Phía sau trang sách

Những điều chúng ta có thể học (và không nên học) từ “Dịch hạch” của Albert Camus

Từ Liesl Schillinger, về thảm họa, lây nhiễm và tình trạng con người.

Published

on

Liesl Schillinger

Thông thường, một câu hỏi như thế này thường mang tính lí thuyết: Chuyện sẽ ra sao nếu thị trấn của bạn, tiểu bang của bạn, đất nước của bạn, bị tách biệt khỏi phần còn lại của thế giới, người dân bị ép ở yên trong nhà khi một căn bệnh truyền nhiễm đang lây lan, lây nhiễm cho hàng ngàn người và làm hàng ngàn người nữa phải cách ly? Bạn sẽ đối phó như thế nào nếu dịch bệnh phá vỡ nhịp sống thường nhật, trường học đóng cửa, bệnh viện dần trở nên quá tải và các cuộc tụ họp xã hội, các sự kiện thể thao, các buổi hòa nhạc, hội nghị, lễ hội và kế hoạch du lịch bị trì hoãn vô thời hạn?

Năm 1947, khi 34 tuổi, Albert Camus, nhà văn người Pháp gốc Algeria đã đưa ra câu trả lời đáng kinh ngạc và chi tiết cho câu hỏi trên trong cuốn tiểu thuyết Dịch hạch. Cuốn sách ghi chép lại sự xuất hiện đột ngột và ra đi chậm chạp của một trận bệnh dịch hạch giả tưởng tại thị trấn ven biển Oran của Algeria vào tháng Tư trong thập niên 1940 (năm cụ thể không rõ). Khi căn bệnh xâm nhập vào thị trấn, dịch bệnh kéo dài, làm đảo lộn cuộc sống và tâm trí người dân, cho đến tháng Hai năm sau, khi nó rời đi nhanh chóng và kỳ lạ như cách nó đến, “quay trở lại hang ổ tối tăm nơi mà nó đã lén lút xuất hiện”.

Dù bạn đã đọc Dịch hạch hay chưa, ngay lúc này ta cần đọc hoặc đọc lại cuốn sách trong thời điểm cả quốc gia và quốc tế căng thẳng, khi một căn bệnh mới mang tên COVID-19, gây ra bởi chủng mới của vi-rút corona, đang càn quét toàn cầu. Kể từ khi chủng mới của vi-rút corona xuất hiện vào cuối năm ngoái tại thành phố Vũ Hán, Trung Quốc (thành phố đã bị phong toả từ tháng Một), nó đã phát triển không ngừng, xâm chiếm hơn một trăm quốc gia, làm người dân và thị trường tài chính chao đảo, buộc các thành phố, khu vực, và cả nước Ý sống dưới sự cách ly. Tuần này, nơi làm việc, trường học và trường cao đẳng đã đóng cửa hoặc làm việc online ở nhiều thị trấn của Mỹ (bài viết gốc được đăng vào ngày 13.03.2020), các sự kiện bị hủy bỏ và du lịch không thiết yếu đã bị cấm. Dịch đã được nâng cấp thành đại dịch. Bạn có thể thấy mình có nhiều thời gian để đọc sách hơn bình thường. Tiểu thuyết của Camus có sự tương đồng và nhiều bài học để cung cấp trong thời buổi này.

Trước khi bạn cầm cuốn sách này lên, hãy yên tâm rằng dù dịch COVID-19 có thể đáng sợ, nhưng nó không tài nào có sức tàn phá như bệnh dịch hạch của Camus. Vào thế kỷ 14, bệnh dịch hạch, còn được gọi là “Cái Chết Đen” đã giết chết gần một phần ba dân số trên lục địa châu Âu. Khi nó hoành hành khắp London vào năm 1656 và 1657, nó đã giết chết gần một phần tư dân số. Trong trường hợp bạn chưa biết, bệnh dịch hạch vẫn còn tồn tại đến ngày nay, không chỉ ở châu Á và châu Phi, mà còn ở phía Tây Nam nước Mỹ. Nó được truyền bởi bọ chét từ loài gặm nhấm bị nhiễm bệnh, gây sốt cao, nôn mửa và sưng đau, có tên là “sưng bạch hạch” (về sau gọi là “thể hạch”). Ngay cả khi được điều trị bằng kháng sinh, nó có tỷ lệ tử vong là 10%; và nếu không được điều trị, tỉ lệ lên tới 90%. Vi-rút corona lại không hề giống như thế.

Khi Camus viết cuốn tiểu thuyết này, không có dịch hạch ở Oran. Tuy nhiên, nó đã tàn phá thành phố này vào thế kỷ 16 và 17. (Từng có một đợt dịch bùng phát kéo dài một tháng tại Oran vào năm 2003.) Nhưng nếu Dịch hạch mô tả các triệu chứng và hậu quả của căn bệnh theo đúng nghĩa đen và phương diện lâm sàng, thì những con vi khuẩn soi dưới ống kính của tác giả không có quá nhiều yếu tố thuộc về mặt sinh lý, mà là phân tích dưới góc độ xã hội học và triết học. Mặc dù tiểu thuyết theo dõi sự tiến triển của một dịch bệnh cụ thể ở một thành phố, quốc gia và khung thời gian cụ thể, chủ đề thực sự của Camus lại vượt ngoài phạm vi thời gian và địa điểm.

Mục đích của ông là ẩn dụ: ông đang đề cập đến bất kì căn bệnh truyền nhiễm nào có thể thống trị bất kì xã hội nào, từ một căn bệnh như dịch tả, cúm Tây Ban Nha, AIDS, SARS, hoặc, vâng, COVID-19; đến một hệ tư tưởng mục ruỗng, như Chủ nghĩa Phát-xít, hay Chủ nghĩa Toàn trị, có thể đầu độc cả nhân loại. Camus đã nhìn thấy Đức Quốc Xã tràn vào Paris năm 1940 trong Thế chiến thứ hai. Cùng thời điểm ông đang viết Dịch hạch, ông là tổng biên tập tờ Combat, tạp chí ngầm của Kháng Chiến Pháp, những người đóng góp bài vở bao gồm André Malraux, Jean-Paul Sartre và Raymond Aron. Ông nhìn thấy mối liên hệ giữa nhiễm trùng thể chất và nhiễm trùng tâm lý, và cuốn sách của ông đã nối chúng lại với nhau.

*

Khi câu chuyện bắt đầu, những con chuột đang lảng vảng trong bóng tối của Oran, đầu tiên là từng-con-một, sau đó thành “từng bầy”, hết sức kì lạ, chúng lăn ra chết trên mặt đất hay trên các con đường. Người đầu tiên gặp phải hiện tượng này là bác sĩ địa phương tên Rieux, người đã báo với người gác cổng của mình, Michel, để giải quyết sự phiền nhiễu trên, và bất ngờ khi Michel tỏ ra “căm giận” thay vì ghê tởm. Michel tin chắc rằng lũ trẻ hư đốn đã vứt những con chuột chết trên hành lang nhà mình như một trò chơi khăm. Giống như Michel, hầu hết các công dân Oran đều lý giải sai những điềm báo sớm; họ đã bỏ lỡ ý nghĩa to lớn của chúng. Trong một thời gian, hành động duy nhất họ thực hiện là tố cáo bộ phận vệ sinh địa phương và phàn nàn về chính quyền. “Về phương diện này, cư dân của chúng ta cũng giống như mọi người khác, chỉ biết lo cho bản thân”, người kể chuyện phản ánh. “Họ là những người theo chủ nghĩa nhân văn: họ không tin vào bệnh dịch.” Camus cho thấy thật dễ dàng để nhầm lẫn dịch bệnh với một sự phiền toái.

Nhưng sau đó, Michel ngã bệnh và qua đời. Khi Rieux chăm sóc cho ông, ông đã nhận ra những dấu hiệu của bệnh dịch hạch, nhưng lúc đầu, ông tự thuyết phục mình rằng: “Không được phép làm mọi người sợ hãi, như thế sẽ chẳng được gì cả.” Các quan chức Oran đều đồng ý. Tỉnh trưởng (giống như thị trưởng hoặc thống đốc, ở thuộc địa Algeria) “tin chắc rằng đó là một báo động sai.” Một quan chức cấp thấp, Richard, khẳng định căn bệnh này không nên được xác định chính thức là bệnh dịch hạch, mà nên được gọi đơn thuần là “một loại sốt đặc biệt”. Nhưng khi tốc độ và số ca tử vong tăng lên, Rieux không chấp nhận cách nói giảm nói tránh đó và các nhà lãnh đạo thị trấn buộc phải hành động.

Camus đề xuất rằng, các nhà chức trách chỉ có trách nhiệm giảm thiểu mối đe dọa của dịch bệnh cho đến khi các dấu hiệu đã trở nên quá rõ ràng, rằng phản ứng chậm chạp còn nguy hiểm hơn là phản ứng thái quá. Ông viết, hầu hết mọi người đều có chung thiên hướng này – đó là điểm yếu của con người: “Mọi người đều biết rằng dịch hạch có cách tái xuất trên thế giới, nhưng bằng cách nào đó chúng ta thấy khó tin vào những thứ từ trên trời rơi xuống đầu mình.”

Chẳng mấy chốc, thành phố bị đóng cửa và áp đặt trạng thái cách ly, tách biệt những cư dân Oran với nhau và với thế giới bên ngoài. “Điều đầu tiên mà bệnh dịch hạch mang đến thị trấn của chúng tôi là lưu vong”, người kể chuyện viết. Một nhà báo tên Rambert, bị mắc kẹt ở Oran sau khi cánh cổng đóng lại, đã cầu xin Rieux cấp giấy chứng nhận sức khỏe để anh ta có thể trở lại với vợ mình ở Paris, nhưng Rieux không thể giúp anh ta. “Có hàng ngàn người như anh đang bị mắc kẹt trong thị trấn này,” ông nói. Giống như Rambert, người dân sớm cảm nhận được sự vô nghĩa của việc nhai đi nhai lại nỗi khổ sở của bản thân, bởi vì dịch hạch xóa đi “tính độc đáo trong cuộc sống mỗi người” ngay cả khi nó nâng cao nhận thức của mỗi người về sự yếu đuối và bất lực của mình để lên kế hoạch cho tương lai.

Thảm hoạ này là của chung cộng đồng: “Một cảm giác, bình thường vốn rất cá nhân, như nỗi đau của sự chia li với những người mình yêu thương đột nhiên trở thành cảm giác mà tất cả cùng chia sẻ,” Camus viết. Nỗi đau này, cùng với nỗi sợ hãi, trở thành “tai hoạ lớn nhất của thời kỳ lưu đày kéo dài.” Bất cứ ai gần đây đã phải hủy bỏ một chuyến công tác, một lớp học, một bữa tiệc, một bữa ăn tối, một kỳ nghỉ hoặc một cuộc hội ngộ với người thân, có thể cảm nhận sự hợp lí khi Camus nhấn mạnh về sự sụp đổ cảm xúc thời kỳ bệnh dịch: cảm giác của sự cô lập, sợ hãi và mất đi công việc. Chính điều này, “lịch sử của những gì mà nhà sử học bình thường đã ngó lơ”, là những điều cuốn tiểu thuyết của ông ghi lại, và cuốn tiểu thuyết vi-rút corona đang được ghi vào cuộc sống người công dân hiện tại.

Nếu bạn đã đọc Dịch hạch, bạn sẽ bị ám ảnh nhất với những dằn vặt về thể xác mà người kể chuyện của Camus, dù có vẻ vô tư, nhưng miêu tả vô cùng trực quan. Có thể bạn chú ý nhiều hơn đến bong bóng và các hố vôi hơn là bức tranh tường thuật về những người dân bình thường, bị mắc kẹt trong những vết sưng phồng do dịch bệnh, người đã chiến đấu với cảm giác bị cô lập bằng cách mặc quần áo, đi dạo một cách vô mục đích dọc theo đại lộ Oran, và tràn ra khỏi nhà hàng, sẵn sàng tránh xa nếu một đồng nghiệp ngã bệnh, bị cuốn vào “cơn khát khao điên cuồng về cuộc sống thịnh vượng giữa thảm hoạ”: sự an ủi của cộng đồng. Người dân thị trấn Oran không có sự trông cậy mà người dân ngày nay có được, ở bất cứ thị trấn nào: tìm kiếm cộng đồng trong thực tế ảo. Hiện tại, khi đại dịch đang xâm chiếm và tồn tại trong thời đại kĩ thuật số, người ta đã áp dụng một bộ lọc mới sống động cho cái nhìn sắc sảo của Camus về bối cảnh cảm xúc của sự lây lan.

Ngày nay, sự lưu đày và cô lập của dịch bệnh 2.0 đang có được các sắc thái riêng, đặc điểm riêng của chúng, tái tạo lại hình ảnh của Camus. Khi chúng ta đi bộ dọc theo những con phố, đi đến cửa hàng tạp hóa, chúng ta phản xạ theo thói quen phòng ngừa mà các phương tiện truyền thông xã hội khuyến cáo: rửa tay, nhún vai và cười toe toét thay cho bắt tay, thực hiện giãn cách xã hội. Chúng ta có thể thực hiện công việc của mình từ xa để tránh lây nhiễm cho người khác hoặc tránh bị nhiễm bệnh, chúng ta có thể tránh xa các bữa tiệc, buổi hòa nhạc và nhà hàng, đặt hàng các ứng dụng giao hàng. Nhưng trong bao lâu? Camus biết câu trả lời: chúng ta không thể biết.

Giống như những người đàn ông và phụ nữ sống trong thời kỳ gián đoạn gần một thế kỷ trước, những người mà Camus đã mô phỏng lại để minh họa cho chủ đề không thể tránh khỏi của mình, tất cả những gì chúng ta có thể biết là sự gián đoạn này sẽ không kéo dài mãi mãi. Nó sẽ đi, không thể giải thích được, khi nó đã vừa ý. Và một ngày, những thứ khác sẽ xuất hiện. Và khi đó, cuốn tiểu thuyết của ông đã cảnh báo từ lâu, và giờ đây cho chúng ta thấy rõ hơn, chúng ta phải cẩn thận để hiểu chính xác những điềm báo. “Có rất nhiều bệnh dịch cũng như chiến tranh trong lịch sử”,  Camus viết, “Tuy nhiên, luôn luôn có những tai họa và cuộc chiến làm mọi người ngạc nhiên.”

Hết.

Chan Trang lược dịch.

Bài viết gốc được Liesl Schillinger thực hiện, đăng tại Literary Hub.

Ảnh đầu bài: Fanpage Nhã Nam


Bài viết có thể bạn sẽ thích




Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng