Phía sau trang sách

Tôi đọc lại Rừng Na Uy

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ.

Published

on

Tôi đọc lại Rừng Na Uy ở tuổi 25. Cách đây năm năm, tôi đọc quyển sách lần đầu chỉ vì vài dòng chia sẻ của anh Phan Xine. Khi ấy bộ phim chuyển thể của Trần Anh Hùng vừa ra mắt. Anh viết, đại loại như ước gì có thể đọc quyển sách vào năm mười tám, đôi mươi, để rồi có cơ hội đọc lại ở tuổi 24, 25. Tôi vẫn còn cơ hội ấy nên không muốn lỡ mất.

Khi ấy, ấn tượng để lại không quá đặc biệt. Đa phần là vừa bị kích thích vừa thấy sượng sạo với các đoạn miêu tả tình dục, có lẽ do lớp nền văn học còn hạn chế. Không phải vì chưa từng đọc những thứ tương tự, thậm chí còn loang lỗ và ghê tởm hơn (có lẽ nên dùng từ này) trong quyển Song song của Vũ Đình Giang. Nhưng tình dục trong Rừng Na Uy là thứ gì đó quá sức chịu đựng, hoặc quá bao trùm và lấn át hết những cảm xúc khác.

Tôi nhớ trong lớp đại học có rất nhiều bạn yêu mến quyển sách này. Có một bạn luôn lấy nick trên mạng là Midori, vì yêu mến tính cách và cách sống của cô. Đôi khi các cuộc trò chuyện dẫn về quyển sách, và thường là lời khen ngợi. Bản thân tôi thấy nó chỉn chu, nhưng không hề chạm vào được cảm xúc riêng. Tôi tự hỏi những lời khen đó là thật, hay vì người ta đã mặc định rằng Rừng Na Uy là tuyệt phẩm nên khen hùa vào, và cho đó là thời thượng? Tôi không biết. Năm đó, tôi cũng không xem bộ phim.

Dù vậy, lúc nào trên kệ sách (hoặc khi chưa có kệ là chồng sách) của tôi cũng có một quyển Rừng Na Uy. Không vì lý do đặc biệt nào. Nếu mất, hay cho bạn bè mượn mà quên mất là ai (tôi chỉ mới có thói quen giữ sách hơn một năm nay), tôi sẽ mua lại nếu thấy trong nhà sách.

Chủ Nhật vừa rồi, tôi dành một ngày để đọc Rừng Na Uy từ đầu đến cuối. Ở tuổi 25 này. Tôi có cảm giác như vừa đọc nó lần đầu tiên. Rất dễ đoán rằng, nó hay hơn rất nhiều so với lần đọc trước. Nó chạm vào tôi dễ dàng như thở, và khiến tôi nhận ra nhiều điều. Dưới đây là những cảm nhận.

– Tôi đã hiểu điều anh Phan Xine muốn nói trong những dòng chia sẻ đó. Rừng Na Uy giống như chiếc máy ảnh. Khi ta đọc nó ở tuổi 20, nó lưu giữ hình ảnh ta trong đó, ngây ngô và khờ khạo. Khi đọc lại ở tuổi 25, không phải ta gặp lại các nhân vật hay câu chuyện, mà gặp lại chính mình. Nó hình thành hai đầu mốc để ta có thể nhìn lại và nhận ra đã thay đổi nhiều như thế nào.

Để cảm nhận được một tác phẩm hay, cần có một lớp nền vững chắc. Lớp nền đó không hẳn là kiến thức hay óc phân tích, mà còn là trải nghiệm cuộc sống. Chưa từng trải qua nỗi đau sẽ không hiểu được nỗi đau. Chưa từng trải qua cô đơn thì không hiểu được tình yêu. Chưa từng trải qua tuổi trẻ sẽ không hiểu được tuổi trẻ. Tôi xúc động ngay từ cảnh Naoko và Toru đốt nến mừng sinh nhật trong phòng cô, và nói về việc sống đi sống lại giữa tuổi 18 và 19 trước khi cô vỡ òa. Tôi đã chẳng mảy may để ý ở lần đọc trước. Tiếng lòng của các nhân vật đã chạm được vào tôi, hoặc tôi chạm được vào họ, tôi hiểu họ, từ đó đồng cảm và phần nào đó, hiểu hơn chính mình.

– Tôi bắt đầu nghe The Beatles khoảng năm 21 hay 22 tuổi, hoàn toàn tự nhiên. Trước đó, khi còn bé, tôi đã từng nghe họ và có phần thất vọng về giai điệu và lời hát. Bẵng đi một thời gian, tôi xem bộ phim nhạc kịch Across The Universe, bạn có thể thấy ngay từ tên gọi, sử dụng tất cả các bản nhạc của họ. Tôi ngạc nhiên vì thấy khác hẳn những gì mình từng nghe trước đó. Tôi tìm lại và lần này, hoàn toàn đắm chìm vào thế giới đó. Tôi tìm nghe nhiều hơn, và lạ lùng là, những giai điệu từng nhàm chán bỗng trở nên đầy màu sắc, có không khí riêng.

Lần này, tôi có thể hiểu được tất cả, và thấy thật thú vị với những liên hệ và lối so sánh mà Rừng Na Uy dành cho các bài hát The Beatles. Đều là những bài tôi yêu thích. Như Michelle là cảm giác “đang ở trên đồng cỏ dưới làn mưa nhè nhẹ”, hay bản Rừng Na Uy chủ đề để miêu tả sự cô độc lạnh lẽo mà Naoko phải chịu đựng. Cả nơi cô chọn cũng là một cánh rừng âm u, tôi biết, vì gần nhất với không gian mà Rừng Na Uy tạo ra. Nhiều lần tôi muốn hét lên “Đúng là thế đấy!”. Ngoài ra, Haruki còn gợi đến rất nhiều bộ phim cũ, mà tôi đều đã xem, như The Graduate. Nhờ đó, tôi cảm thấy được sự gần gũi, và đọc quyển sách với sự thú vị cực kỳ.

– Gần đây nhất, những người bạn của tôi có nhắc về quyển sách và một người miêu tả là quyển sách rất “dễ thương”. Một bạn khác phản đối, nói rằng có thể dùng nhiều tính từ để nói về Rừng Na Uy, nhưng chưa bao giờ nghĩa là “dễ thương.” Trịnh Lữ dùng từ chính xác hơn, là “dí dỏm”. Nghĩa là sự hài hước khéo léo và tinh tế, và không làm hỏng mất không khí chung. Tôi để ý, và nhận ra ngay khi nào sự “dí dỏm” đó xuất hiện, không chỉ ở riêng Midori. Naoko cũng khá dí dỏm khi lầm bầm “Chơi gái suốt mà,” và cả những từ ngữ lựa chọn cho các phép miêu tả. Dễ thấy rằng ta phải bật cười nhiều lần, hơi kỳ quặc so với nội dung quyển sách, khi đọc nó.

Lần trước, tôi đọc mà bỏ qua rất nhiều đoạn miêu tả cảnh, vì thấy khá mệt mỏi. Lần này tôi đọc từng từ từng chữ một. Năm năm qua, tôi đã đọc rất nhiều sách của Haruki, kể cả những quyển có dung lượng khá đồ sộ như Kafka hay Biên niên ký, tôi đã quen với lối miêu tả của ông. Quyển xuất sắc nhất, và có ảnh hưởng một phần đến văn phong của tôi là Xứ sở diệu kỳ tàn bạo và nơi tận cùng thế giới. Tuy nhiên, Rừng Na Uy nằm ở nơi nào đó khác, tách biệt hẳn với các quyển sách khác. Lúc nào cũng như có một màn sương bàng bạc lẫn giữa các câu chữ, và các lối so sánh. Tôi rất thích cách dùng từ, như đoạn văn cuối “cái im lặng của tất cả các làn mưa bụi trên khắp thế gian đang rơi xuống tất cả các sân cỏ mới xén trên khắp thế gian.” Không quyển sách nào của ông có lại lối dùng từ như thế, ngay cả quyển có nội dung ký ức rất gần là Tazaki Tsukuru. Nó lóng lánh theo một cách riêng.

– Tình dục trở thành thứ yếu trong lần đọc này. Khi đọc gần hết, tôi mới nhận ra mình chẳng thèm để ý gì đến những cảnh miêu tả tình dục nữa, nó trở nên thật bình thường, hoặc bình dị. Tôi không rõ là do mình đã đọc nhiều quyển sách với nội dung tương tự, hay lối miêu tả của Haruki đã trở nên dễ chịu hơn. Hoặc có thể vì nó hòa quyện hẳn vào nội dung, vào các nhân vật và tính cách của họ để trở nên dễ chịu. Không còn là cảm giác gây sốc như trước đây, thậm chí tôi quên hẳn để chú ý vào những cảnh khác. Tôi yêu mến khi Midori và Toru ở trên sân thượng cửa hàng tạp hóa và hôn nhau dưới cơn mưa, rồi sau đó cuộn tròn trong chăn hỏi về lũ kiến, hơn là các đụng chạm sau đó. Tôi để ý đến góc nhìn từ phía sau lên Naoko, lên bờ vai cô và một phần tai lộ ra, hơn là những miêu tả tay hay môi. Thật lạ lùng.

– Thứ đọng lại trong tôi nhiều nhất, quả thật, là tiếng lòng tự nhiên giản dị, như Trịnh Lữ đã miêu tả. Rừng Na Uy không đồ sộ như dung lượng hay ấn tượng ban đầu, nó ngắn gọn, ít sự kiện, và đi về chiều sâu hơn là độ dài. Tôi có thể thấy đôi chỗ lộp chộp, hoặc khập khiễng, nhưng nó vẫn nằm trong một tổng thể xúc động và mênh mang. Làm sao ông có thể bắt được tuổi trẻ ở độ tuổi 35, 36 khi viết quyển sách này? Nhưng nghĩ lại, những nhà biên kịch viết nên câu chuyện trong Buzzer Beat còn lớn tuổi hơn, đã ngoài 50. Tuổi trẻ ở trong lòng họ, không ở độ tuổi, và việc thể hiện được nó nằm ở tài năng và kỹ năng, nhiều hơn ở việc đang ở trong nó. Haruki từng muốn viết ở độ tuổi 22, 23, nhưng ông bỏ ngang vì chẳng có gì để viết, không trải nghiệm và không kỹ năng. Tôi có thể hiểu nỗi bức bối của việc có một câu chuyện nhưng không làm cách nào để thể hiện nó theo đúng như mình mong muốn, như thể chạy đua mà trên mình mang một lớp giáp nặng, hoặc muốn viết bằng ngôn ngữ khác. Đúng như lời bạn Nh từng nói, viết không phải chuyện ngày một ngày hai, và chính Haruki đã bảo nên sống thật chân thành trước đã.

Tôi có thể cảm thấy từ trong tâm can mình gần như cảm xúc và tình cảm của các nhân vật, với mối liên hệ gần gũi, dù cho chưa từng sống ở những năm 60 hay trải qua những hoàn cảnh tương tự. Từng cái riêng của Naoko, Toru và Midori cũng chỉ là cái chung của biết bao nhiêu thế hệ trẻ, chung gốc rễ là nỗi cô đơn và hoang mang của tuổi trưởng thành và việc thích nghi với nó, với việc lớn lên. Khi nhìn lại ở tuổi 25 này, tôi thấy rằng cái chốt để gỡ bỏ, hay chiếc chìa khóa, hay bất kỳ tên gọi nào về thứ động lực để khiến con người trưởng thành, là nỗi đau. Tình yêu lớn và nỗi đau lớn, gắn bó với nhau như thể thống nhất, như sống và chết, chỉ khi họ học được cách để bước tiếp cùng với nó, chấp nhận nó cũng như chấp nhận bản thân cùng sự bất toàn, cũng như sự bất toàn của mọi thứ trên đời, họ mới có thể sống tiếp thật trọn vẹn. Muôn đời chẳng phải là thế sao? Và trong số những người bước đi, sẽ luôn có những người ở lại, như Naoko. Cái thắt lòng của Rừng Na Uy, cũng như vẻ đẹp của nó, là việc chấp nhận nhưng không bao giờ hiểu nguyên do nào, không thể hiểu được vì sao, cũng như không thể thay đổi, chúng ta không thể làm được gì khác ngoài việc tiếp tục sống, và yêu, và tiếp tục đối diện với nỗi mất mát sẽ diễn ra suốt cuộc đời còn lại. Điều đẹp đẽ nằm ở tấm lòng muốn sống, và muốn yêu, một cách chân thành.

Cuối cùng, tôi xem lại một vài cảnh phim Rừng Na Uy, tôi đã thử xem cách đây vài năm mà không thể xem hết, hoặc không muốn xem hết. Đó là cảnh Naoko và Toru trong ngày sinh nhật lần thứ 20. Mọi thứ đều có vẻ phù hợp và đúng không khí, căn phòng, cách trang trí, màu phim, cơn mưa, nhưng chẳng thể nào mang đến được cảm giác đó, chính là thất bại của phim. Có lẽ là ở nhân vật, vẫn chỉ là những con người cố gắng vào vai những Naoko và Toru, hoặc sẽ chẳng có nhân vật nào thay thế nổi hình ảnh của họ từ tâm trí người đã đọc qua quyển sách. Hoặc có thể ở cách tiếp cận và góc quay, tôi cảm nhận không khí đó còn nhiều hơn ở cảnh trong lớp chăn phim Mr. Nobody, hay Let The Right One In, hay Groundhog Day, là cảm giác về sự đụng chạm giữa các tâm hồn, nhẹ nhàng, ấm áp và cũng đớn đau. Việc thể hiện nó bằng ngôn ngữ hình ảnh gần như là việc không thể. Vì thế nên, nói rằng điện ảnh là thể loại mới nhất và vượt trội nhất cũng đúng, nhưng hơn hẳn hoàn toàn các thể loại nghệ thuật khác là khập khiễng rồi. Điện ảnh cũng có những giới hạn không thể vượt qua, hay chưa thể vượt qua. Đó là điều khiến cho mỗi loại nghệ thuật đều có vị trí và sức hút riêng, cho đến tận bây giờ.

Chỉ có một điều tôi chưa hiểu ở lần đọc này, là việc Toru cảm thấy rung động trước Hatsumi, cái khuấy động mà cậu gọi là “đánh thức bản ngã”, tôi vẫn chưa hiểu được cảm xúc ấy là thế nào. Có lẽ là một sự để dành, cho năm năm sau nữa. Nếu tôi còn sống.

Hết.

Phương Nam


Muôn màu của Haruki Murakami





Phía sau trang sách

Thế giới nội tâm u uẩn của những người phụ nữ dưới ngòi bút Dazai Osamu

Published

on

Thường người ta vẫn nghĩ rằng có phụ nữ mới hiểu nhau. Ít khi nào mà một người đàn ông có thể hiểu rõ chân tơ kẽ tóc người phụ nữ, đặc biệt là những rung động thầm kín tế vi hay những khát khao mãnh liệt. Trong chừng mực nào đó, một Don Juan hay Casanova có thể trở thành bậc thầy trong việc am hiểu tâm lý người phụ nữ để chinh phục, ghi dấu tình trường. Nhưng đặt mình vào thế đứng, vị trí của những người phụ nữ để cùng họ đồng cảm, đấu tranh vượt lên trên số phận đến mức viết được những tác phẩm kinh điển thì những văn hào đó chỉ đếm được trên đầu ngón tay. Ta có thể kể đến Nguyễn Du khi sáng tác “Đoạn trường tân thanh” (Truyện Kiều), Tào Tuyết Cần viết “Hồng lâu mộng”, Gustave Flaubert viết “Bà Bovary”, Tolstoy viết “Anna Karenina” và Dazai Osamu khi viết “Tà dương” hay “Nữ sinh”.

Dazai Osamu (1909-1948) là một nhà văn nổi tiếng của văn học Nhật Bản hiện đại. Kiệt tác “Thất lạc cõi người” của ông đã trở thành tác phẩm bán chạy nhất trong lịch sử văn học Nhật Bản với hơn mười triệu bản in. Tuy cuộc đời 39 năm ngắn ngủi của Dazai trải qua nhiều nỗi bi kịch với năm lần tự sát, nghiện thuốc giảm đau, ly dị vợ…nhưng tác phẩm của ông luôn chan chứa cái nhìn ấm áp trân trọng về những người phụ nữ. Những tác phẩm xuất sắc của Dazai như “Thất lạc cõi người”, “Tà dương”, “Người vợ Villon” mà chúng tôi dịch là “Vợ gã hoang đàng” đều được dựng thành phim. Trong đó “Nhân gian thất cách” (Thất lạc cõi người) đã được nhiều lần chuyển thể điện ảnh. Vì đây là tiểu thuyết tự thuật về cuộc đời Dazai nên thường cuộc đời Dazai được lồng ghép vào trong phim. Mới đây nhất bộ phim “Nhân gian thất cách và 3 người đàn bà trong cuộc đời Dazai” (人間失格 太宰治と3人の女たち) do nam diễn viên Oguri Shun đóng vai chính mới được công chiếu vào tháng 9 năm 2019 đã gây một làn sóng đồng cảm với Dazai trên toàn cõi Á Châu.

Như chúng tôi đã nhận định trong bài “Mưa trên thánh giá” (Lời tựa cho “Nữ sinh” lần tái bản thứ sáu, Nxb Hội nhà văn và Công ty Sách Phương Nam, trang 9):

“Con chim trước khi bay vào khu rừng sâu âm u hoang phế trong ánh chiều tà sắp tắt còn để lại một tiếng kêu thương ngân dài. Dazai đúng là như vậy. Từ mảnh tàn dư của văn chương vô mệnh (“Độc tiểu thanh ký” của Nguyễn Du “chi phấn hữu thần liên tử hậu, văn chương vô mệnh lụy phần dư”), cả một thế giới nội tâm u uẩn hiện ra không riêng gì Dazai mà của cả tinh thần Nhật Bản. Những người phụ nữ trong tác phẩm của ông từ thiếu nữ mười bốn tuổi nhẫn nhục cam chịu rồi phản kháng đến những người phụ nữ trung niên vẫy vùng giữa buổi tà dương đều không thoát ly khỏi dòng lịch sử với những buộc ràng thân phận gần như đến mức phi nhân. Với chính bản thân Dazai nữa, công cuộc sinh tồn đã là một trường đấu tranh mà để sống còn được đã là một chiến công hiển hách. Nhưng niềm trân trọng cùng sự xót xa thương cảm của Dazai đưa vào văn chương đã làm cho những dáng hình bé nhỏ kia và chính mình trở nên bất tử. Đó cũng chính là ân sủng của đau thương dành cho một đời văn ngắn ngủi. Nỗ lực âm thầm và đầy đau đớn của Dazai đã làm chúng ta nhận ra cả tiếng dế hắt hiu vọng lên từ xương cốt, những tiếng thét gào nhẫn nhục trong đêm câm, những giọt rượu mềm môi chát đắng và những giọt lệ nhỏ trên máu xương đều là lời ru ngọt của đoạn trường”.

Ngoài tiểu viết tiểu thuyết tự thuật (tư tiểu thuyết – 私小説) miêu tả trải nghiệm cá nhân, Dazai còn nổi tiếng về những tác phẩm xuất sắc miêu tả tâm lý và khắc họa tâm tình thời đại của người phụ nữ, từ một cô bé nữ sinh đến một người vợ đảm của nhà thơ nghèo. Tất nhiên không có một tác phẩm hư cấu nào gây đồng cảm và kinh ngạc cho độc giả mà không dựa vào trải nghiệm có thật. Như tác phẩm “Nữ sinh” được sáng tác dựa trên nhật ký của một độc giả nữ tên là Ariake Shizu (lúc bấy giờ 19 tuổi) gửi cho Dazai vào tháng 9 năm 1938, Dazai đã viết lại thành một truyện vừa nói về biến chuyển nội tâm của một nữ sinh 14 tuổi gói gọn trong vòng một ngày từ lúc thức dậy đến khi đi ngủ. Tâm lý bi quan trầm uất của một thiếu nữ tuổi dậy thì được ngòi bút xuất sắc của Dazai khắc họa bằng một văn phong vô cùng tinh tế. Ngay cả văn hào Kawabata Yasunari (người được giải thưởng Nobel văn chương đầu tiên của Nhật Bản với các kiệt tác “Xứ tuyết”, “Ngàn cánh hạc”, “Cố đô”…) cũng không tiếc lời khen ngợi. Và chính nhật ký của Ariake cũng đã trở thành một tư liệu văn học quý và được trưng bày tại bảo tàng văn học cận đại Aomori vào tháng 2 năm 2000. Cô bé nữ sinh trong tác phẩm vẫn mơ ước sống một cuộc đời đẹp đẽ mặc dù bắt đầu dần dần nhận thấy cuộc đời có nhiều cảnh trái ngang. “Cái lối giáo dục đạo đức ở trường lớp với những luật lệ của cuộc đời này vốn khác nhau quá xa, mà tôi biết rằng dần dần sự khác biệt này còn trở nên rộng lớn hơn nữa. Nếu như tuyệt đối tuân thủ theo những bài học đạo đức ở trường người đó sẽ bị xem là kẻ ngu ngốc lập dị, không thể thành đạt và trở nên bần cùng…Tôi muốn cái thứ đạo đức này nhanh chóng thay đổi. Nếu được vậy thì tôi sẽ không còn phải đê tiện và sống nhỏ giọt từ ngày này qua tháng khác không phải vì mình mà để chiều lòng người”…Đến tận bây giờ câu nói này vẫn gợi cho chúng ta suy ngẫm nhiều điều về giáo dục, nơi cách biệt giữa giáo điều và thực tiễn ngày càng sâu xa hơn.

Tà dương” được bình chọn là tác phẩm hay nhất của văn học Nhật Bản viết về thời hậu chiến nói về một gia đình quý tộc sa sút và sự can đảm đấu tranh để sống còn. Người mẹ quý tộc chết đi như chấm dứt tất cả sự đẹp đẽ của thời vàng son dĩ vãng. Chỉ còn lại Naoji ngập ngụa trong sự tự hủy lưu đày để cố gắng xóa nhòa đi cốt cách quý tộc nơi mình nhưng cuối cùng cũng phải tự sát vì “cuối cùng em vẫn là quý tộc”. Chỉ riêng Kazuko khi thức tỉnh rằng “con người được sinh ra vì tình yêu và cách mạng” mới quyết tâm sinh con với nhà văn Uehara, can đảm sống tiếp dù chỉ là một “nạn nhân” trong thời đại mới. Trong bức thư cuối cùng gửi Uehara, Kazuko đã viết: “Cuối cùng em đã hiểu tại sao có hòa bình, chiến tranh, các nghiệp đoàn, thương mại, chính trị trong cuộc đời này. Chắc là ông không biết đâu, phải không? Vì thế mà ông cứ bất hạnh mãi. Để em nói cho ông biết nhé. Đó là vì phụ nữ đẻ ra những đứa con ngoan”.

(Tất cả những trích dẫn được lấy từ tác phẩm “Tà dương” và “Nữ sinh” của Dazai Osamu, Hoàng Long dịch, nxb Phương Nam tái bản năm 2023 và 2024.)

Những đứa con ngoan đó chăm chỉ học hành trở thành những người con ưu tú của gia đình và dân tộc. Chính người con ngoan đó mới trở thành chính trị gia, nhà kinh doanh lỗi lạc và rồi từ đó chiến tranh, các cuộc chiến thương mại châm ngòi cho máu xương và hoang tàn đổ nát trên mặt đất này. Từ đó mặt đất chỉ còn đầy “nạn nhân”. Những người như Uehara tuy phóng đãng mà vô hại. Một đứa con ngoan nào đó có thể trở thành tội đồ cho cả nhân gian. Biết làm sao mà nói. Cuối cùng như nữ nhà văn Kakuta Mitsuyo trong bài cảm nhận về tác phẩm “Tà dương” đã phải thở than “đúng là cuộc đời này không có đạo lý nào cả”. Câu nói của Kazuko thật táng đởm kinh hồn, đủ khiến cho bao nhiêu tư tưởng gia phải ôm đầu xiểng liểng. Cái niềm kiêu hãnh ngất trời đó thật đúng là một bài ca nữ quyền chói lọi.

Bộ phim “Tà dương” với nữ diễn viên Miyamoto Mayu đóng vai Kazuko

Độc giả lúc mới đọc tác phẩm của Dazai thường cảm thấy sự suy sụp tự hủy và nhu nhược ủy mị. Có lẽ vì cái bóng quá lớn của đời tư được phản ánh trong “Thất lạc cõi người” đã khiến chúng ta trở nên thiên kiến. Nhưng khi đã đủ trải nghiệm cuộc đời để bình tâm đọc lại chúng ta sẽ nhận ra được hai điều cốt tủy.

Thứ nhất là tuy cuộc đời đầy đau thương và nhiều lần tìm đến cái chết nhưng tác phẩm của Dazai luôn mạnh mẽ đến mức ngạc nhiên. Như nhà văn Kakuta Mitsuyo đã nhận ra lúc mới đọc thì thấy có vẻ ủy mị yếu đuối nhưng khi đã từng trải đọc lại đều thấy tê người. Như câu kết truyện “Vợ gã hoang đàng”: “Nửa người nửa ngợm cũng không sao. Miễn mình còn sống là được rồi anh ạ”*. Câu nói này phải chăng hàm nghĩa dù bị đày đọa đau thương, dù nhân gian chối bỏ thì cuối cùng sự sống còn luôn là một chiến công hiển hách, đầy kiêu hãnh phẩm giá mà những con người yếu đuối tuyệt đối không thể hình dung.

(*Nguyên văn “人非人でもいいじゃないの。私たちは、生きていさえすればいいのよ”. Từ “nhân phi nhân” (人非人) nghĩa là tuy mang hình dáng con người nhưng đi chệch khỏi con đường làm người, nửa người nửa ngợm, không có phẩm giá con người)

Phim “Vợ gã hoang đàng” với nữ diễn viên Takako Matsu đóng vai chính

Như câu thơ của Ibaraki Noriko, một nhà thơ nữ Nhật Bản:

Cho dù vấp ngã bao lần

Tôi cũng phải tiếp tục sống

Dù không biết vì sao

Nhưng sống mới có thể bênh vực loài đang sống

この失敗にもかかわらず
私もまた生きてゆかねばならない
なぜかは知らず
生きている以上 生きものの味方をして

Thứ hai là tác phẩm của Dazai luôn khắc họa vẻ đẹp tâm hồn những người phụ nữ Nhật Bản với lòng trân trọng cảm thông. Điều lạ lùng là tất cả những nhân vật nhà thơ, họa sĩ, nhà văn trong tác phẩm Dazai vốn là những kẻ được trời ban cho khả năng thiên phú tìm kiếm cái đẹp và sống vì nó thì lại hết sức tầm thường dung tục, ham luyến hư danh còn những người phụ nữ của họ thì lại vô cùng đẹp đẽ dù trong hoàn cảnh giản dị hay cao sang. Trong “Tà dương” Naoji đã nhìn thấy nét đẹp dịu dàng đời thường của vị phu nhân họa sĩ “Bầu trời chiều mùa đông Tokyo xanh ngắt, nàng ôm con gái ngồi bên cửa sổ như chẳng để làm gì. Cái gương mặt nghiêng nghiêng đoan chính với những đường nét thanh tú nổi bật lên nền trời, đẹp như một bức tranh chân dung thời Phục Hưng”. Ngoài ra cung cách hành xử của người vợ của nhà thơ Otani trong truyện “Vợ gã hoang đàng” lúc nghe tin chủ quán rượu đến đòi nợ, khi đút khoai cho con ăn nơi chiếc ghế đá sứt mẻ bên bờ ao công viên Inokashira cho đến khi trả hết nợ và chờ chồng mình trở về hay phu nhân của nhà văn trong tác phẩm “Một ngày trọng đại”, vợ của ký giả trong truyện “Người vợ”…đều được khắc họa cao quý vô song. Đặc biệt là người vợ họa sĩ trong tác phẩm “Tiếng dế nỉ non” đã không chịu nổi sự thay đổi biến chất vì hư vinh của chồng mình đã quyết tâm chia tay “Vì em cảm thấy rằng tự sát chính là thứ tội lỗi ghê gớm nhất cho nên em nghĩ sau khi chia tay anh mình sẽ cố gắng sống thử cách sống mà mình cho là đúng đắn một thời gian xem sao. Anh làm cho em hãi sợ. Có lẽ trên thế gian này, cách sống của anh là đúng đắn đấy. Tuy nhiên em không thể nào tiếp tục sống như vậy được nữa”.

Tại sao những người phụ nữ trong tác phẩm của Dazai lại đẹp đến thế? Có lẽ vì trong sâu thẳm tim mình họ luôn có một thứ ánh sáng dù hiu hắt chiếu soi, trong tâm tư mình có một tiếng lòng đẹp đẽ không bao giờ tắt đi bất chấp hoàn cảnh, thời đại. Như câu kết của tác phẩm “Tiếng dế nỉ non”:

Khi em tắt đèn nằm ngửa nhìn lên trần nhà thì nghe dưới lưng em có tiếng dế kêu rền rĩ. Tiếng dế kêu ở dưới hành lang bên ngoài nhưng nghe vang vọng ngay từ dưới lưng em khiến em cảm thấy tiếng dế như nỉ non từ trong xương sống của em vậy. Em định sẽ sống cả đời với tiếng kêu hiu hắt nhỏ bé kia cất giữ mãi trong xương cốt. Có lẽ trên thế gian này, anh đã làm đúng còn em mới là người sai chăng? Thế nhưng em lại không biết mình sai ở đâu, sai như thế nào và tại sao mình sai nữa”.

Có lẽ cuộc đời này không có đúng sai. Chỉ có những gã đàn ông dung tục, những đứa con ngoan và những người phụ nữ đẹp đẽ đang cùng nhau tranh đấu và sống theo kiểu của riêng mình thôi chăng? Không có một đáp án chung cho tất cả mọi người. Như thế chúng ta phải dùng chính đôi mắt của mình để phân biệt giá trị xem điều gì là phù hợp hay không phù hợp. Từ đó mà tiếp tục hiên ngang sống. Sự mạnh mẽ quyết đoán đó ngạc nhiên thay lại toát ra từ những con người nhỏ bé, yếu đuối, “dù biết thua cuộc nhưng vẫn không ngừng đấu tranh”.

Đó có lẽ là điều Dazai Osamu muốn gửi gắm qua tác phẩm.

Và độc giả chúng ta cũng cần đọc kỹ để tìm ra những câu văn ngời sáng chứa đựng tiếng lòng đẹp đẽ của những người phụ nữ nói riêng và thân phận con người nói chung để khích lệ chính mình bước tiếp. Ý chí sống truyền đời đó sẽ không bao giờ tắt nghỉ và chỉ duy nhất văn chương mới có thể gọi tên. Ngay cả trong thời đại công nghệ thay đổi chóng mặt, thách thức và cải hoán các giá trị cũ hôm nay, khi con thuyền cuộc đời chới với biển sâu thì chúng ta vẫn luôn có thể tìm thấy ánh sáng niềm tin nơi ngọn hải đăng từ những tác phẩm văn học chân chính.

Sài Gòn, ngày 6/3/2025

Hoàng Long

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Cafe sáng