Phía sau trang sách

Tôi hiểu được gì từ “Gối đầu lên cỏ”

Published

on

Văn học Nhật đối với tôi bảng lảng, phảng phất và không rõ ràng. Từ trước đến nay, nếu có ai mong muốn luận bàn về những tác phẩm thuộc dòng văn chương này, tôi đều xin kiếu. Bởi lẽ từ Kawabata Yasunari, Banana Yoshimoto cho đến Haruki Murakami hay Yoko Ogawa; tôi hiếm khi cảm được cái không rõ ràng ấy. Có thể nói những dòng chữ trong các cuốn ấy đọc cho có thì thôi, chứ rồi chữ nghĩa trong đầu không đọng lại mấy, (dĩ nhiên) trừ những tác phẩm giản tiện hay thật khác biệt của Yoko Ogawa.

Xếp hạng nhà văn tôi không thể cảm trong khi thế giới ngoài kia tung hô chào đón, thì có thể xếp Murakami số 1 và Kawabata số 2. Dĩ nhiên tôi không đánh đồng văn chương của hai tiên sinh là không giá trị hay không hay ho. Bởi nhẽ nếu không đọng lại một điều gì đó thì Nobel sẽ không ghé thăm (dù những năm nay scandal là thứ người ta quan tâm hơn cả), và cũng sẽ không bán chạy đến mức người ta trầy da tróc vẩy giành nhau khi giá xuống nửa. Thế nhưng đối với riêng mình, văn chương hai ông là thứ gì đó có vẻ lớn lao, nhưng rồi tắt lịm không một ý chí.

Dĩ nhiên điều đó làm tôi cảnh giác mỗi khi bắt gặp cái nhãn Nhật Bản cho những cuốn sách. Lớp nhà văn tiệm cận tôi đã cho qua, thì nói gì đến thế hệ trước đó, thế hệ cận đại với ba tên tuổi xem như trụ cột của một trường phái văn chương có tên rất kiêu – trường phái tâm lý cao sang – bút chiến với chủ nghĩa tự nhiên trên văn đàn Nhật đầu thế kỷ XX. Tất nhiên tôi không cho rằng bản thân hẳn có tâm lý “cao sang”, bởi vốn dĩ đời sống hiện nay đè nén người ta, muốn bay lên trời khó ngang đeo tạ thì nói làm chi đến kiểu thoát tục thành ra “cao sang”?  Nên trường phái ấy cũng giống như tôi bắt gặp Coca mà không calo, như hàng xả ra được hô lỗ vốn hay những Swifties chấp nhận thực tế đĩa nhạc của thần tượng mình thật sự dở tệ.

Trong số ba trụ cột đó, Natsume Sōseki có lẽ là nhà văn được ưu ái nhất khi hàng năm vẫn được giới thiệu những tác phẩm mới so với Mori Ogai hay Akutagawa Ryunosuke. Nếu ai đó hỏi văn phong của Sōseki được tả thế nào, thì như ý kiến của một nữ nhân chìm đắm Dazai Osamu, đó là nó khá thuôn thước đến độ được đem giảng dạy trong sách giáo khoa (so với độ sâu và khá tăm tối của những nhà văn tự tử sau này). Thế nhưng ẩn trong những dòng văn ấy luôn luôn chứa đựng những sự phản kháng và niềm nổi loạn của những con người bị gò vào trong khuôn thước.

Nếu Botchan là sự phản kháng với một thế giới được trù định sẵn, Cỏ ven đường là cái vướng víu trên bước đường đi, Ngày 210 lại là thể nghiệm như một vở kịch của những hiện đại ào vào nước Nhật thì Gối đầu lên cỏ là những suy tư đến độ đa tầng của người nghệ sĩ. Chính trong Gối đầu lên cỏ hay Kusamakura được viết vào năm 1906 này, mọi chủ thuyết của Sōseki như đang hiện lên trước mắt người đọc, vì không có gì là thực tế cả trong một đời thực quá nhiều vướng víu, quá nhiều con người cùng những mưu mô, chước hại không biết bao giờ mới thôi yên nghỉ.

*

Gối đầu lên cỏ là chuyến hành trình của một họa sĩ xứ Tokyo lên núi mùa xuân để tìm cảm hứng. Cũng chính trên chuyến đi ấy, anh đã đến được sơn thôn với những con người – nhân vật tưởng như xưa cũ nhưng rất thanh tao. Ở đó có những suy tư về con người anh, về những nghệ sĩ, về cuộc đời này. Cũng có trăn trở về một nước Nhật bảng lảng mù sương khi hiện đại hóa tràn ngập vào đây, làm mất bản sắc của chính con người. Chính cái đối lập giữa vùng sơn thôn cùng cái hiu hắt của chiếc tàu hỏa chở người ta đi vào trong cuộc chiến đã như bức tranh hai mảng sáng tối của cuộc đời này. Để cũng từ chính những suy tư ấy, ta thấy được tia phản chiếu trong sự sống này, dẫu cả trăm năm đã kịp vút qua như cơn bão quấy.

Có thể thấy những tri thức mới xứ Tokyo luôn luôn trở lại trong những trước tác đậm tính tự sự của Sōseki. Nếu trong Cỏ ven đường là cậu Kenzō từng đi du học trở về cố hương, thì trong Gối đầu lên cỏ là chàng họa sĩ ở nơi phố thị trốn tránh cuộc đời. Việc đặt nhân vật vào trường học thức hay những phông nền ở mặt nghề nghiệp đã cho thấy rõ đối tượng ông muốn hướng tới – tầng lớp tinh hoa với những đặc trưng về sự “cao sang” coi thường sự đời. Một trăm năm sau, nhờ những nỗ lực xóa vùng mù chữ, ai ai cũng đã trở thành những tri thức mới – những người ít nhiều tự mình có thể tư duy – dẫn đến trước tác của Sōseki mở rộng ra với người đọc, không còn bó buộc ở mặt nhận thức, mà là bó buộc về phía suy nghĩ, đối với những ai vẫn giữ khả năng tự ngẫm chính mình.

Bài học số 1. Chính thế giới quan vẫn luôn thay đổi dẫu ta có đang làm gì. Trải đời hai mươi năm, tôi nghĩ thế giới này là một nơi đáng sống. Sau hai mươi lăm năm thì tôi đã hiểu ánh sáng và bóng tối chỉ là hai mặt của một vấn đề […] Và bây giờ, khi ở tuổi ba mươi, tôi nghĩ thế này: niềm vui càng lớn thì nỗi buồn càng mênh mông, sung sướng càng nhiều thì đau khổ càng ghê gớm. Khi ta cố gắng thoát khỏi điều đó thì cuộc sống sẽ chẳng còn gì. Khi ta cố gắng dàn xếp lại thì thế giới sẽ sụp đổ.

Cứ một chu kỳ tưởng chừng 5 năm, suy nghĩ trong con người ta sẽ thật khác biệt. Điều này không nói cũng dễ nhận ra, dĩ nhiên đời sống không ai đoán định, nói chi trở thành loài này mà việc ra đời đã như hành xácTrở thành con người thật sự khó khăn, càng khó khăn hơn khi họ suy tư như một nghệ sĩ. Triết gia từ cổ chí kim vẫn được ca ngợi như những con người làm nên văn minh, nhưng mà thật ra, tôi lại nhìn họ dưới mắt thương cảm. Họ đã phôi thai những câu đơn giản về kiếp sống này, để rồi oằn mình tìm câu trả lời. Họ tự đâm mình bằng nhiều nhát dao, khi ướm đời mình vào sự mênh mông của cõi vũ trụ. Giữa quá trình suy tư đến vô cực độ ở những triết gia, một lúc nào đó hình ảnh Athena hoài thai trong đầu của Zeus lại vọt được ra trong tâm trí tôi, như sự khó chịu của những con người biết suy tư sâu, biết nhìn nhận đời. Bởi lẽ khi biết suy tư, ta càng dấn sâu vào trong bể đời. Hay khỏi suy tư?

Bài học thứ 2. Như những câu nói làm giàu từ bi với tâm hỷ xả. Sự giàu có trước mắt cũng chỉ là bụi. Danh vị mà ta giành lấy hay vinh quang mà ta chiếm được chẳng qua cũng giống như một con ong ranh mãnh, vờ tạo ra thứ mật ngọt quyến rũ nhưng lại giấu nọc độc bên trong. Thời thế của Sōseki khi viết ra được những câu chữ này trong màu bảng lảng của núi mùa xuân thật là phù hợp, thế nhưng rõ ràng ở thời ngày nay, chính con người ta không thể làm theo mà nếu không muốn bản thân chết đói.

Trước khi đến với tiểu thuyết tôi như một con suối nhỏ. Khi đọc George Orwell tôi bắt đầu nghĩ cuộc đời vốn biến động này không chỉ có Peter Pan hay Tinker Bell mà còn lũ vật đòi nhiều quyền lợi hơn những loài khác. Khi đọc Anna Karenina hay Bà Bovary, tôi lại vỡ ra, sống phàm chỉ 60 năm thủy chung một lòng, thay vậy ta đi ngoại tình để đời nhiều cú ngoặt hơn, nhiều plot twist hơn để rồi sau này nằm xuống cũng không hối tiếc? Và vâng, chính những tiểu thuyết làm tôi sống kịch tính hơn, nhiều drama hơn vì đời ngắn ngủi. Danh vị, giàu có nếu thuộc về ta thì cứ cố giành, phàm gì để cho người khác trèo lên đầu mình? Sōseki sống trong sương mù của núi mùa xuân, ông cũng không chỉ ra rằng họa sĩ không vẽ bức nào mà vẫn có tiền ở suối nước nóng (hay hầu hết những tác phẩm ấy đều khinh tiền bạc kim tiền thì phải) thì thôi ở thời đại này, bằng văn minh phương Tây, mọi người hãy sống và tranh giành nhau cái gì của mình, vì không có núi mùa xuân để mà dạo bước, cũng không có ai cho không bất cứ thứ gì.

Bài học thứ 3. Nếu không muốn rước phiền hà vào người, dĩ nhiên đừng đòi công bằng. Người ta hay nói đến những khái niệm “vô tư”, “công bằng”. Nếu điều đó được xem là quan trọng thì có lẽ người ta nên giết cả nghìn sinh mạng mỗi ngày, rồi đem những xác chết kia làm phân bón cho cỏ hoa khắp chốn… Công bằng thời nào cũng là giễu nhại, vì nó có đó nhưng chỉ tồn tại ở mặt câu chữ.

Dường như trở thành bản chất hay điều gì đó tồn tại từ lâu, công bằng là một trò chơi không hơn không kém. Và đã là một trò chơi thì sẽ có luật, kẻ thắng người thua và những người thua không có quyền chọn. Đó là quy luật, tồn tại khách quan, không thể tránh khỏi. Nên cứ nghĩ thế để khỏi suy tư, không phải bị thương bằng những nhát dao vô cùng đau đớn. Mà phải sự đời vẫn luôn là thế, có gì khác đâu.

Bài học thứ 4. Không có gì đặc trưng cho sự văn minh của thế kỷ hai mươi bằng tàu hỏa […] Người ta bảo là “lên tàu”. Tôi thấy như thế là bị nhồi nhét. Người ta bảo là “đi tàu”. Tôi thấy là bị áp tải. Chẳng có cái gì chối bỏ cá tính như là thứ tàu này. Văn minh làm cho con người có thể phát huy cá tính nhờ những phương tiện nhất định, nhưng rồi cũng có những thứ phương tiện hủy hoại cá tính của con người […] Kiểu văn minh hiện thời cứ như là cấp cho mỗi người một mảnh đất nhỏ xíu như nhau, rồi bảo người ta cứ tùy ý, thức hay ngủ gì trên mảnh đất ấy cũng được. Đồng thời lại dựng lên một hàng rào thép xung quanh mảnh đất kia, không cho người ta bước ra ngoài dù chỉ là một bước. Những người sống tự do bên trong hàng rào thì cũng muốn sống tự do ở bên ngoài, đó là chuyện hiển nhiên.

Rồi con người ta cũng thành robot, bởi những đồng nhất về mặt văn hóa, về bản dạng người. Hàng ngày xếp hàng đợi chờ để lấy phần ăn ở công ty mình, tôi những tưởng bản thân là con gà béo chờ vào đường dây. Từ khi nào tự chuẩn bị thức ăn trở thành một xa xỉ phẩm để được đánh đồng trăm người như một? Để rồi quanh quất trong giờ ăn trưa ai cũng như nhau cùng một động tác, ai cũng lờ đờ trong trí não mình, ai cũng như nhau không khác thứ gì. Nền văn minh rỉ máu, đâm lén vào nhau như một nhát dao bén nhọn. Suy tư làm gì trước một đế chế trở thành hùng bạo, dẫm nát bất cứ một ai muốn tìm lại mình. Cứ cúi mặt xuống và tiếp tục ăn. Có gì mới đâu!

*

Sōseki không phải là người đầu tiên, cũng chẳng là người cuối cùng. Luôn luôn là thế.

Hết.

Chiêu Dương

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng