Phía sau trang sách

Những điều chúng ta có thể học (và không nên học) từ “Dịch hạch” của Albert Camus

Từ Liesl Schillinger, về thảm họa, lây nhiễm và tình trạng con người.

Published

on

Liesl Schillinger

Thông thường, một câu hỏi như thế này thường mang tính lí thuyết: Chuyện sẽ ra sao nếu thị trấn của bạn, tiểu bang của bạn, đất nước của bạn, bị tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới, người dân bị ép ở yên trong nhà khi một căn bệnh truyền nhiễm đang lây lan, lây nhiễm cho hàng ngàn người và làm hàng ngàn người nữa phải cách ly? Bạn sẽ đối phó như thế nào nếu dịch bệnh phá vỡ nhịp sống thường nhật, trường học đóng cửa, bệnh viện dần trở nên quá tải và các cuộc tụ họp xã hội, các sự kiện thể thao, các buổi hòa nhạc, hội nghị, lễ hội và kế hoạch du lịch bị trì hoãn vô thời hạn?

Năm 1947, khi 34 tuổi, Albert Camus, nhà văn người Pháp gốc Algeria đã đưa ra câu trả lời đáng kinh ngạc và chi tiết cho câu hỏi trên trong cuốn tiểu thuyết Dịch hạch. Cuốn sách ghi chép lại sự xuất hiện đột ngột và ra đi chậm chạp của một trận bệnh dịch hạch giả tưởng tại thị trấn ven biển Oran của Algeria vào tháng Tư trong thập niên 1940 (năm cụ thể không rõ). Khi căn bệnh xâm nhập vào thị trấn, dịch bệnh kéo dài, làm đảo lộn cuộc sống và tâm trí người dân, cho đến tháng Hai năm sau, khi nó rời đi nhanh chóng và kỳ lạ như cách nó đến, “quay trở lại hang ổ tối tăm nơi mà nó đã lén lút xuất hiện”.

Dù bạn đã đọc Dịch hạch hay chưa, ngay lúc này ta cần đọc hoặc đọc lại cuốn sách trong thời điểm cả quốc gia và quốc tế căng thẳng, khi một căn bệnh mới mang tên COVID-19, gây ra bởi chủng mới của vi-rút corona, đang càn quét toàn cầu. Kể từ khi chủng mới của vi-rút corona xuất hiện vào cuối năm ngoái tại thành phố Vũ Hán, Trung Quốc (thành phố đã bị phong toả từ tháng Một), nó đã phát triển không ngừng, xâm chiếm hơn một trăm quốc gia, làm người dân và thị trường tài chính chao đảo, buộc các thành phố, khu vực, và cả nước Ý sống dưới sự cách ly. Tuần này, nơi làm việc, trường học và trường cao đẳng đã đóng cửa hoặc làm việc online ở nhiều thị trấn của Mỹ (bài viết gốc được đăng vào ngày 13.03.2020), các sự kiện bị hủy bỏ và du lịch không thiết yếu đã bị cấm. Dịch đã được nâng cấp thành đại dịch. Bạn có thể thấy mình có nhiều thời gian để đọc sách hơn bình thường. Tiểu thuyết của Camus có sự tương đồng và nhiều bài học để cung cấp trong thời buổi này.

Trước khi bạn cầm cuốn sách này lên, hãy yên tâm rằng dù dịch COVID-19 có thể đáng sợ, nhưng nó không tài nào có sức tàn phá như bệnh dịch hạch của Camus. Vào thế kỷ 14, bệnh dịch hạch, còn được gọi là “Cái Chết Đen” đã giết chết gần một phần ba dân số trên lục địa châu Âu. Khi nó hoành hành khắp London vào năm 1656 và 1657, nó đã giết chết gần một phần tư dân số. Trong trường hợp bạn chưa biết, bệnh dịch hạch vẫn còn tồn tại đến ngày nay, không chỉ ở châu Á và châu Phi, mà còn ở phía Tây Nam nước Mỹ. Nó được truyền bởi bọ chét từ loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh, gây sốt cao, nôn mửa và sưng đau, có tên là “sưng bạch hạch” (về sau gọi là “thể hạch”). Ngay cả khi được điều trị bằng kháng sinh, nó có tỷ lệ tử vong là 10%; và nếu không được điều trị, tỉ lệ lên tới 90%. Vi-rút corona lại không hề giống như thế.

Khi Camus viết cuốn tiểu thuyết này, không có dịch hạch ở Oran. Tuy nhiên, nó đã tàn phá thành phố này vào thế kỷ 16 và 17. (Từng có một đợt dịch bùng phát kéo dài một tháng tại Oran vào năm 2003.) Nhưng nếu Dịch hạch mô tả các triệu chứng và hậu quả của căn bệnh theo đúng nghĩa đen và phương diện lâm sàng, thì những con vi khuẩn soi dưới ống kính của tác giả không có quá nhiều yếu tố thuộc về mặt sinh lý, mà là phân tích dưới góc độ xã hội học và triết học. Mặc dù tiểu thuyết theo dõi sự tiến triển của một dịch bệnh cụ thể ở một thành phố, quốc gia và khung thời gian cụ thể, chủ đề thực sự của Camus lại vượt ngoài phạm vi thời gian và địa điểm.

Mục đích của ông là ẩn dụ: ông đang đề cập đến bất kì căn bệnh truyền nhiễm nào có thể thống trị bất kì xã hội nào, từ một căn bệnh như dịch tả, cúm Tây Ban Nha, AIDS, SARS, hoặc, vâng, COVID-19; đến một hệ tư tưởng mục ruỗng, như Chủ nghĩa Phát-xít, hay Chủ nghĩa Toàn trị, có thể đầu độc cả nhân loại. Camus đã nhìn thấy Đức Quốc Xã tràn vào Paris năm 1940 trong Thế chiến thứ hai. Cùng thời điểm ông đang viết Dịch hạch, ông là tổng biên tập tờ Combat, tạp chí ngầm của Kháng Chiến Pháp, những người đóng góp bài vở bao gồm André Malraux, Jean-Paul Sartre và Raymond Aron. Ông nhìn thấy mối liên hệ giữa nhiễm trùng thể chất và nhiễm trùng tâm lý, và cuốn sách của ông đã nối chúng lại với nhau.

*

Khi câu chuyện bắt đầu, những con chuột đang lảng vảng trong bóng tối của Oran, đầu tiên là từng-con-một, sau đó thành “từng bầy”, hết sức kì lạ, chúng lăn ra chết trên mặt đất hay trên các con đường. Người đầu tiên gặp phải hiện tượng này là bác sĩ địa phương tên Rieux, người đã báo với người gác cổng của mình, Michel, để giải quyết sự phiền nhiễu trên, và bất ngờ khi Michel tỏ ra “căm giận” thay vì ghê tởm. Michel tin chắc rằng lũ trẻ hư đốn đã vứt những con chuột chết trên hành lang nhà mình như một trò chơi khăm. Giống như Michel, hầu hết các công dân Oran đều lý giải sai những điềm báo sớm; họ đã bỏ lỡ ý nghĩa to lớn của chúng. Trong một thời gian, hành động duy nhất họ thực hiện là tố cáo bộ phận vệ sinh địa phương và phàn nàn về chính quyền. “Về phương diện này, cư dân của chúng ta cũng giống như mọi người khác, chỉ biết lo cho bản thân”, người kể chuyện phản ánh. “Họ là những người theo chủ nghĩa nhân văn: họ không tin vào bệnh dịch.” Camus cho thấy thật dễ dàng để nhầm lẫn dịch bệnh với một sự phiền toái.

Nhưng sau đó, Michel ngã bệnh và qua đời. Khi Rieux chăm sóc cho ông, ông đã nhận ra những dấu hiệu của bệnh dịch hạch, nhưng lúc đầu, ông tự thuyết phục mình rằng: “Không được phép làm mọi người sợ hãi, như thế sẽ chẳng được gì cả.” Các quan chức Oran đều đồng ý. Tỉnh trưởng (giống như thị trưởng hoặc thống đốc, ở thuộc địa Algeria) “tin chắc rằng đó là một báo động sai.” Một quan chức cấp thấp, Richard, khẳng định căn bệnh này không nên được xác định chính thức là bệnh dịch hạch, mà nên được gọi đơn thuần là “một loại sốt đặc biệt”. Nhưng khi tốc độ và số ca tử vong tăng lên, Rieux không chấp nhận cách nói giảm nói tránh đó và các nhà lãnh đạo thị trấn buộc phải hành động.

Camus đề xuất rằng, các nhà chức trách chỉ có trách nhiệm giảm thiểu mối đe dọa của dịch bệnh cho đến khi các dấu hiệu đã trở nên quá rõ ràng, rằng phản ứng chậm chạp còn nguy hiểm hơn là phản ứng thái quá. Ông viết, hầu hết mọi người đều có chung thiên hướng này – đó là điểm yếu của con người: “Mọi người đều biết rằng dịch hạch có cách tái xuất trên thế giới, nhưng bằng cách nào đó chúng ta thấy khó tin vào những thứ từ trên trời rơi xuống đầu mình.”

Chẳng mấy chốc, thành phố bị đóng cửa và áp đặt trạng thái cách ly, tách biệt những cư dân Oran với nhau và với thế giới bên ngoài. “Điều đầu tiên mà bệnh dịch hạch mang đến thị trấn của chúng tôi là lưu vong”, người kể chuyện viết. Một nhà báo tên Rambert, bị mắc kẹt ở Oran sau khi cánh cổng đóng lại, đã cầu xin Rieux cấp giấy chứng nhận sức khỏe để anh ta có thể trở lại với vợ mình ở Paris, nhưng Rieux không thể giúp anh ta. “Có hàng ngàn người như anh đang bị mắc kẹt trong thị trấn này,” ông nói. Giống như Rambert, người dân sớm cảm nhận được sự vô nghĩa của việc nhai đi nhai lại nỗi khổ sở của bản thân, bởi vì dịch hạch xóa đi “tính độc đáo trong cuộc sống mỗi người” ngay cả khi nó nâng cao nhận thức của mỗi người về sự yếu đuối và bất lực của mình để lên kế hoạch cho tương lai.

Thảm hoạ này là của chung cộng đồng: “Một cảm giác, bình thường vốn rất cá nhân, như nỗi đau của sự chia li với những người mình yêu thương đột nhiên trở thành cảm giác mà tất cả cùng chia sẻ,” Camus viết. Nỗi đau này, cùng với nỗi sợ hãi, trở thành “tai hoạ lớn nhất của thời kỳ lưu đày kéo dài.” Bất cứ ai gần đây đã phải hủy bỏ một chuyến công tác, một lớp học, một bữa tiệc, một bữa ăn tối, một kỳ nghỉ hoặc một cuộc hội ngộ với người thân, có thể cảm nhận sự hợp lí khi Camus nhấn mạnh về sự sụp đổ cảm xúc thời kỳ bệnh dịch: cảm giác của sự cô lập, sợ hãi và mất đi công việc. Chính điều này, “lịch sử của những gì mà nhà sử học bình thường đã ngó lơ”, là những điều cuốn tiểu thuyết của ông ghi lại, và cuốn tiểu thuyết vi-rút corona đang được ghi vào cuộc sống người công dân hiện tại.

Nếu bạn đã đọc Dịch hạch, bạn sẽ bị ám ảnh nhất với những dằn vặt về thể xác mà người kể chuyện của Camus, dù có vẻ vô tư, nhưng miêu tả vô cùng trực quan. Có thể bạn chú ý nhiều hơn đến bong bóng và các hố vôi hơn là bức tranh tường thuật về những người dân bình thường, bị mắc kẹt trong những vết sưng phồng do dịch bệnh, người đã chiến đấu với cảm giác bị cô lập bằng cách mặc quần áo, đi dạo một cách vô mục đích dọc theo đại lộ Oran, và tràn ra khỏi nhà hàng, sẵn sàng tránh xa nếu một đồng nghiệp ngã bệnh, bị cuốn vào “cơn khát khao điên cuồng về cuộc sống thịnh vượng giữa thảm hoạ”: sự an ủi của cộng đồng. Người dân thị trấn Oran không có sự trông cậy mà người dân ngày nay có được, ở bất cứ thị trấn nào: tìm kiếm cộng đồng trong thực tế ảo. Hiện tại, khi đại dịch đang xâm chiếm và tồn tại trong thời đại kĩ thuật số, người ta đã áp dụng một bộ lọc mới sống động cho cái nhìn sắc sảo của Camus về bối cảnh cảm xúc của sự lây lan.

Ngày nay, sự lưu đày và cô lập của dịch bệnh 2.0 đang có được các sắc thái riêng, đặc điểm riêng của chúng, tái tạo lại hình ảnh của Camus. Khi chúng ta đi bộ dọc theo những con phố, đi đến cửa hàng tạp hóa, chúng ta phản xạ theo thói quen phòng ngừa mà các phương tiện truyền thông xã hội khuyến cáo: rửa tay, nhún vai và cười toe toét thay cho bắt tay, thực hiện giãn cách xã hội. Chúng ta có thể thực hiện công việc của mình từ xa để tránh lây nhiễm cho người khác hoặc tránh bị nhiễm bệnh, chúng ta có thể tránh xa các bữa tiệc, buổi hòa nhạc và nhà hàng, đặt hàng các ứng dụng giao hàng. Nhưng trong bao lâu? Camus biết câu trả lời: chúng ta không thể biết.

Giống như những người đàn ông và phụ nữ sống trong thời kỳ gián đoạn gần một thế kỷ trước, những người mà Camus đã mô phỏng lại để minh họa cho chủ đề không thể tránh khỏi của mình, tất cả những gì chúng ta có thể biết là sự gián đoạn này sẽ không kéo dài mãi mãi. Nó sẽ đi, không thể giải thích được, khi nó đã vừa ý. Và một ngày, những thứ khác sẽ xuất hiện. Và khi đó, cuốn tiểu thuyết của ông đã cảnh báo từ lâu, và giờ đây cho chúng ta thấy rõ hơn, chúng ta phải cẩn thận để hiểu chính xác những điềm báo. “Có rất nhiều bệnh dịch cũng như chiến tranh trong lịch sử”,  Camus viết, “Tuy nhiên, luôn luôn có những tai họa và cuộc chiến làm mọi người ngạc nhiên.”

Hết.

Chan Trang lược dịch.

Bài viết gốc được Liesl Schillinger thực hiện, đăng tại Literary Hub.

Ảnh đầu bài: Fanpage Nhã Nam


Bài viết có thể bạn sẽ thích




Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng