩ máu mồ hôi trộn với bùn lầy là đã thân thể đã dâng trào cảm xúc, kính ngưỡng đến mức không thể nói nên lời rồi. Nhưng bản thân cái từ “kính ngưỡng” nghe trắng trợn quá. Không thể nói được. Không tìm được từ gì để diễn tả. Tôi chỉ ngồi xổm xuống, dùng tay viết lên trên cát rồi lại xóa đi. Cứ miệt mài như vậy. Không thể nói được, không thể viết được gì.

Tuy nhiên trong nghệ thuật thì khác. Mọi người có thể cất tiếng cười trước một nghệ sĩ đường phố già, răng móm mém, lưng còng hơi thở khò khè mà ngay cả mình cũng không nỡ nhìn đang ra sức kéo đàn violon nơi góc đường nhỏ tối tăm kia không? Tôi thấy mình cũng giống như thế. Ngay từ đầu tôi đã là kẻ thảm bại trong xã hội này rồi. Thế nhưng tôi vẫn còn nghệ thuật. Nói đến chủ đề này thật ra tôi cảm thấy vô cùng lúng túng và cũng chẳng đủ năng lực để bàn đến nhưng tôi định chuyên tâm tìm hiểu cho thật rốt ráo rõ ràng. Tôi nghĩ vậy cũng đủ cho sự nghiệp cả một đời nam nhi chi chí. Ngay cả nghệ sĩ đường phố thì cũng có vương quốc của riêng mình. Tôi đọc mấy truyện ngắn mà những người lính kia viết đều cảm thấy không đạt. Có lẽ vì tôi đã kỳ vọng vào xấp bản thảo kia quá nhiều. Thế nhưng tôi nghĩ những truyện ngắn đó đáng ra phải có một tư tưởng hay mối cảm động hoàn toàn tươi mới mà đối với người xếp hạng ba vì sức khỏe kém không thể ra tiền tuyến như mình không thể nào cảm nhận hay nghĩ ra được mới phải chứ. Phải có điều gì đó rộng lớn mênh mang cùng khắp mới phải. Tác phẩm phải tràn đầy sự cảm động và nỗi kinh hoàng vĩnh viễn như thể nhìn thấy thần linh trước mặt mình chứ. Tôi muốn được biết những điều như vậy. Không cần phải làm cử chỉ điệu bộ gì gớm ghê. Một chút thôi cũng được mà. Chỉ cần viết ra một chút cảm kích và lời nguyện cầu chân thật với mình gửi vào một đóa hoa cũng tốt thôi. Chắc chắn là phải có chứ. Tất cả những sự tươi mới đều nằm nơi đó cả. Nói nghe có vẻ kệch cỡm khoa trương nhưng tôi hiểu được điều đó vì có chút trực giác của người làm nghệ thuật. Tuy nhiên tôi không thể nói cụ thể ra được. Vì tôi không biết gì về cảnh chiến trường mà. Tôi cũng không phải là loại người huênh hoang viết tùy tiện những cảm xúc đời thường mà mình chưa từng trải như thể đúng rồi đâu. Mà, không phải, có lẽ là vì tôi bất tài. Nhưng tôi tuyệt đối không thể viết ra được điều gì mà mình chưa từng đích thân trải nghiệm. Ngoài việc nắm chắc lấy cái thế giới nhỏ bé mà mình tin tưởng thì tôi chẳng thể làm gì khác. Tôi biết thân biết phận của mình. Chuyện nơi chiến trường thì đành phải nhờ tất cả vào những người lính nơi chiến trường mà thôi.

Tôi đọc kỹ những bản thảo của những người lính. Tiếc là không hay. Tác phẩm không nói ra được những điều mình tận mắt chứng kiến mà lại kể chuyện chiến tranh bằng những từ ngữ của thứ văn học xấu xa mình được đọc. Người không biết gì chiến tranh lại đi kể chuyện chiến tranh rồi nhận được những lời tán tụng tung hô ngu ngốc từ những người nơi bản quốc thế rồi kiểu cách đó được sao chép đến cả những người lính vốn tường tận về chiến tranh. Đã không biết về chiến tranh thì đừng viết chứ. Đừng làm những chuyện dư thừa không đâu như vậy nữa. Chẳng phải điều đó ngược lại càng gây thêm phiền phức hay sao? Tôi đọc tiểu thuyết của những người lính, cảm thấy căm ghét những “kẻ viết về chiến tranh bằng cách nhìn chiến tranh qua kính viễn vọng” đến mức không tài nào chịu nổi. Chính thứ văn chương hay ho của các người đã phá tan đi “cặp mắt nhìn sự vật” của những người lính thuần khiết đấy. Đó chỉ là ngôn từ của những kẻ làm văn học nơi xứ Nhật Bản này nói ra thôi chứ đối với những người lính trải nghiệm trực tiếp sinh tử nơi chiến trường, những lời đó chẳng nói lên được gì cả. Chẳng phải họ gắng sức viết dưới ngọn nến khi đã có chút thư thả lúc mệt mỏi rã rời hay sao? Chỉ cần nghĩ như thế là thấy rõ rằng đâu có chỗ nào để mà triển khai mỹ học của mình hay suy ngẫm về nghệ thuật đâu. Bức thư đính kèm xấp bản thảo còn ghi thêm rằng ngày mai sinh mệnh tôi thế nào còn không biết nên nhờ cả vào anh cả đấy nữa chứ. Thực tình đối với xấp bản thảo này tôi đã có chút công phu sắp xếp lại (thực ra thì tôi đâu có tư cách gì mà nói vậy). Tôi nói với vợ mình viết lại xấp bản thảo với những con chữ trên xấp giấy nhàu nhĩ sang giấy bản thảo chuyên dụng Nhật Bản bốn trăm chữ một tờ. Thành ra có truyện dài nhất chiếm đến ba mươi mấy tờ bản thảo. Rồi tôi gửi đi những nhà xuất bản tạp chí khác nhau. Tôi viết thêm vài dòng gửi gắm là “Tuy đây là những ngôn từ bộc trực nhưng có vẻ đây là một tác phẩm hay nên có gì nhờ anh giúp đỡ. Một kẻ bất tài vô đức như tôi lại mang bản thảo của những người lính đến gửi chỗ ông thì có vẻ đường đột nhưng tôi thấy những tình cảm chân thành của con người là một điều khác biệt với bản thân tôi. Đối với tôi…”. Khi viết như vậy tôi thấy khựng lại, không xong rồi. Gì mà “Đối với tôi…” cơ chứ? Dối trá cũng vừa phải thôi. Mày bây giờ là thứ rác rưởi của loài người đấy. Có biết không hả?

Tôi biết điều đó chứ. Biết đến mức chán chường. Thế nên tôi mới khựng lại giữa chừng đấy thôi. Năm năm trước tôi đã có thời gian bị loạn thần kinh. Đến khi khỏi bệnh được xuất viện, tôi đứng một mình thờ thẫn trên cánh đồng bị thiêu cháy. Chẳng còn lại một chút gì. Đúng nghĩa là chỉ còn một manh áo mặc trên ngưởi thôi. Còn lại toàn đồ đi vay mượn không trả. Hoa mướp nở bên căn nhà bị thiêu cháy trong cơn sấm chớp. Tôi hiểu nỗi đau đớn trong câu thơ của người xưa kia đến mức thiêu đốt cả lồng ngực. Tôi đã bị tước đoạt cả tư cách làm người.

Bây giờ tôi không thể viết thổi phồng sự thật nữa. Tôi nghĩ vì tôi lưu ý cẩn thận điều này nên độc giả mới tin tưởng tôi. Cái lối khoa trương kênh kiệu tự mãn là điều tôi căm ghét nhất trên đời. Người ta hoàn toàn chẳng xem tôi ra gì cả. Cho dù tôi nói gì đi nữa, người ta cũng chỉ nhìn tôi với ánh mắt kỳ lạ, hay lén nhìn mặt tôi rồi bỏ đi. Những điều thêu dệt hay những bức tranh biếm họa về tôi giống như những nụ cười chế giễu tinh quái về tôi lan truyền không ngừng nghỉ vậy mà tôi chẳng biết chút gì, cứ đi ngáo ngơ ngoài phố. Trong khoảng một hai năm sau, dần dần thằng tôi ngu độn cũng đã từ từ hiểu được chân tướng. Theo như đồn đại của người đời thì tôi đã hoàn toàn là một kẻ cuồng. Hơn nữa còn là cuồng trí từ lúc mới sinh ra. Từ sau khi biết được điều đó, tôi trở nên câm lặng. Không muốn gặp ai cũng không thiết nói gì nữa. Cho dù bị người ta nói gì đi nữa, tôi cũng chỉ mỉm cười cho qua.

Tôi đã trở nên dịu dàng và bao dung hơn.

Từ đó đến giờ đã năm năm trôi qua. Dường như người ta vẫn còn nghĩ tôi là kẻ bán cuồng, dở hơi thì phải. Có những người dù chưa từng gặp tôi lần nào cả nhưng chỉ cần nghe thấy tên tôi hay những đồn đại liên quan đến tôi thôi mà lỡ chạm mặt tôi ở nơi nào đó là như thể nhìn thấy thứ gì gớm ghiếc khó chịu lắm, rồi đảo mắt nhìn tôi với ánh mắt vô lễ đến mức không thể tả thành lời. Tôi biết rõ hết. Có lần tôi đứng trong nhà vệ sinh còn nghe ngay sau mình một giọng nói lớn vọng đến tai tôi  “Chẳng phải cái thằng cha đó là Dazai điên khùng hay sao?” nữa. Mỗi lần như thế tôi lại có một cảm giác vô cùng kỳ lạ. Các người không nhận ra là tôi đã chết lâu rồi à? Chỉ có chút linh hồn là còn sống theo cách nào đó thôi.

Tôi bây giờ không còn là con người nữa. Nghệ thuật gia đúng là một loại sinh vật kỳ quái. Luôn nghĩ mình mang vác cái xác thân đã chết này đến sáu mươi tuổi thì sẽ trở thành một đại tác gia. Tìm kiếm bí mật trong những trang văn mà xác chết đó viết chỉ là vô ích. Cho dù cố gắng bắt chước văn chương của một vong hồn đã chết thì cũng vô vọng mà thôi. Nên bỏ đi là hơn. Dường như có người bạn đang thì thầm vào thằng tôi đang mỉm cười này là “Dazai ngu độn ơi” vậy. Chỉ có thể nói ra từ ngu độn mà thôi sau đó không còn nói gì được nữa. Chỉ cần tin điều này thôi. “Tôi sẽ không phản bội cậu đâu mà”.

Tôi đã đánh mất đi tự ngã của mình. Rồi sau đó thì không còn muốn nói gì nữa. À, còn có thể nói thêm một điều nữa. Kẻ nào không tin tôi là thằng ngu.

Lại nói về chuyện bản thảo của những người lính. Tôi kìm nén sự xấu hổ mà mang gửi gắm cho biên tập viên tạp chí. Thỉnh thoảng có truyện cũng được đăng. Rồi khi nhìn thấy mục giới thiệu quảng cáo tạp chí đó trên một tờ báo lớn, tên của người lính đó đứng ngang hàng với những tiểu thuyết gia nổi tiếng, tôi vui mừng gấp đôi so với khi mẩu truyện nhỏ của tôi được đăng trên tạp chí văn nghệ sáu năm về trước. Thật tạ ơn đời. Tôi vội vàng chạy đến cảm tạ biên tập viên không ngớt lời rồi cắt bài quảng cáo đó gửi ra chiến trường. Thấy mình thật có ích. Đây là sự cống hiến hết mình cho đất nước của tôi rồi. Tôi cũng nhận được bức thư vui mừng cảm tạ từ chiến trường gửi về nữa. Một thời gian sau tôi còn nhận được thêm bức thư cảm tạ của người vợ nơi quê nhà của người lính kia gửi đến. Đúng là một cống hiến nơi hậu phương còn gì nữa. Thế nào? Tôi vẫn là gã suy đồi à? Tôi vẫn còn là gã xấu xa sao?

Tuy nhiên tôi không nói cho ai biết chuyện này cả. Đây là chuyện đàn bà con trẻ nên làm chẳng đáng gì để mà khoe khoang. Tôi chỉ là một kẻ ngốc, viết thứ tiểu thuyết vui chơi, hững hờ bên dòng thời cuộc. Tôi biết thân biết phận mình. Tôi chỉ là một gã thị dân bé nhỏ. Chẳng thể nào đưa ra hiệu lệnh cho thời cuộc gì được cả đâu. Cho nên thỉnh thoảng chỉ rời khỏi nhà, lang thang trong cô độc, đá qua đá lại mấy viên đá trên đường thôi. Có lẽ tôi bệnh thật rồi? Có lẽ tôi đã hiểu sai về tiểu thuyết rồi cũng nên. Cho dù tôi thử phủ định điều đó đi nữa thì lại cũng chẳng có chút tự tin nào. Không tìm ra lời nào xác đáng cả. Cho dù cảm thấy lời sắp trào ra khỏi cổ họng rồi mà sao vẫn không hiểu. Tôi là một kẻ phiêu giạt, cứ mặc cho con sóng đẩy đưa và luôn luôn cô độc. Được rồi, tôi ráng sức nhảy qua vũng nước và cảm thấy nhẹ nhõm. Vũng nước phản chiếu trời thu trong xanh và mây trắng lững lờ trôi. Không hiểu sao tôi lại cảm thấy nhẹn nhõm một cách u sầu. Tôi lần bước trở về nhà.

Khi tôi về đến nhà thì thấy người của tạp chí đang chờ đợi. Dạo gần đây thỉnh thoảng cũng có nhân viên tòa soạn báo hay tạp chí ghé thăm hỏi han tình hình. Căn nhà tồi tàn của tôi nằm sâu khuất nẻo ở Mikata, giữa vùng vườn tược thế mà cậu ta bỏ gần cả ngày trời đi quanh tìm kiếm mà ghé thăm, vừa lau mồ hôi mồ kê chảy ròng ròng vừa nói trời, nhà anh ở xa thật đấy nhỉ. Vì tôi chỉ là một tác giả vô danh, không ăn khách gì cả nên mỗi lần như thế tôi đều sợ hãi khó xử.

“Bệnh tình của anh đã đỡ rồi chứ?”. Thế nào tôi cũng được hỏi như thế ngay câu đầu tiên. Vì đã quen nên tôi cứ thuận miệng trả lời.

“Tốt rồi, còn khỏe hơn cả người thường nữa đấy chứ”.

“Hiện giờ tình trạng của anh ra sao?”

“Chuyện của năm năm trước đấy mà”, tôi trả lời cho qua. Tôi không muốn nói là mình đã bị điên khùng.

“Theo như lời đồn đại” thì, anh bắt đầu nói thẳng “có vẻ tình hình của anh rất tệ đấy”.

“Tôi cứ uống rượu là bệnh tự khỏi thôi”.

“Thế thì thật kỳ lạ nhỉ?”

“Tại sao lại thế nhỉ?”, cả chủ và khách đều lấy làm lạ lùng. “Có lẽ là bệnh không khỏi nhưng tôi quyết định là nó đã khỏi rồi. Chuyện này vốn dĩ không có kết thúc mà”.

“Anh uống rượu nhiều lắm à?”

“Thì cũng uống như người ta thôi mà”.

Chỉ đối đáp đến như thế thì còn ổn thỏa được nhưng càng về sau thì càng lạc lối. Câu chuyện dần trở nên không đầu không đuôi và vô cùng lộn xộn.

“Anh nghĩ như thế nào về mấy truyện ngắn của người đó?”. Khi nghe hỏi vậy thì tôi hoàn toàn mất phương hướng và hoang mang. Tôi không tìm ra từ nào để nói ra cho thật rõ ràng.

“À, thực ra tôi vẫn chưa đọc kỹ nhưng chắc cũng có điểm hay chứ nhỉ? Nếu mà đọc được thì cũng thấy khá là cảm động. Thậm chí tôi còn cảm thấy ngạc nhiên khi thấy mọi người ai cũng có thể viết văn trơn tru được như thế nữa. Hoàn toàn không có ý gì mỉa mai ở đây đâu. Tại vì có có một sức khỏe thể chất sung sức mà. Thực sự thì họ đều viết rành mạch không vấp váp gì cả”.

“Thế anh đã đọc mấy truyện ngắn của anh A chưa?”

“À, vì có thấy đăng trên tạp chí nên tôi cũng có đọc”.

“Anh thấy có tệ lắm không?”

“À, bản thân tôi thì thấy thú vị. Chẳng phải còn có nhiều tác phẩm khác tệ hơn nữa hay sao chứ? Tôi không cố ý phê phán chỉ trích gì đâu. Như thế nào à? Tại vì tôi không biết rõ mà?”. Câu trả lời của tôi không phải kiểu mập mờ nước đôi của kẻ giảo hoạt mà đúng ra thì đó là sự mập mờ xuất phát từ một tâm hồn thấp kém. Tôi cảm thấy ai cũng giỏi giang hơn tôi hết cả. Khi hiểu ra được là ai cũng đang cố gắng hết sức tận tâm tận lực để sống còn khiến tôi không còn có thể nói gì hết.

“Anh có biết ông B không?”

“À, có biết”.

“Lần này tôi định thúc giục ông ấy viết một quyển tiểu thuyết mới”.

“A, điều đó nghe hay đấy. Ông B là một người rất tốt. Chắc chắn ông ta sẽ viết cho mà xem. Tôi nghĩ chắc chắn ông sẽ viết ra một tác phẩm tuyệt diệu. Ông B trước đây cũng đã từng giúp đỡ tôi nhiều mà”. Tôi có lần đã mượn tiền ông ta.

“Thế còn anh thì sao? Có viết được gì không?”

“Tôi thì không được rồi. Hoàn toàn bế tắc. Toàn viết ra những điều tệ hại. Có lần viết thử truyện yêu đương mà thành ra giọng điệu diễn thuyết đến nỗi tôi phát chát và tự cười mình luôn”.

“Làm gì có chuyện đó chứ? Cho đến bây giờ chẳng phải anh là ngọn cờ đầu của thế hệ trẻ hay sao?”

“Đừng đùa như vậy chứ. Dạo này tôi như tiến sĩ Faust vậy. Giờ đây tôi đã hiểu rõ những lời lẩm bẩm trong thư phòng của ông tiến sĩ già đó rồi. Mình đã quá đỗi già nua. Nghe nói Napoleon mới ngoài ba mươi tuổi đã than thở “mảnh đời tàn” của ta mà. Biết được điều đó khiến tôi thấy quá đỗi thú vị”.

“Không lẽ anh cảm thấy mình đang sống mảnh đời tàn dư sinh hay sao?”

“Tôi đâu phải là Napoleon, quả thực tôi quá khác biệt với ông ta. Nhưng đôi lúc bất chợt tôi cảm thấy mình đang sống những năm tháng còn lại của đời tàn tạ. Tôi cũng chẳng đọc vạn quyển sách như tiến sĩ Faust dù đôi lúc tôi cũng cảm giác trống rỗng hư vô giống như ông ta vậy”. Chà, mình lại nói năng loạn xạ hết cả rồi.

“Thực ra cảm thấy chuyện đó cũng đành phải chịu thôi. Xin thất lễ chứ anh năm nay bao nhiêu tuổi rồi nhỉ?”

“Ba mươi mốt rồi”.

“Vậy anh còn trẻ hơn anh C một tuổi. Mà anh C lúc nào tôi gặp cũng thấy khỏe lắm. Bình luận văn học nói năng rành mạch lưu loát ghê. Quả nhiên anh ta có cặp mắt rất tinh đời”.

“Đúng vậy, anh C vốn là tiền bối ở trường cấp ba ngày xưa tôi học. Cặp mắt anh ấy lúc nào cũng sáng ngời nhiệt tình. Từ bây giờ chắc anh ta sẽ dồn hết tâm huyết cho văn chương đấy. Tôi rất thích anh ta”. Năm năm trước đây, tôi đã gây cho anh C phiền phức không biết bao nhiêu mà kể.

“Còn với riêng anh”, người khách có vẻ tức giận vì những lời đối đáp mập mờ của tôi liền đổi giọng điệu mà hỏi. “Thường người ta viết tiểu thuyết vì một tín điều nào đó. Ví dụ như chủ nghĩa nhân văn, tình yêu, hay chính nghĩa công bằng xã hội, cái đẹp…đại khái là thế, Còn anh từ khi xuất hiện trên văn đàn đến nay và từ bây giờ trở đi nữa, anh có một tín điều nào hay không?”

“Có chứ, đó là sự hối hận”. Lần này giống như nhịp điệu hô ứng tương đồng, tôi có thể cất giọng trả lời ngay lập tức. “Văn học mà không có sự hối hận thì chẳng là gì cả. Hối hận, tự thú và phản tỉnh đó là những thứ chắc chắn được sinh ra từ nền văn học cận đại, không từ tinh thần cận đại đấy. Vì thế cho nên…”, tự nhiên tôi lại ngắc ngứ.

“Quả nhiên là vậy”, vị khách cũng liền hưởng ứng. “Đúng là văn đàn đang thiếu trào lưu này. Vậy chắc là anh thích những tác giả như Kajii Motojirou lắm nhỉ?”

“Dạo này không hiểu sao tôi càng lúc càng trở nên hoài niệm. Có lẽ tôi trở nên thủ cựu, cũ kỹ mất rồi. Chẳng thấy có thứ gì có thể khích lệ động viên tâm hồn mình cả. Mà đừng nói là động viên, nó còn làm tôi xấu hổ vì cảm thấy mình nhơ nhớp nữa. Tôi không hiểu rõ ý nghĩa của từ “nghiệp báo” cho lắm nhưng tôi cảm thấy điều đó gần đúng với bản thân mình. Đứa con tội lỗi rồi thì mục sư, không biết nói thế nào cho phải. Tôi đã làm nhiều điều ác đức, tôi ý thức mình là một tên dơ bẩn. Vì không thể nào làm tiêu tan cái ý thức đó nên tôi lúc nào cũng đê tiện. Dù tôi lúc nào cũng im lặng khổ sở nhưng mà…”. Tôi định nói tiếp nhưng lại ngắc ngứ nữa. Tôi định nói về Kinh Thánh. Tôi định nói Kinh Thánh đã cứu vớt tôi nhưng vì xấu hổ quá nên không thể nói. Sự sống chẳng phải quý trọng hơn đồ ăn sao, thân thể chẳng quý trọng hơn quần áo sao? Hãy nhìn chim bay trên trời, chẳng có gieo gặp cũng chẳng thâu trữ vào kho tàng. Hãy xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào. Chẳng làm khó nhọc cũng không kéo chỉ. Nhưng dẫu vua Salomon sang trọng đến đâu cũng không được mặc áo tốt như hoa nào trong giống đó. Loài cỏ ngoài đồng nay còn sống, mai bỏ vào lò mà Đức Chúa Trời còn cho nó mặc đẹp đẽ thay huống chi là các người. Các ngươi chẳng phải quý trọng hơn loài chim sao…Những lời khích lệ của Thánh Kinh đã có lần cho tôi thêm nghị lực sống. Tuy nhiên bây giờ tôi ngại ngùng xấu hổ quá nên không thể nói ra được. Cái gọi là niềm tin mà mình giữ trong im lặng thực sự tôi có không nhỉ. Ngay cả từ “niềm tin” tôi cũng thấy mình khó có thể nói ra được rõ ràng.

Sau đó chúng tôi lan man sang nhiều chuyện khác nhưng chắc vị khách có vẻ thất vọng vô cùng vì cách nói mơ mơ hồ hồ của tôi nên sửa soạn ra về. Tôi cảm thấy vô cùng tội nghiệp cho anh ta. Vì không nói được điều gì rành mạch rõ ràng cả nên cứ lan man chuyện này chuyện kia cuối cùng chẳng nắm bắt được gì hết cả. Tôi cứ thờ thẫn ngu độn mà nghệch mặt ra. Chắc chắn anh ta nghĩ rằng từ giờ trở đi tôi sẽ có thể phát huy tài năng nên đến xem thử tình hình ra sao đây mà. Tôi hiểu rõ sự tử tế của anh ta nhưng chính vì vậy mà tôi càng khổ sở không cùng. Sau khi vị khách về rồi, tôi cứ ngồi thẫn thờ trước bàn làm việc, nhìn cánh đồng Musashino ngả bóng chiều loang. Thế nhưng tâm tư không khởi một niềm cảm khái mới mẻ nào mà chỉ cảm thấy nỗi sầu cô đơn vô hạn.

Khi con đi trên đường với kẻ tố cáo mình, hãy nhanh chóng hòa giải với người ấy; nếu không, người ấy sẽ nộp con trước quan tòa, quan tòa giao cho cai ngục và con sẽ bị bỏ tù. Thật, ta bảo con, con sẽ không bao giờ ra khỏi tù được cho đến khi trả hết đồng xu cuối cùng. Tôi bất chợt nghĩ có lẽ nào địa ngục lại một lần nữa đến tìm mình chăng? Cảm giác bất an như nghe thấy tiếng ầm ầm rung chuyển từ đáy sâu đáng sợ vọng đến. Có lẽ chỉ có mình tôi như vậy chăng?

“Này, đưa anh chút tiền đi em. Nhà mình còn bao nhiêu thế?”

“À, còn khoảng bốn năm yên gì đó”.

“Anh xài có được không?”

“Được nhưng nhớ để lại cho em chút chút”.

“Anh hiểu rồi. Khoảng chín giờ tối anh về nhé”.

Tôi cầm cái ví vợ đưa cho rồi rời khỏi nhà. Trời đã hoàng hôn. Sương mù lẩn khuất giăng mờ lối đi.

Tôi đến quán sushi gần nhà ga Mitaka. Mang rượu ra đây. Giọng nói sao mà sa đọa ghê gớm. Mang rượu ra đây. Một cung cách cũ mèm. Không biết tôi đã lặp lại câu này mấy trăm mấy ngàn lần rồi nhỉ? Những lời bẩn thỉu ngu ngốc. Nếu bây giờ có gã thanh niên nào than vãn khổ sở vì thời thế, làm ra vẻ nghiêm túc đắc ý uống rượu say quên đời, chắc chắn tôi sẽ đấm cho gã một phát. Đấm không chần chừ do dự. Nhưng tôi bây giờ có khác gì gã thanh niên đó đâu? Chẳng phải như nhau ư? Chỉ khác biệt về tuổi tác mà điều đó lại càng làm mình bẩn thỉu hơn thôi. Cứ vênh váo đắc ý mãi vậy.

Tôi uống rượu với vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. Cho đến giờ tôi đã uống mấy ngàn mấy vạn thăng rồi nhỉ. Tôi vừa cảm thấy căm ghét vừa tiếp tục uống. Tôi chưa từng nghĩ rượu ngon lành chỗ nào. Thứ đắng nghét đó tôi không hề muốn uống. Tôi muốn từ bỏ. Tôi nghĩ uống rượu là một loại tội lỗi. Chắc chắn là tội lỗi. Thế nhưng rượu đã cứu vớt đời tôi. Tôi không bao giờ quên điều đó. Có vẻ vì tôi là một khối tội lỗi nên thích hợp uống rượu để dùng độc trị độc chăng? Rượu giúp tôi khỏi phát điên, giúp tôi tránh khỏi việc tự sát. Tôi là một người yếu đuối ti tiện đến mức nếu không uống rượu để lừa gạt cảm xúc của mình thì không thể nói chuyện với bạn bè đàng hoàng được.

Tôi đã chếnh choáng say. Cô phục vụ ở quán sushi năm nay hai mươi bảy tuổi. Nghe nói cô đã lập gia đình nhưng ly hôn rồi đến làm việc ở đây.

“Mình à”, cô nói và ghé sát chỗ bàn tôi ngồi. Vẻ mặt vô cùng nghiêm túc. “Chuyện này nghe hơi kỳ lạ một chút nhưng mà”, cô xoay người nhìn về chỗ quầy tính tiền rồi hạ giọng thì thầm. “Không biết trong số bạn bè quen biết của mình có thể lấy một người như em không nhỉ?”

Tôi nhìn chăm chú vào mặt cô ta. Đúng là cô phục vụ rất nghiêm túc, không cười một chút nào. Ngay từ đầu cô đã là người đàng hoàng nghiêm túc nên chắc không có vẻ gì là bỡn cợt đùa giỡn tôi đâu.

“Chà, chuyện này”, tôi cũng không thể không nghiêm túc. “Không phải là không có đâu nhưng sao lại nhờ tôi chuyện này cơ chứ?”

“À, em định sẽ nhờ hết những người khách dễ tính đến quán này giúp em luôn”.

“Kỳ lạ thế nhỉ?”, tôi khẽ mỉm cười.

Cô phục vụ cũng nhếch một bên má mà cười.

“Càng ngày em càng có tuổi. Mà lại truân chuyên một lần đò rồi nên người già chút cũng không sao hết. Em cũng chẳng mong cầu được chỗ tốt đẹp như người ta đâu”.

“Chà ba chuyện này thì tôi cũng không biết gì”.

“Cũng không vội vàng gì đâu mà. Mình cứ lưu tâm giúp em là được. À, mà em cũng có danh thiếp đây”. Cô ta nói rồi vội vàng lấy ra cái danh thiếp nhỏ giấu trong ống tay áo. “Mặt sau danh thiếp em có ghi địa chỉ chỗ này cho nên nếu tìm được người thích hợp mình vui lòng gửi danh thiếp hay gì đến đây báo em biết trước nhé. Rất xin lỗi đã làm phiền mình nhiều. Cho dù người ta có mấy đứa con riêng em cũng không phiền hà gì đâu”.

Tôi im lặng cầm lấy tấm danh thiếp, nhét vào tay áo.

“Để tôi tìm thử xem nhưng tôi không thể hứa trước gì đâu. Phiền cô tính tiền giùm nhé”.

Tôi rời quán sushi, trên đường quay về nhà cứ cảm thấy vô cùng kỳ lạ. Tôi nghĩ mình đã nhìn thấy một phần của xu hướng, trào lưu hiện đại. Một thế kỷ nghiêm túc đến mức trắng trợn. Chúng ta không thể tác động vào được chút gì. Về đến nhà tôi lại trở nên câm nín. Tôi im lặng đưa cái ví đã vơi bớt mấy phần cho vợ mình, định nói điều gì đó nhưng lại thôi. Tôi ăn món cơm trà rồi đọc báo buổi chiều. Tàu vẫn tiếp tục chạy. Bây giờ qua núi, bây giờ qua vịnh, qua chiếc cầu sắt bắt ngang… Bài ca của người thiếu nữ sao mà buồn thảm.

“Này than còn đủ dùng không em. Anh nghe nói là thiếu hụt ghê lắm”.

“Không sao đâu anh. Báo đài làm quá lên thôi. Đến lúc đó thì tùy hình mà xoay xở vậy”.

“Đúng nhỉ. Em trải mền ra giùm anh đi. Tối nay anh ngừng viết một đêm để nghỉ ngơi”.

Hơi rượu đã tan. Mỗi khi tỉnh rượu tôi lại trằn trọc khó ngủ. Giả vờ ngủ ngáy lớn tiếng một chút rồi tôi dậy đọc tờ báo phát hành buổi chiều. Tự nhiên tôi thấy tờ báo hiện đầy những khuôn mặt cười giả lả đê tiện rồi thoáng chốc lại biến mất đi. Tôi nghĩ thầm tất cả đều đê tiện thật. Tất cả đều không có chút tự tin nào. Tôi ném tờ báo đi, dùng hai lòng tay áp lên tròng mắt một lúc lâu. Tôi tin rằng làm như vậy mình sẽ nhanh chóng buồn ngủ. Tôi nhớ lại vũng nước sáng nay. Chừng nào vũng nước kia còn thì mình cũng tiếp tục… tôi nghĩ. Tôi cố gắng bắt mình phải nghĩ như thế. Quả nhiên tôi là một nghệ sĩ đường phố. Cho dù khổ sở đến mấy thì tôi cũng chỉ còn cách tiếp tục chơi chiếc đàn violon của riêng mà thôi. Đường hướng của con tàu đi cứ giao cho những nhà chí sĩ vậy. Hai từ “chờ đợi” chợt hiện ra sáng ngời trên trán của tôi. Chờ đợi điều gì tôi cũng chẳng biết nữa. Nhưng đó là một từ cao quý. Loài chim hải âu câm nín kia cứ lang thang quanh quẩn ngoài khơi nghĩ như thế nhưng vẫn tiếp tục im lặng mà luẩn quẩn loanh quanh.

Hoàng Long dịch từ nguyên tác Nhật ngữ

Đọc bài viết

Sáng tác

Thơ: Lau nước mắt và lại đi… (Lavender So Blue)

Published

on

Em có biết không?
Tự do từ đâu mà có
Câu chuyện từ đâu mà được kể
Những bài báo vui buồn từ đâu mà viết ra
Em có biết không?
Niềm tin từ đâu mà có
Mảnh đất này còn bao sự diệu kỳ
Đâu phải chỉ có những xót xa
Lấy trời làm nhà
Đất làm chăn ấm
Gió gội mái đầu xanh và biển bạc tắm ướt đẫm da vàng
Chốn thị phi
Người cô độc than khóc
Kẻ lỡ làng đi tìm tri kỷ
Còn ta chỉ là người hay khóc
Lau nước mắt và lại đi…

Lavender So Blue

Đọc bài viết

Cafe sáng