Phía sau trang sách

Tháo gỡ phép màu và góc nhìn từ tang quyến

Độc giả xem những quyển sách này như một cơ hội để chạm vào ẩn số vĩ đại – cái chết, một cách an toàn. Họ ít nhất được trấn an rằng cái chết, theo những người sắp chết, thực sự không đáng sợ như chúng ta hằng nghĩ.

Published

on

thao go phep mau julie yip williams

Tháo gỡ phép màu là cuốn sách Julie Yip-Williams kể lại câu chuyện cuộc đời mình, từ một bé gái bị khiếm thị bẩm sinh, vượt khó với nghị lực phi thường và cuối cùng qua đời khi chống chọi với căn bệnh ung thư giai đoạn cuối.

“Câu chuyện này bắt đầu ở điểm cuối. Nghĩa là nếu bạn đang đọc những dòng này, thì tôi đã không còn nữa. Nhưng không sao cả… Ở đây, tôi bắt đầu viết ra trải nghiệm của mình cả về cuộc đời tôi đã sống và những gian nan tôi đã chịu – cả hai đều không toàn diện, song cũng đủ để bạn thấy rõ quãng đường mà tôi đã đi và thế giới mà tôi đã tạo dựng suốt đời mình. Và thứ vốn ban đầu chỉ để ghi lại cái chết yểu chực chờ đã trở thành điều gì đó có ý nghĩa hơn nhiều: lời cổ vũ cho các bạn, những người vẫn đang sống.

Hãy sống khi bạn còn đang sống, bạn nhé. Từ lúc phép màu khởi đầu, đến khi phép màu tháo gỡ.”

Thao go phep mau 3
Tháo gỡ phép màu

*

Thời gian qua, rất nhiều cuốn hồi ký do bệnh nhân ung thư giai đoạn cuối viết đã trở thành best-seller, có thể kể đến Khi hơi thở hóa thinh không của Paul Kalanithi; The Bright Hour của Nina Rigg hay Dying: A Memoir của Cory Taylor.

Độc giả xem những quyển sách này như một cơ hội để chạm vào ẩn số vĩ đại – cái chết, một cách an toàn. Khi nhìn vào khoảnh khắc tồi tệ nhất trong cuộc đời của một người xa lạ, họ ít nhất được trấn an rằng cái chết, theo những người sắp chết, thực sự không đáng sợ như chúng ta hằng nghĩ.

Hồi ký của Julie Yip-Williams thì khác, nguyên chất, không cắt cạnh gọt giũa, trung thực một cách tàn nhẫn khi miêu tả cơn thịnh nộ đi kèm với nỗi đau thể xác của một bệnh nhân ung thư. Quyển sách bao trùm trong những cảm xúc chân thực nhất của một người đang đối diện với cái chết sớm: trực diện, trần trụi, và không hề được lãng mạn hóa.

Dưới đây, chúng ta có thể biết thêm một góc nhìn khác về quyển sách Tháo gỡ phép màu – giọng nói của tang quyến.

Julie qua đời vào tháng 03.2018, quyển sách Tháo gỡ phép màu được phát hành sau đó 1 năm. Josh Williams, chồng của tác giả, đã có những chia sẻ chân thực với trang Vulture xoay quanh người vợ quá cố cũng như quyển hồi ký.

Anh chia sẻ thẳng thắn về nguồn gốc quyển sách, những khó khăn của anh trong việc chia sẻ câu chuyện của gia đình mình với đông đảo bạn đọc, và cả cái tâm trạng quái quỷ khi biết rằng anh chỉ có thêm 4 năm nữa để sống với người mà anh muốn chung sống cả đời.

*

Cảm xúc của bạn khi quyển sách Tháo gỡ phép màu được xuất bản?

Như tôi đã nói, Julie thực sự không có ý định thương mại hóa bất kì bài viết nào. Cô ấy chỉ cảm thấy phần lớn những thông tin ngoài kia (về ung thư, về cái chết) là không trung thực, thậm chí gây hiểu lầm, và không đặc biệt hữu ích. Và chiếc blog của cô, một nơi duy nhất trên thế giới, giúp Julie phơi bày những cảm xúc chân thực nhất.

Phản ứng của Julie khi nghe rằng NXB thực sự quan tâm đến việc chuyển thể nó thành một cuốn sách – ý tôi là, thật khó để diễn tả. Cô ấy vui như được lên cung trăng. Lúc đó cô ấy thực sự yếu.

Cô biết mình không còn nhiều thời gian nữa. Tôi nghĩ Julie rất xúc động khi được để lại thứ gì đó, bởi vì cô ấy nghĩ rằng quyển sách có thể hữu ích cho những người đang đau khổ ngoài kia. Nhưng tôi cũng nghĩ rằng cô ấy thực sự, thực sự muốn để lại một di sản hữu hình, đặc biệt là cho những đứa trẻ. 2 đứa đều còn quá nhỏ khi mẹ chúng qua đời.

Julie viết rất nhiều cảm xúc tức giận, bất lực trước cái chết. Đó dường như không phải là cảm xúc mà mọi người muốn đề cập đến khi nói về ung thư?

Chúng tôi có một kỳ nghỉ gia đình hàng năm, nơi chúng tôi có mặt cùng với bố mẹ tôi, chị em tôi và gia đình của họ. Và chúng tôi quyết định thực hiện nó vào năm 2013, mặc dù Julie lúc đó vừa nhận chẩn đoán về căn bệnh quái ác.

Tôi nhớ mình đã ngồi bên cạnh cô ấy, tất nhiên là trong tâm trạng bị sốc, thất thểu và đọc các bài blog của Julie. Và ngạc nhiên rằng, các bài viết đều rõ ràng và hữu ích.

Chúng tôi thống nhất với nhau rằng sứ mệnh trọng tâm của các bài blog, hay sau này là quyển sách Tháo gỡ phép màu, là thể hiện những cảm xúc trung thực, cởi mở và thực sự hữu ích. Những cảm xúc này đã ở đó, ngay từ đầu cuộc hành trình chống chọi ung thư của cô ấy.

Bạn có bảo vệ cuộc sống riêng theo một cách nào đó không? Vì hẳn sẽ rất nhiều người nói về gia đình, về vợ và các con bạn.

Chúa ơi. Nghe này, tôi không muốn mọi người hiểu sai, nhưng điều đó thực sự khó khăn với tôi. Tôi rất tự hào về cô ấy. Và tôi thực sự rất biết ơn vì cô ấy đã nhận được một hợp đồng xuất bản tốt. Julie xứng đáng được hưởng một điều lớn lao trong cuộc đời, nhất là khi cuộc đời này đối xử quá bất công với cô ấy. Tôi thực sự tự hào về vợ mình. Và tôi cũng rất vui vì quyển sách giúp cất giữ kỉ niệm về Julie với các con. Ở tuổi 42, tôi đủ lớn để hiểu rằng ký ức sẽ phai nhạt nếu ta không gìn giữ.

Nhưng về mặt cá nhân, điều đó rất khó khăn. Tôi chỉ đang cố gắng duy trì tập trung vào những khía cạnh tốt. Nhưng nó sẽ không phải là lựa chọn của tôi. Tôi không thích nói về cuộc sống cá nhân của mình, nhất là khi đó là những kỉ niệm đau đớn. Mất Julie là trải nghiệm đau khổ nhất trong cuộc đời tôi cho đến nay.

Tôi hiểu. Bạn không nói rằng bạn ghét cuốn sách hay ước gì cô ấy không viết nó – chỉ là đây không phải là tình huống bạn muốn.

Tôi là ai để ngồi đó và giết chết giấc mơ của cô ấy? Tôi đã rất yêu cô ấy. Tôi muốn cô ấy hạnh phúc. Tôi biết điều này làm cho cô ấy rất hạnh phúc. Và tôi biết rằng đó là mục tiêu sống của cô ấy. Ngay cả giấy chứng tử của Julie cũng viết rằng cô ấy là một luật sư và một tác giả. Cô ấy sẽ thích điều đó. Cô ấy sẽ mỉm cười với điều đó.

Có điều gì trong cuốn sách mà bạn chưa đọc, hoặc không thể đọc, cho đến khi cô ấy qua đời không?

Trước đây, tôi đọc các bài viết tại nơi làm việc. Hoặc có thể là vào ngày hôm sau nếu tôi có một ngày làm việc đặc biệt bận rộn. Nhưng theo thời gian, khi mọi thứ trở nên trầm trọng hơn vào năm 2016, 2017.

Tôi đã không thể đọc bài đăng mà cô ấy viết cho tôi có tựa đề “Tình yêu” – bài đăng cuối cùng hoặc áp cuối mà cô ấy đã viết – cho đến nhiều tháng sau khi chấp nhận được sự thật. Tôi đọc bài đăng đó khi Julie đã qua đời.

Julie có đọc hồi ký nào khác của những người mắc bệnh nan y không?

Tôi chưa đọc bất kỳ cuốn nào trong số đó, nhưng tôi biết rằng Julie chắc chắn đã đọc Khi hơi thở hóa thinh khôngvà quyển sách của Nina Riggs – The Bright Hour.

Bạn có thấy Tháo gỡ phép màu và cả những quyển hồi ký của bệnh nhân ung thư nêu trên, sau tất cả, mang lại một động lực tích cực?

Tất nhiên.

Những cuốn sách đó không có từ năm 2013. Trở lại năm 2013, nếu đọc chúng, tôi gần như cảm thấy hụt hẫng, kiểu như: “Ôi Chúa ơi. Những người này xem ung thư là một thách thức. Như một cơ hội.”

Họ viết về cái chết nhẹ như bẫng, như thể việc ghi một bàn thắng, việc giảm đi mười cân. Bởi theo những người sắp chết, cái chết thực sự không đáng sợ như chúng ta luôn nghĩ.

Vào một thời điểm nào đó trong cuốn sách, Julie chấp nhận những gì sắp xảy ra với bản thân. Bạn đã nghiệm ra khái niệm về “cái chết” mới của riêng mình chưa?

Cái chết có lẽ ít đáng sợ hơn với tôi so với trước đây. Julie không thực sự thuộc về tôn giáo nào, nhưng cô ấy sở hữu niềm tin tâm linh của người phương Đông. Cô ấy không sợ chết. Tôi nghĩ rằng mọi người đều có một chút sợ hãi, nhưng cô ấy thì không – thậm chí rất lâu trước khi cô ấy bị bệnh.

Mặt khác, tôi hoàn toàn kinh hãi về điều đó. Tôi đấu tranh với niềm tin rằng thực sự tồn tại một ‘thế giới bên kia’. Quan sát Julie, tôi luôn tự hỏi không biết khi nó thực sự xảy ra thì sẽ như thế nào. Cô ấy rất bình yên khi ra đi – vì vậy theo một cách nào đó, làm giảm bớt nỗi sợ hãi của tôi. Nhưng tôi không biết liệu nó có thực sự trả lời bất kỳ câu hỏi sâu xa nào của tôi về ‘thế giới bên kia’ ấy hay không.

Có điều gì bạn muốn mọi người biết về Julie mà họ không thể hiểu khi đọc cuốn sách này không?

Tôi nghĩ rằng Julie có lẽ là người dũng cảm nhất mà tôi từng gặp. Đó không chỉ là vấn đề thị lực yếu hay suýt mất mạng dưới tay người bà. Cô ấy là một người cực kỳ thích phiêu lưu mạo hiểm, cô ấy đã đi khắp 7 lục địa vào năm 30. Tôi biết rằng một số người có thể đọc cuốn sách và nghĩ rằng cô ấy thật khắc nghiệt, gay gắt. Cô ấy thực sự có một số khía cạnh khó khăn, nhưng Julie cuối cùng là một người tốt bụng và yêu thương gia đình.

Tôi hy vọng độc giả cảm nhận được điều đó khi đọc quyển sách.

Chắc chắn.

Hết.

Uyên lược dịch.

Bài viết gốc được thực hiện bởi Hillary Kelly, đăng tại Vulture.

*


Phía sau trang sách

Có một thời ở Chợ Lớn: Những gam màu ký ức

Published

on

Có một thời ở Chợ Lớn là một trong hai tác phẩm mới nhất của nhà báo Phạm Công Luận do Phương Nam Book liên kết xuất bản dịp năm mới Ất Tỵ 2025. Chỉ một thời gian ngắn sau khi phát hành, sách sớm nhận được tình cảm của độc giả và lọt vào top sách bán chạy trong tuần tại Nhà Sách Phương Nam. Bên cạnh bản thân tác giả Phạm Công Luận, góp phần vào sự thành công của Có một thời ở Chợ Lớn không thể không kể đến họa sĩ Phạm Công Tâm với nhiều hình ảnh minh họa đẹp và đầy tinh tế, cũng như đội ngũ Phương Nam Book đã biên tập, thiết kế nhằm đưa tác phẩm đến tay độc giả theo cách chỉn chu nhất.

Chịu trách nhiệm thiết kế bìa và trình bày sách Có một thời ở Chợ Lớn là họa sĩ t.hờ. Trong bài phỏng vấn hôm nay, Bookish sẽ cùng anh t.hờ chia sẻ với bạn đọc về quá trình "lên đồ" cho Có một thời ở Chợ Lớn cũng như những câu chuyện bên lề thú vị trong quá trình sản xuất cuốn sách này.

  • Bookish: Anh có thể chia sẻ điều gì đã dẫn đến quyết định lựa chọn hình ảnh chùa Ôn Lăng và chợ Bình Tây làm ảnh bìa sách ở 2 phiên bản bìa mềm và bìa cứng?

Họa sĩ t.hờ: Nhắc đến Chợ Lớn, chắc hẳn 9 trên 10 người trong chúng ta sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh của chùa bà Ôn Lăng và chợ Bình Tây – hai công trình kiến trúc đặc trưng nhất của mảnh đất Chợ Lớn Sài Thành.

Đối với chùa bà Ôn Lăng, đây có thể coi là công trình mang đậm nét đặc trưng của kiến trúc Trung Hoa nhất giữa lòng Sài Gòn. Không chỉ là nơi chiêm bái của người dân địa phương và du khách gần xa, chùa bà Ôn Lăng còn là nơi tổ chức các hoạt động văn hóa và tôn giáo như lễ hội Đoan Ngọ, lễ hội Trung Thu, lễ hội Thanh Minh, lễ hội Tết Nguyên Đán,… Chùa bà Ôn Lăng là một trong những ngôi chùa có ý nghĩa lịch sử và văn hóa quan trọng của Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và mảnh đất Chợ Lớn nói riêng.

Còn về chợ Bình Tây, đây không chỉ là một ngôi chợ sở hữu lối kiến trúc độc đáo mang đậm dấu ấn văn hoá Á Đông của người châu Á ở đất Sài Thành, mà còn là nơi được biết tới là nơi trao đổi đồ cổ và buôn bán sỉ lớn nhất của người dân gốc Hoa ở Chợ Lớn. Dù hiện tại chợ Bình Tây đã có nhiều sự thay đổi về cơ sở hạ tầng nhưng những giá trị tinh thần, lịch sử và văn hoá vẫn còn được lưu giữ cho đến ngày nay.

Chính vì lẽ đó, chùa bà Ông Lăng và chợ Bình Tây đã được mình chọn lựa để đưa lên 2 phiên bản bìa của Có một thời ở Chợ Lớn.

  • 2 ấn bản bìa mềm và bìa cứng có sự khác biệt gì về hình ảnh minh họa trong sách không?

Để đảm bảo sự chính xác về thông tin của các bài viết thì phần hình ảnh và nội dung bên trong của 2 phiên bản không có gì thay đổi.

  • Liệu có ẩn ý nào phía sau việc sử dụng 2 tông màu nóng - lạnh cho 2 phiên bản bìa sách?

Nhắc đến Chợ Lớn, người ta sẽ nghĩ ngay đến những tone màu rực rỡ như chính sắc màu chủ đạo trong cuộc sống của người dân nơi này – màu đỏ rực của những chiếc đèn lồng gốc Hoa, màu đỏ thẫm của những lớp mái ngói vươn màu thời gian hay màu đỏ tươi của những chú lân trong các lễ hội,… Bên cạnh đó, ta không thể không nhắc tới sắc vàng của những bức tường vững chải chạy dọc các con phố, của những món đồ trang trí bóng bẩy mỗi dịp Tết đến xuân về.

Thế nhưng, không vì thế mà Chợ Lớn vắng đi những phút giây lắng đọng. Dạo quanh Chợ Lớn, người ta vẫn có thể dễ dàng bắt gặp những tòa chung cư lâu đời trên đại lộ Trần Hưng Đạo hay từ chính trong nét kiến trúc phương Đông được tạo nên từ kỹ thuật xây dựng của Tây phương trong lối kiến trúc độc đáo của ngôi chợ Bình Tây xuất hiện trên bản bìa mềm.

  • Có câu chuyện ngoài lề nào thú vị trong quá trình thiết kế cho cuốn sách này mà anh ấn tượng không?

Mình cho rằng đó là một “bài học” thú vị nhiều hơn.

Như các bạn cũng biết, trước khi “Có một thời ở Chợ Lớn” ra đời, tác giả Phạm Công Luận đã từng cho ra mắt một quyển sách cùng chủ đề đó là “Hồi ức Phú Nhuận”. Do cả 2 quyển một chủ đề nên với vai trò là người thiết kế bìa cho cả hai, mình mong muốn tạo được nét tương đồng trên bìa khi 2 quyển sách được đặt cạnh nhau để nhấn mạnh “tính chất văn hóa” của 2 quyển sách này. Chính vì vậy, mình đã chủ đích đem cái gần gũi, thân thương nhưng cũng mang trong mình những lắt cắt lịch sử mà mình từng thể hiện trong bìa của”Hồi ức Phú Nhuận” mang vào quyển “Có một thời ở Chợ Lớn” lần này.

Nhưng rồi mình nhận ra, mỗi vùng đất sẽ mang trong mình một vẻ đẹp riêng. Nếu như Phú Nhuận là mảnh đất của những ký ức tuổi thơ thân thương, của những giai kỳ hào nhoáng của một Sài Thành hoa lệ, thì Chợ Lớn sẽ là những đất của những khu mua sắm xa hoa, của những quán ăn nức tiếng, và của sự hào sảng, phóng khoáng của người dân Chợ Lớn Sài Gòn.

Vậy nên, mình cho rằng đó là bài học mình của bản thân mình: Để nhấn mạnh, nếu không thể tương-đồng thì chúng ta có thể chọn tương-phản.

Bookish xin cảm ơn họa sĩ t.hờ vì đã dành thời gian chia sẻ. Chúc anh nhiều sức khỏe và đạt được thành công trong năm mới Ất Tỵ 2025.

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Cafe sáng