Phía sau trang sách

Tôi đọc lại Rừng Na Uy

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ.

Published

on

Tôi đọc lại Rừng Na Uy ở tuổi 25. Cách đây năm năm, tôi đọc quyển sách lần đầu chỉ vì vài dòng chia sẻ của anh Phan Xine. Khi ấy bộ phim chuyển thể của Trần Anh Hùng vừa ra mắt. Anh viết, đại loại như ước gì có thể đọc quyển sách vào năm mười tám, đôi mươi, để rồi có cơ hội đọc lại ở tuổi 24, 25. Tôi vẫn còn cơ hội ấy nên không muốn lỡ mất.

Khi ấy, ấn tượng để lại không quá đặc biệt. Đa phần là vừa bị kích thích vừa thấy sượng sạo với các đoạn miêu tả tình dục, có lẽ do lớp nền văn học còn hạn chế. Không phải vì chưa từng đọc những thứ tương tự, thậm chí còn loang lỗ và ghê tởm hơn (có lẽ nên dùng từ này) trong quyển Song song của Vũ Đình Giang. Nhưng tình dục trong Rừng Na Uy là thứ gì đó quá sức chịu đựng, hoặc quá bao trùm và lấn át hết những cảm xúc khác.

Tôi nhớ trong lớp đại học có rất nhiều bạn yêu mến quyển sách này. Có một bạn luôn lấy nick trên mạng là Midori, vì yêu mến tính cách và cách sống của cô. Đôi khi các cuộc trò chuyện dẫn về quyển sách, và thường là lời khen ngợi. Bản thân tôi thấy nó chỉn chu, nhưng không hề chạm vào được cảm xúc riêng. Tôi tự hỏi những lời khen đó là thật, hay vì người ta đã mặc định rằng Rừng Na Uy là tuyệt phẩm nên khen hùa vào, và cho đó là thời thượng? Tôi không biết. Năm đó, tôi cũng không xem bộ phim.

Dù vậy, lúc nào trên kệ sách (hoặc khi chưa có kệ là chồng sách) của tôi cũng có một quyển Rừng Na Uy. Không vì lý do đặc biệt nào. Nếu mất, hay cho bạn bè mượn mà quên mất là ai (tôi chỉ mới có thói quen giữ sách hơn một năm nay), tôi sẽ mua lại nếu thấy trong nhà sách.

Chủ Nhật vừa rồi, tôi dành một ngày để đọc Rừng Na Uy từ đầu đến cuối. Ở tuổi 25 này. Tôi có cảm giác như vừa đọc nó lần đầu tiên. Rất dễ đoán rằng, nó hay hơn rất nhiều so với lần đọc trước. Nó chạm vào tôi dễ dàng như thở, và khiến tôi nhận ra nhiều điều. Dưới đây là những cảm nhận.

– Tôi đã hiểu điều anh Phan Xine muốn nói trong những dòng chia sẻ đó. Rừng Na Uy giống như chiếc máy ảnh. Khi ta đọc nó ở tuổi 20, nó lưu giữ hình ảnh ta trong đó, ngây ngô và khờ khạo. Khi đọc lại ở tuổi 25, không phải ta gặp lại các nhân vật hay câu chuyện, mà gặp lại chính mình. Nó hình thành hai đầu mốc để ta có thể nhìn lại và nhận ra đã thay đổi nhiều như thế nào.

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Lớp nền đó không hẳn là kiến thức hay óc phân tích, mà còn là trải nghiệm cuộc sống. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ. Tôi xúc động ngay từ cảnh Naoko và Toru đốt nến mừng sinh nhật trong phòng cô, và nói về việc sống đi sống lại giữa tuổi 18 và 19 trước khi cô vỡ òa. Tôi đã chẳng mảy may để ý ở lần đọc trước. Tiếng lòng của các nhân vật đã chạm được vào tôi, hoặc tôi chạm được vào họ, tôi hiểu họ, từ đó đồng cảm và phần nào đó, hiểu hơn chính mình.

– Tôi bắt đầu nghe The Beatles khoảng năm 21 hay 22 tuổi, hoàn toàn tự nhiên. Trước đó, khi còn bé, tôi đã từng nghe họ và có phần thất vọng về giai điệu và lời hát. Bẵng đi một thời gian, tôi xem bộ phim nhạc kịch Across The Universe, bạn có thể thấy ngay từ tên gọi, sử dụng tất cả các bản nhạc của họ. Tôi ngạc nhiên vì thấy khác hẳn những gì mình từng nghe trước đó. Tôi tìm lại và lần này, hoàn toàn đắm chìm vào thế giới đó. Tôi tìm nghe nhiều hơn, và lạ lùng là, những giai điệu từng nhàm chán bỗng trở nên đầy màu sắc, có không khí riêng.

Lần này, tôi có thể hiểu được tất cả, và thấy thật thú vị với những liên hệ và lối so sánh mà Rừng Na Uy dành cho các bài hát The Beatles. Đều là những bài tôi yêu thích. Như Michelle là cảm giác “đang ở trên đồng cỏ dưới làn mưa nhè nhẹ”, hay bản Rừng Na Uy chủ đề để miêu tả sự cô độc lạnh lẽo mà Naoko phải chịu đựng. Cả nơi cô chọn cũng là một cánh rừng âm u, tôi biết, vì gần nhất với không gian mà Rừng Na Uy tạo ra. Nhiều lần tôi muốn hét lên “Đúng là thế đấy!”. Ngoài ra, Haruki còn gợi đến rất nhiều bộ phim cũ, mà tôi đều đã xem, như The Graduate. Nhờ đó, tôi cảm thấy được sự gần gũi, và đọc quyển sách với sự thú vị cực kỳ.

– Gần đây nhất, những người bạn của tôi có nhắc về quyển sách và một người miêu tả là quyển sách rất “dễ thương”. Một bạn khác phản đối, nói rằng có thể dùng nhiều tính từ để nói về Rừng Na Uy, nhưng chưa bao giờ nghĩa là “dễ thương.” Trịnh Lữ dùng từ chính xác hơn, là “dí dỏm”. Nghĩa là sự hài hước khéo léo và tinh tế, và không làm hỏng mất không khí chung. Tôi để ý, và nhận ra ngay khi nào sự “dí dỏm” đó xuất hiện, không chỉ ở riêng Midori. Naoko cũng khá dí dỏm khi lầm bầm “Chơi gái suốt mà,” và cả những từ ngữ lựa chọn cho các phép miêu tả. Dễ thấy rằng ta phải bật cười nhiều lần, hơi kỳ quặc so với nội dung quyển sách, khi đọc nó.

Lần trước, tôi đọc mà bỏ qua rất nhiều đoạn miêu tả cảnh, vì thấy khá mệt mỏi. Lần này tôi đọc từng từ từng chữ một. Năm năm qua, tôi đã đọc rất nhiều sách của Haruki, kể cả những quyển có dung lượng khá đồ sộ như Kafka hay Biên niên ký, tôi đã quen với lối miêu tả của ông. Quyển xuất sắc nhất, và có ảnh hưởng một phần đến văn phong của tôi là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và nơi tận cùng thế giới. Tuy nhiên, Rừng Na Uy nằm ở nơi nào đó khác, tách biệt hẳn với các quyển sách khác. Lúc nào cũng như có một màn sương bàng bạc lẫn giữa các câu chữ, và các lối so sánh. Tôi rất thích cách dùng từ, như đoạn văn cuối “cái im lặng của tất cả các làn mưa bụi trên khắp thế gian đang rơi xuống tất cả các sân cỏ mới xén trên khắp thế gian.” Không quyển sách nào của ông có lại lối dùng từ như thế, ngay cả quyển có nội dung ký ức rất gần là Tazaki Tsukuru. Nó lóng lánh theo một cách riêng.

– Tình dục trở thành thứ yếu trong lần đọc này. Khi đọc gần hết, tôi mới nhận ra mình chẳng thèm để ý gì đến những cảnh miêu tả tình dục nữa, nó trở nên thật bình thường, hoặc bình dị. Tôi không rõ là do mình đã đọc nhiều quyển sách với nội dung tương tự, hay lối miêu tả của Haruki đã trở nên dễ chịu hơn. Hoặc có thể vì nó hòa quyện hẳn vào nội dung, vào các nhân vật và tính cách của họ để trở nên dễ chịu. Không còn là cảm giác gây sốc như trước đây, thậm chí tôi quên hẳn để chú ý vào những cảnh khác. Tôi yêu mến khi Midori và Toru ở trên sân thượng cửa hàng tạp hóa và hôn nhau dưới cơn mưa, rồi sau đó cuộn tròn trong chăn hỏi về lũ kiến, hơn là các đụng chạm sau đó. Tôi để ý đến góc nhìn từ phía sau lên Naoko, lên bờ vai cô và một phần tai lộ ra, hơn là những miêu tả tay hay môi. Thật lạ lùng.

– Thứ đọng lại trong tôi nhiều nhất, quả thật, là tiếng lòng tự nhiên giản dị, như Trịnh Lữ đã miêu tả. Rừng Na Uy không đồ sộ như dung lượng hay ấn tượng ban đầu, nó ngắn gọn, ít sự kiện, và đi về chiều sâu hơn là độ dài. Tôi có thể thấy đôi chỗ lộp chộp, hoặc khập khiễng, nhưng nó vẫn nằm trong một tổng thể xúc động và mênh mang. Làm sao ông có thể bắt được tuổi trẻ ở độ tuổi 35, 36 khi viết quyển sách này? Nhưng nghĩ lại, những nhà biên kịch viết nên câu chuyện trong Buzzer Beat còn lớn tuổi hơn, đã ngoài 50. Tuổi trẻ ở trong lòng họ, không ở độ tuổi, và việc thể hiện được nó nằm ở tài năng và kỹ năng, nhiều hơn ở việc đang ở trong nó. Haruki từng muốn viết ở độ tuổi 22, 23, nhưng ông bỏ ngang vì chẳng có gì để viết, không trải nghiệm và không kỹ năng. Tôi có thể hiểu nỗi bức bối của việc có một câu chuyện nhưng không làm cách nào để thể hiện nó theo đúng như mình mong muốn, như thể chạy đua mà trên mình mang một lớp giáp nặng, hoặc muốn viết bằng ngôn ngữ khác. Đúng như lời bạn Nh từng nói, viết không phải chuyện ngày một ngày hai, và chính Haruki đã bảo nên sống thật chân thành trước đã.

Tôi có thể cảm thấy từ trong tâm can mình gần như cảm xúc và tình cảm của các nhân vật, với mối liên hệ gần gũi, dù cho chưa từng sống ở những năm 60 hay trải qua những hoàn cảnh tương tự. Từng cái riêng của Naoko, Toru và Midori cũng chỉ là cái chung của biết bao nhiêu thế hệ trẻ, chung gốc rễ là nỗi cô đơn và hoang mang của tuổi trưởng thành và việc thích nghi với nó, với việc lớn lên. Khi nhìn lại ở tuổi 25 này, tôi thấy rằng cái chốt để gỡ bỏ, hay chiếc chìa khóa, hay bất kỳ tên gọi nào về thứ động lực để khiến con người trưởng thành, là nỗi đau. Tình yêu lớn và nỗi đau lớn, gắn bó với nhau như thể thống nhất, như sống và chết, chỉ khi họ học được cách để bước tiếp cùng với nó, chấp nhận nó cũng như chấp nhận bản thân cùng sự bất toàn, cũng như sự bất toàn của mọi thứ trên đời, họ mới có thể sống tiếp thật trọn vẹn. Muôn đời chẳng phải là thế sao? Và trong số những người bước đi, sẽ luôn có những người ở lại, như Naoko. Cái thắt lòng của Rừng Na Uy, cũng như vẻ đẹp của nó, là việc chấp nhận nhưng không bao giờ hiểu nguyên do nào, không thể hiểu được vì sao, cũng như không thể thay đổi, chúng ta không thể làm được gì khác ngoài việc tiếp tục sống, và yêu, và tiếp tục đối diện với nỗi mất mát sẽ diễn ra suốt cuộc đời còn lại. Điều đẹp đẽ nằm ở tấm lòng muốn sống, và muốn yêu, một cách chân thành.

Cuối cùng, tôi xem lại một vài cảnh phim Rừng Na Uy, tôi đã thử xem cách đây vài năm mà không thể xem hết, hoặc không muốn xem hết. Đó là cảnh Naoko và Toru trong ngày sinh nhật lần thứ 20. Mọi thứ đều có vẻ phù hợp và đúng không khí, căn phòng, cách trang trí, màu phim, cơn mưa, nhưng chẳng thể nào mang đến được cảm giác đó, chính là thất bại của phim. Có lẽ là ở nhân vật, vẫn chỉ là những con người cố gắng vào vai những Naoko và Toru, hoặc sẽ chẳng có nhân vật nào thay thế nổi hình ảnh của họ từ tâm trí người đã đọc qua quyển sách. Hoặc có thể ở cách tiếp cận và góc quay, tôi cảm nhận không khí đó còn nhiều hơn ở cảnh trong lớp chăn phim Mr. Nobody, hay Let The Right One In, hay Groundhog Day, là cảm giác về sự đụng chạm giữa các tâm hồn, nhẹ nhàng, ấm áp và cũng đớn đau. Việc thể hiện nó bằng ngôn ngữ hình ảnh gần như là việc không thể. Vì thế nên, nói rằng điện ảnh là thể loại mới nhất và vượt trội nhất cũng đúng, nhưng hơn hẳn hoàn toàn các thể loại nghệ thuật khác là khập khiễng rồi. Điện ảnh cũng có những giới hạn không thể vượt qua, hay chưa thể vượt qua. Đó là điều khiến cho mỗi loại nghệ thuật đều có vị trí và sức hút riêng, cho đến tận bây giờ.

Chỉ có một điều tôi chưa hiểu ở lần đọc này, là việc Toru cảm thấy rung động trước Hatsumi, cái khuấy động mà cậu gọi là “đánh thức bản ngã”, tôi vẫn chưa hiểu được cảm xúc ấy là thế nào. Có lẽ là một sự để dành, cho năm năm sau nữa. Nếu tôi còn sống.

Hết.

Phương Nam


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng