Trà chiều

Personal Taste – Tiếng thở dài trong sáng

Phải là người cô đơn ở mức độ nào mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Published

on

Personal Taste không phải là một phim xuất sắc, cả từ thời cách đây sáu năm khi tôi lần đầu tiên xem phim cho đến tận bây giờ, nhận định đó vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, có một thứ trong bộ phim này khiến tôi luôn nhung nhớ: sự cô đơn của Gae In. Sự cô đơn ấy được phản chiếu qua những tấm gương. Thật kì lạ vì nó không mang màu sắc quá u tối dù có nỗi cô đơn nào lại không trĩu nặng buồn bã. Hơi thở trầm buồn của Gae In phả vào những tấm gương ấy chỉ khiến cho sắc phản chiếu của nó bị mờ đục đi đôi chút; dưới ánh nắng lấp lánh, nó vẫn ngân lên một tia sáng trong trẻo hồi đáp lại tín hiệu của nắng. Như những bức ảnh được chỉnh sắc tương phản thấp lại và trở nên mềm mại, xao xuyến hơn khi tạo ra cảm giác mọi thứ chìm trong lớp sương mù, nỗi buồn của Gae In phủ lên tấm gương cô đơn cũng tương tự như vậy. Một nỗi buồn dịu dàng, một sự cô đơn đằm thắm.

Những tấm gương

Tôi xem Personal Taste 1 + 1/16 lần, nghĩa là một lần tôi xem trọn 16 tập phim và một lần tôi chỉ xem lại đúng tập một. Lần nào xem, tôi cũng đều bị xúc động bởi một chi tiết đơn giản ở tập một: chiếc bàn của Gae In. Gae In làm công việc thiết kế các đồ nội thất trong nhà, cô không chỉ vẽ mẫu mà còn tự tay thực hiện các mẫu thiết kế như một người thợ mộc thực thụ. Trong một hội chợ đồ nội thất, Gae In đã bày bán “chiếc bàn trò chuyện” của cô. Không ai hiểu chiếc bàn này có gì đặc biệt, nhìn bề ngoài, có vẻ như nó chỉ là chiếc bàn gỗ thông thường. Gae In giải thích: “Chiếc bàn này dành cho những người cô đơn, muốn có người ngồi đối diện trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn nhưng lại chẳng có ai. Không phải ai cũng có người yêu hoặc ở cạnh gia đình, vì vậy, chiếc bàn này dành cho họ. Nếu như bạn ngồi ở phần bên này của chiếc bàn, bạn hãy mở nắp gương ở phần đối diện, một tấm gương sẽ được dựng đứng trên bàn đối diện với vị trí bạn ngồi. Như vậy là, bây giờ bạn đã có thể tự trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn rồi. Nếu bạn không thích ồn ào, bạn có thể im lặng và chỉ cần thoáng nhìn bóng mình phản chiếu trong gương, cảm giác gần như có một người đang ngồi đối diện với bạn, nhìn bạn trong bữa ăn cũng đã khiến bạn bớt cô đơn đi rất nhiều rồi, có phải không?” Một điều dễ dự đoán là tất cả mọi người, khi bước qua gian hàng ấy, nghe Gae In trình bày như thế này đã cười cợt cô nàng, nói rằng chiếc bàn này rất vô dụng, sự “đặc biệt” của nó khiến họ cảm thấy rất ngớ ngẩn. Tình tiết này được xây dựng như một tình tiết hài hước trong phim. Và quả thực, lần đầu tiên xem đoạn này, tôi đã bật cười. Ý tưởng của Gae In sao mà ngộ nghĩnh quá. Nhưng sau khi nhìn mọi người, những người trong phim ấy cười và mỉa mai Gae In, tôi lại thấy thương cô vô cùng. Sự vui vẻ bên ngoài khi Gae In giới thiệu sản phẩm thực chất chỉ là để che giấu nỗi buồn trong lòng cô. “Chiếc bàn trò chuyện” ấy không phải là thứ tạo ra âm thanh; ngược lại, nó tăng cường độ của sự im lặng lớn hơn khi người ta phải tự đối diện với chính mình, tự đối diện với việc mình đang cô đơn, tự đối diện với từng sắc thái, biểu cảm trên khuôn mặt mình khi đang ăn. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ không mua chiếc bàn đó, nó không tạo ra một hiện hữu thực sự; thay vào đó, nó lại tô đậm hơn sự vắng mặt. Tôi không đánh giá cao tác dụng chữa lành cảm giác cô đơn mà Gae In muốn gán cho chiếc bàn, tuy nhiên, chính từ chi tiết này khiến tôi bắt đầu yêu mến Gae In và mong một ngày, cô tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Bởi vì, phải là người cô đơn ở mức độ như thế nào đó mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Sau này, tôi mới hiểu vì sao trong mẫu thiết kế về chiếc bàn của Gae In, tấm gương lại đóng vai trò chủ đạo như vậy. Trong tiềm thức, cô vẫn luôn có cảm giác mình là người đã gây ra cái chết cho mẹ. Bố Gae In vốn là một kiến trúc sư và mẹ cô cũng là nhà thiết kế nội thất như cô. Bên dưới phòng khách nơi căn nhà họ sống là tầng hầm để mẹ cô làm việc. Vì công việc bận rộn, bà thường xuyên xuống tầng hầm để Gae In một mình chơi đùa trong phòng khách. Nơi sàn nhà của phòng khách ngay phía trên chiếc bàn lớn mà mẹ Gae In thường đứng làm việc dưới tầng hầm, bố cô không lót gạnh mà lót một tấm kính thật lớn. Như thế, vào ban ngày, mẹ Gae In không cần mở đèn dưới tầng hầm mà vẫn có thể nhận được nguồn sáng rõ ràng từ mặt trời để làm việc. Khi ấy, Gae In vẫn còn rất nhỏ. Nơi phòng khách, cô bé Gae In cứ bò qua bò lại trên tấm kính và nhìn mẹ làm việc ở dưới tầng hầm; thỉnh thoảng, mẹ ngước nhìn lên mỉm cười với cô, nụ cười của mẹ thật hiền hậu trong ánh sáng mặt trời chiếu trên khuôn mặt mẹ. Tại sao mẹ lại ở dưới hầm thế kia? Tại sao mẹ không lên chơi với Gae In? Không. Gae In không muốn mẹ cứ ở dưới hầm. Gae In muốn mẹ ở đây, ở ngay bên cạnh cơ. Gae In muốn chơi cùng mẹ. Thế là, Gae In đập tay lên tấm kính nhiều lần để gọi mẹ. Nhưng mẹ Gae In không nghe được tiếng đập kính vì tiếng máy khoan thậm chí còn lớn hơn.

Và…

Một tia nắng chợt gắt lên vì không còn gặp vật cản trở nữa, nó dội thẳng xuống tầm hầng, xuống đôi mắt mẹ như một tia nước mảnh nhưng có sức bắn mạnh mẽ. Mẹ chói mắt. Và rồi, một khoảng nắng nữa, một khoảng nắng nữa, tất cả khoảng nắng đổ ập xuống như cơn thác lũ tàn nhẫn cuốn trôi theo nó là vô số mảnh kính đang ánh lên tia sáng nhức mắt. Gae In cũng rơi xuống cùng dòng thác đó nhưng mẹ đã kịp thời đón lấy và che chở cho cô bé để rồi bị những mảnh kính đâm vào người. Sau tai nạn ấy, mẹ Gae In qua đời. Tai nạn đó đã luôn ám ảnh Gae In, cô nghĩ rằng mình là nguyên nhân gây ra cái chết của mẹ. Tôi không còn nhớ rõ về bố cô sau đó nữa, tôi không nhớ là ông đã đau buồn, tức giận vì ngôi nhà mình xây không an toàn, gây nên cái chết cho vợ nên tự tử hay chỉ đơn giản là rời đi, đến một nơi khác, một căn nhà khác, bỏ lại Gae In một mình ở căn nhà ấy. Nhưng điều tôi nhớ rất rõ là Gae In đã sống cô đơn trong căn nhà ấy cho đến năm ba mươi tuổi.

Jin Ho đã đến với Gae In và anh giúp người phụ nữ ba mươi tuổi này xoa dịu nỗi cô đơn bằng niềm hạnh phúc trong tình yêu, thứ tình yêu đã lâu lắm rồi Gae In không biết đến, thứ tình yêu có thể khiến cô say đắm đến mức gạt bỏ đi sự vị kỷ thông thường khi yêu để thốt lên với anh rằng: “Dù anh là gay, em vẫn yêu anh. Anh cưới em đi, em chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình yêu để anh có thể được thoải mái ở bên cạnh người ấy. Vì chỉ cần nhìn thấy anh hạnh phúc, em cũng hạnh phúc.” Khoảnh khắc Gae In thổ lộ với Jin Ho điều này, tôi thực sự ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không ngờ cô yêu anh đến như thế, cố gắng suy nghĩ vì anh đến như thế, và đồng thời tôi cũng ngỡ ngàng vì một Gae In nhút nhát lại có thể thẳng thắn nói ra điều này sao? Nhưng sau thoáng ngỡ ngàng đó, suy nghĩ kĩ lại thì điều này vô cùng hợp lí. Người con gái ba mươi tuổi ấy trước giờ chỉ biết đến nỗi buồn, sự cô đơn, và dù như thế, người con gái ấy vẫn luôn tiếp tục cố gắng một mình dẫu có nhiều lúc rất mệt mỏi, đã rất lâu rồi, không ai đem đến cho cô niềm hạnh phúc giản dị như ngồi ăn chung một bàn, xem cùng một chương trình truyền hình, chia sẻ cùng một không gian sống với cô để phá vỡ đi sự tĩnh lặng tưởng chừng không thể thay đổi; khi ai đó đem lại cho cô tất cả những điều ấy, cô còn đợi chờ gì để lãng phí thời gian nữa. Không. Gae In đã chờ đợi quá lâu và cô cần phải nắm giữ ngay điều quí giá ấy cho dù nó có thể biến thành thứ mang sức hủy diệt tương tự như những mảnh kính vỡ kia, cho dù nó có đâm vào đôi bàn tay cô khiến cô đau, khiến cô rướm máu.

May mắn cuối cùng đã đến với Gae In sau rất nhiều nỗi buồn, còn điều nào may mắn hơn khi người mình yêu cũng yêu mình. Hơn nữa, chính người ấy đã giúp Gae In chữa lành vết thương quá khứ. Nhờ có anh, cô biết được rằng bố cô thiết kế tấm kính lớn gắn trong phòng khách là vì mong muốn của mẹ cô, vì bà luôn muốn nhìn thấy cô mỗi khi làm việc. Và bố cô không căm ghét cô, ông căm ghét chính bản thân mình vì đã không thể tính toán được trường hợp bất đắc dĩ xảy ra như thế, vì ông đã đặt tấm kính theo một kết cấu sai và đã không chọn loại kính có cường lực lớn hơn. Đó không hoàn toàn là lỗi của Gae In. Nếu nói tai nạn ấy là lỗi thì đó là lỗi của tất cả mọi người. Làm sao một cô bé nhỏ tuổi có thể nghĩ rằng lực từ bàn tay mình đập có thể làm vỡ một tấm kính? Và thực ra, kể cả người lớn cũng không lường trước được điều đó. Có thể vì tấm kính ấy đã bị lỗi nhưng cũng có thể, đó là vì khát khao được mẹ nghe thấy tiếng nói của mình trong cô bé quá lớn. Dù như thế nào, tất cả mọi chuyện đều đã qua. Giờ đây, có một bàn tay dịu dàng đã lau sạch lớp bụi mờ phủ trên tấm gương.

Câu trả lời

Personal Taste không phải là một phim tôi sẽ hào hứng giới thiệu với mọi người và bảo rằng nó rất hay, cần xem, nên xem. Nếu làm như thế, tôi sẽ tự dối lòng mình hoặc cảm thấy rất xấu hổ, hoặc sợ hãi vì bộ phim này có thể đem đến trải nghiệm không tốt cho người tôi giới thiệu. Cũng như Suicide Squad, Personal Taste là một phim thật dễ tìm điểm tệ của nó để phê phán: cốt truyện có nhiều điểm phi lí, nhân vật một chiều vì chỉ có một mục tiêu suốt phim, nhiều đoạn hài hước còn cường điệu, nhiều đoạn sinh hoạt đời thường dài dòng không cần thiết cho thấy bộ phim là sự kết hợp tham vọng giữa thể loại drama và slice of life nhưng đôi khi lại phân vân không biết theo thể loại nào dẫn đến toàn bộ cấu trúc phim có gì đó không vững chắc, đồng đều… Có quá nhiều điểm để chê Personal Taste và thời điểm ra mắt, bộ phim này được đánh giá là không thành công, một dự án “flop” vì giới phê bình không đánh giá cao, khán giả đại chúng có vẻ như cũng không thích phim vì rating không cao (so với thời điểm đó) và chưa bao giờ rating được lọt vào top ba, tập cao nhất cũng chỉ ở thứ hạng tư, còn lại ở hầu hết các tập thì rating đứng vị trí thứ bảy hoặc tám. Người ta ngạc nhiên vì sao một kịch bản viết không chắc tay lắm như vậy lại được Son Ye Jin lựa chọn? Trước đó, phim Spotlight (2008) mà Ye Jin tham gia đã không mấy thành công với rating cực kì thấp vì phim kén khán giả đại chúng Hàn: phim chỉ tập trung vào miêu tả công việc của các phóng viên truyền hình và điều đặc biệt là toàn phim không hề có loveline – một điều rất hiếm thấy trong phim Hàn. Cá nhân tôi cũng không thích Spotlight nhưng tôi đánh giá cao sự lựa chọn của Ye Jin vì tôi hiểu onnie đang muốn thử sức mình ở những dạng phim khác biệt với truyền thống của Hàn, onnie không muốn đóng khung ở thể loại phim tình cảm – lãng mạn, vì vậy onnie chọn Alone in Love (một phim dòng slice of life) và sau đó là Spotlight (một phim nghề nghiệp). Sau hai phim vốn không phải là gu của khán giả đại chúng Hàn Quốc, onnie quay trở lại đóng dòng phim chính thống của truyền hình Hàn, một phim nhắm tới mục đích thị trường và được dự báo sẽ thu hút đông đảo khán giả trẻ bởi phim còn có sự tham gia của Lee Min Ho – một diễn viên vừa mới nổi và đang rất được yêu thích tại thời điểm đó sau Boys Over Flowers. Thế nhưng cuối cùng, phim thất bại vì một kịch bản không ổn định trong mặt cấu trúc và thậm chí, đôi khi dường như không rõ ràng trong mặt thể loại: có những lúc phim hài đến mức hài nhảm chứ không phải là hài có duyên vì lạm dụng hài hình thể quá đà để gây cười, có những lúc phim lại quá kịch tính đến mức người ta nhìn rõ sự cố tình để tạo ra kịch tính đó, có những lúc phim lại trôi qua đều đều như slice of life… Vì vậy, bộ phim khó có thể duy trì mạch cảm xúc xuyên suốt cho khán giả theo dõi phim. Thế nên, có rất nhiều người tự hỏi vì sao một diễn viên kì cựu như Son Ye Jin lại chọn tham gia phim này? Trong những người đó có tôi, và tôi còn tự đặt thêm cho mình câu hỏi nữa: vì sao có thể dễ dàng thấy nhiều điểm chưa tốt ở phim này và không dám giới thiệu nó cho ai nhưng thực lòng tôi vẫn thích nó?

Chính vì những lí do đó mà cách đây sáu năm, khi xem xong Personal Taste, tôi đã không hề viết bất cứ dòng nào cho nó. Trong những năm vừa qua, tôi cũng không giới thiệu đến ai bộ phim này. Nhiều lần, tôi nghĩ mình đã quên Personal Taste, rằng nội dung của nó sẽ hoàn toàn trôi tuột khỏi tâm trí tôi như rất nhiều phim khác tôi từng xem. Nhưng thật kì lạ, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến Gae In, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến thứ không khí mơ hồ còn đọng lại sau khi xem phim dù đã quên rất nhiều chi tiết nội dung phim, và bao giờ tôi cũng nhớ rất rõ đến hình ảnh tấm gương hay tấm kính, đến sự cô đơn của Gae In. Có lẽ, hình ảnh tấm gương đã trở thành một chiếc thẻ, một “tag” giúp tôi lưu trữ và nhớ về những chi tiết trong phim xoay quanh nó. Và sau sáu năm, tôi nhận ra tôi không chỉ thích Personal Taste vì hình ảnh tấm gương ấy, trong tiềm thức từ lúc nào không biết, tôi đã thích bộ phim này vì nó là chính nó, là cái tổng thể chung bất toàn và còn nhiều khiếm khuyết đó. Cùng với Suicide Squad, Personal Taste có lẽ chỉ mới là phim thứ hai mang đến cho tôi hiện tượng này: ta không thể nói rằng phim hay bởi những điểm chưa tốt lộ quá rõ nhưng đồng thời ta vẫn yêu thích nó. Thông thường, những phim tôi thích sẽ là những phim tôi cảm thấy hay (xét cả về mặt lí tính lẫn cảm tính) và không ngần ngại giới thiệu nó cho mọi người trong những dịp có thể. Nhưng, Suicide SquadPersonal Taste là ngoại lệ. Sau khi xem Suicide Squad, tôi đã rất thắc mắc về chính cảm xúc của bản thân mình: vì sao tôi có thể thấy những điều mọi người chê ở phim là hợp lí và bản thân tôi cũng thấy phim không thể gọi là hay, không xuất sắc nhưng tại sao tôi lại thích nó đến như thế? Chính vì không hiểu nổi cảm xúc của bản thân mình, tôi đã viết một bài review về Suicide Squad để làm phép thăm dò tiềm thức nhằm khả dĩ giúp tôi hiểu được nguồn cơn. Sau khi viết xong review cho Suicide Squad, tôi đã phần nào hiểu hơn lí do vì sao phim không hay nhưng mình thích. Vì vậy, tôi cũng muốn làm động tác tương tự cho Personal Taste để phần nào giải đáp những thắc mắc của mình sau sáu năm. Đó là lí do tôi cố gắng viết bài review này dù không còn nhớ phần lớn nội dung phim, dù tôi chỉ nhớ cảm xúc và không khí chung, dù chỉ còn vài hình ảnh được neo lại. Tôi đã cố gắng viết bài này mà không xem lại phim để làm rõ những chi tiết mình đã quên. Vì vậy, có thể bài viết này mang tính không chính xác, thậm chí sai lệch ở phần chi tiết và trích dẫn thoại bởi nó được hồi tưởng lại từ một kí ức không còn mấy rõ ràng nữa. Dù như thế, tôi vẫn muốn viết lại sự mơ hồ này để lưu giữ nó, bởi chính sự mơ hồ cũng quan trọng không kém sự rõ ràng, chi tiết. Và dường như, cũng bởi vì tôi đã yêu Personal Taste bằng một thứ tình yêu mơ hồ.

Tôi không còn băn khoăn về việc mình thích Personal Taste nữa. Câu trả lời rất đơn giản. Đó là personal taste. Có lẽ, tôi cũng đã phần nào hiểu được lí do vì sao onnie tham gia Personal Taste. Có phải vì sự cô đơn của Gae In không? Có phải vì chính nỗi niềm này như Dos đã viết trong The Raw Youth không? “Với năm tháng, niềm vui và nỗi buồn dường như lẫn lộn với nhau, biến thành tiếng thở dài trong sáng.” Và Gae In cũng có một tiếng thở dài trong sáng như thế.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Vũ Đằng kết đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong Chợ Tết Tình Quê

Published

on

By

Nam diễn viên Vũ Đằng sẽ sánh đôi cùng “nàng Kiều” Trình Mỹ Duyên trong bộ phim phát sóng vào ngày mùng một Tết nguyên đán Ất Tỵ.

Chợ Tết Tình Quê là câu chuyện tình cảm của một đôi bạn trẻ diễn ra trong những ngày giáp Tết Ất Tỵ ở cù lao An Bình (tỉnh Vĩnh Long). Gia Bảo (Vũ Đằng đóng) là một chàng công tử chính hiệu, chán chường cuộc sống xa hoa, xô bồ nơi phố thị cũng như muốn thoát khỏi sự kìm kẹp của mẹ, Bảo bỏ nhà đi bụi vào một buổi chiều tháng chạp. Anh xuôi về miền Tây sông nước, nơi có làng nghề gốm đỏ, làm nhang, trồng trái cây, hoa kiểng để tìm lại những ký ức thời thơ ấu, khi gia đình còn trọn vẹn. Tình cờ gặp được Vũ Nghi (Trình Mỹ Duyên), Bảo choáng váng và thậm chí ghét bỏ, nhiều lần cản trở, gây tai họa cho cô vì hiểu lầm cô là người thực dụng, lợi dụng tình nghĩa của bà con dưới quê để kiếm danh.

Vũ Nghi vốn là người sinh ra ở cù lao An Bình. Cô mồ côi cha mẹ, sống với người cậu từ bé nên tính cách cứng cỏi, đạt giải một hoa khôi nhưng từ chối mọi sự săn đón của các đại gia mà muốn đi lên từ thực lực. Vũ Nghi hoạt động như một hot streamer trên mạng xã hội, sở hữu những trang cá nhân có lượt theo dõi khủng. Chương trình thực tế 100 nghề của cô nhận được nhiều sự quan tâm của công chúng, trong đó có những tập quảng bá về ngành nghề truyền thống cũng như du lịch sinh thái ở quê hương Vĩnh Long. Hoàn cảnh đưa đẩy cả hai thành cặp đôi “oan gia ngõ hẹn”, ban đầu là ghét nhau, sau dần dần cảm mến rồi tiến tới tình yêu.

Bên cạnh chuyện tình của cặp trai tài gái sắc Gia Bảo – Vũ Nghi, đạo diễn Quách Khoa Nam và biên kịch Phan Ngọc Diễm Hân còn dẫn dắt khán giả màn ảnh nhỏ tham quan cù lao An Bình cũng như những miền quê xinh đẹp, trù phú của tỉnh Vĩnh Long. Người xem sẽ được chiêm ngưỡng vẻ đẹp bình dị của làng nghề gốm đỏ, làm nhang, những làng hoa Tết sum suê, vườn trái cây trĩu quả… Không khí của phim diễn ra trong những ngày giáp Tết, thời khắc mùa Xuân hiện hữu đẹp nhất với những màu sắc, mùi vị đặc trưng của xứ Nam Bộ.

Khi nhận được kịch bản Chợ Tết Tình Quê, diễn viên Vũ Đằng  cảm thấy rất lo lắng vì nhân vật không có chút gì giống mình ở ngoài đời. “Với một thanh niên 28 tuổi thì ai lại không muốn thành công và được nhiều cô gái vây quanh nhưng Gia Bảo thì ngược lại, anh trốn tránh hết tất cả. Tuy nhiên, tôi đọc kỹ kịch bản, tìm cách thấu hiểu và cảm thông với nhân vật. Tôi đặt ra những câu hỏi “Tại sao?” và tìm cách giải đáp để làm dày lý lịch  để khi ra bối cảnh không còn khúc mắc với nhân vật” – anh chia sẻ. Tuy nhiên, đây không phải là điều làm khó Vũ Đằng mà chính việc hóa trang mới tạo cho anh nhiều trở ngại nhất trong quá trình thực hiện phim. Trước đó ít lâu, anh vừa hoàn thành một phim cổ trang, phải cạo đầu ba vá cho phù hợp nên sang Chợ Tết Tình Quê, Vũ Đằng không kịp để tóc trở lại bình thường, vậy nên ekip thực hiện quyết định cho anh đội tóc giả. Việc hóa trang tóc cho anh trước khi vào cảnh quay mất hơn một giờ, thêm nữa, thời tiết cũng khá nóng nên Vũ Đằng cũng không thực sự thoải mái với bộ tóc khi diễn. “Nó có thể rớt ra bất cứ lúc nào hoặc sai phom dáng nếu mình xoay đầu quá nhiều. Có một số cảnh nặng về tâm lý hay cần động tác hình thể nhiều thì buộc mình phải quên đi chuyện đội tóc giả để nhập tâm hơn. Nếu đội quá lâu thì bộ tóc cũng làm tôi cảm thấy đau đầu. Khi diễn những cảnh cuối cùng của phim, tôi thực sự thở phào nhẹ nhõm vì… được cởi hẳn và tạm biệt bộ tóc giả từ đây!”- anh dí dỏm.

Ngoài ra, phim còn có sự tham gia của các diễn viên: Quang Thái, Hoài An, Thanh Bình, Lê Trang…

Bộ phim do PNF sản xuất kéo dài 20 tập, phát sóng lúc 20h từ thứ hai đến thứ bảy hàng tuần trên kênh THVL1, khởi chiếu từ mùng 1 Tết nguyên đán Ất Tỵ (tức 29.01.2025)

Đọc bài viết

Trà chiều

“Hành trình Anh Hùng” ẩn trong Xứ Cát

Published

on

    Dựa trên công trình nổi tiếng Người hùng mang ngàn khuôn mặt của Joseph Campbell và các tương đồng trong lĩnh vực tâm lý học của Jung và Freud, tác giả Christopher Vogler đã cho độc giả một cái nhìn khác về cấu trúc tương đồng của hàng triệu câu chuyện từ cổ chí kim qua cuốn Hành trình người viết vừa được ra mắt.

Một cuốn sách quan trọng

       Cấu trúc nói trên xuất hiện từ các truyện cổ dân gian đến tiểu thuyết hiện đại, từ những bài đồng dao quen thuộc đến các bộ phim “làm mưa làm gió” tại Hollywood… Hành trình người viết không chỉ là một cuốn sách giúp ta nhận ra những rường mối quan trọng của nghệ thuật kể chuyện, mà song song đó còn là bài học để mỗi độc giả có được khả năng là một người viết.

       Vốn là một người tư vấn cốt truyện của Hollywood và đã kinh qua hàng nghìn kịch bản trong cuộc đời mình, Vogler có khả năng nhìn thấy những mối liên kết cũng như những điểm suy yếu trong các tác phẩm. Từ những đúc rút và kho kinh nghiệm bản thân có được, ông đã tạo nên cuốn sách vô cùng hấp dẫn. Để kiếm chứng điều đó, hãy thử lần ngược siêu phẩm Xứ cát chuyển thể tiểu thuyết khoa học viễn tưởng cùng tên của Frank Herbert do đạo diễn Denis Villeneuve thực hiện và so nó với những gì được tổng kết lại, để xem hành trình anh hùng của Vogler có giao điểm nào với Paul Atreides – người thanh niên đã làm nên những khoảnh khắc vô cùng chói lọi.

       Theo Vogler, nói thật gọn ghẽ thì hành trình anh hùng bắt đầu khi nhân vật chính được giới thiệu ở THẾ GIỚI BÌNH PHÀM nhận được TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU. Ban đầu họ MIỄN CƯỠNG, thậm chí buông lời TỪ CHỐI, nhưng do nhận được sự khích lệ từ SƯ PHỤ để VƯỢT QUA RÀO CẢN ĐẦU TIÊN, mà họ đã tiến vào Thế Giới Đặc Biệt - nơi họ sẽ gặp các KHẢO THÍ, ĐỒNG MINH VÀ KẺ THÙ. Sau đó họ TIẾP CẬN HANG ĐỘNG TRONG CÙNG, vượt qua rào cản thứ hai, nơi phải chịu đựng KHỔ HÌNH. Họ vượt qua, chiếm lĩnh PHẦN THƯỞNG và bị truy đuổi trên ĐƯỜNG VỀ với Thế Giới Bình Phàm. Không dừng ở đó, họ vượt qua rào cản thứ ba, trải nghiệm HỒI SINH và được chính trải nghiệm đó biến đổi. Cuối cùng họ TRỞ VỀ CÙNG THẦN DƯỢC, cùng lợi ích hoặc kho báu có lợi cho Thế Giới Bình Phàm.

Hành trình người viết không chỉ là một cuốn sách giúp ta nhận ra những rường mối quan trọng của nghệ thuật kể chuyện, mà song song đó còn là bài học để mỗi độc giả có được khả năng là một người viết. Ảnh: N.M.

Chặng đường phân tích      

       Áp vào Xứ cát, THẾ GIỚI BÌNH PHÀM của chuỗi phim này bắt đầu ở một hành tinh cách xa Trái Đất - nơi mà mọi thứ đều như không tưởng với những tiến bộ liên hành tinh và những thực thể vô cùng kỳ dị. Ở đó Công tước Leto của Gia tộc Atreides – người cai trị hành tinh đại dương Caladan - là nhân vật chính và nổi bật nhất. Nơi ông cai trị là phiên bản khác của một Trái Đất ngay bây giờ đây, với cây xanh bao phủ tươi tốt, với biển cả vỗ sóng và bầu không khí vô cùng trong lành. Về mặt chính trị, nhà Atreides được cư dân vô cùng ủng hộ vì mang đến sự bình yên và cân bằng. Sơ lược qua những nét này, có thể thấy Herbert (và cả Villeneuve) đã làm rất tốt trong việc xây dựng bối cảnh có tính đối lập liền ngay sau đó, để nhân vật chính bước vào hành trình của bản thân mình.

THẾ GIỚI BÌNH PHÀM của chuỗi phim này bắt đầu ở một hành tinh cách xa Trái Đất, nơi mọi thứ tươi tốt bất ngờ. Ảnh: Screen Rant

       Như đã nói trên, TIẾNG GỌI PHIÊU LƯU nhanh chóng xuất hiện khi Hoàng đế Shaddam của toàn đế chế nhanh chóng bí mật liên minh với nhà Harkonnen nhằm tránh khỏi sự uy hiếp mà rất có thể trong tương lai gần Leto sẽ tự đạt được. Vậy là một cuộc tàn sát được lên kế hoạch. Thoạt nhìn, có thể thấy Herbert dùng một motif vô cùng thân quen trong các sử thi từ cổ chí kim, khi đó là tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau. Và để tạo ra 2 phe kình chống, ông cho một bên lăng kính tích cực, còn phía còn lại tiến hành liên minh, và cũng vì thế mà thế trận ấy nhanh chóng cân bằng. Ta thấy điều này trong rất nhiều nơi, từ Tam quốc diễn nghĩa đến Con ngựa thành Troy, từ bộ Shogun đến bộ Taiko…Một điểm chung khác là sự báo hiệu cho câu chuyện dịch chuyển, khi người cha Leto nhanh chóng mất mạng để Paul Atreides – người con trai cả - sẽ thay bản thân bảo vệ gia đình, trả thù cho điều đã mất. Do đó mà Paul quyết định lên đường.

Herbert dùng một motif vô cùng thân quen trong các sử thi từ cổ chí kim, khi đó là tranh giành quyền lực, đấu đá lẫn nhau. Ảnh: LA Times

       Ở đây ta có thể thấy có những cổ mẫu vô cùng truyền thống được Herbert sử dụng. Trong đó Paul là anh hùng bị động – một người được đặt vào tình thế không thể khác hơn, và suốt hành trình sau đó từng bước học hỏi sẽ khiến cho anh dần dần chủ động. Đối diện trước trọng trách đặt lên bản thân, Paul dường như không có được động lực nào – một điều cũng là một chặng đường khác trên hành trình anh hùng. Rất may mẹ anh – Lệnh bà Jessica – người vừa là SƯ PHỤ, vừa là ĐỒNG MINH nhưng cũng có khi là kẻ ĐEO MẶT NẠ và cả BÓNG ĐÊM đã nâng đỡ anh và hướng anh theo con đường đúng đắn. Quê nhà tan tác trong khi bản thân thì bị truy sát, anh sớm VƯỢT QUA RÀO CẢN ĐẦU TIÊN để giữ được mạng sống nhờ vào những cận thần trung thành với mình. Hành trình này dễ thấy không quá phức tạp, và Herbert sẽ lại dồn nhiều sức hơn ở phía sau.

Paul và mẹ mình, thoạt nhìn, chính là 2 cổ mẫu anh hùng và sư phụ theo cấu trúc của Vogler. Ảnh: Den of Geek

       Chính khi bước vào THẾ GIỚI ĐẶC BIỆT - ở chiều rộng hơn là một cuộc sống không còn uy quyền của cha, không còn hành tinh Caladan mình vốn quen thuộc, anh đã gặp được những người bản địa Arrakis - những chiến binh thiện nghệ sống nơi sa mạc gọi là Fremen. Như vậy kể từ lúc này thì chặng thứ 2 của hành trình anh hùng chính thức bắt đầu. Cả Herbert và Villeneuve đều dành rất nhiều thời lượng cho giai đoạn này, để khắc ghi một hành tinh mới với loài sâu cát và quy luật sinh tồn ở thế giới mới, với các chi tiết như dịch nhầy sâu, với hương dược, với cách tạo nước và những con người mắt xanh biêng biếc có kỹ năng phi thường… Trong chương đoạn này, những cuộc KHẢO THÍ mà ĐỒNG MINH và KẺ THÙ liên tục xuất hiện cũng được diễn ra. Chẳng hạn KHẢO THÍ nằm ở chi tiết Paul phải chiến đấu với một người Fremen để chứng minh mình thuộc về nơi này trước khi được họ cứu giúp. Đối với những người bản địa, anh vừa là ĐỒNG MINH nhưng cũng là KẺ THÙ khi đã giết chết một trong số họ để mà bước tiếp.

Trận chiến của Paul trước một chiến binh Fremen chính là một cuộc KHẢO THÍ. Ảnh: Screen Rant

Những vòng lặp kép      

       Thế nhưng KHẢO THÍ không dừng ở đó, mà sau đấy liên tục là những bài học để cưỡi sâu cát, những trận oanh tạc vì phát hiện ra căn cứ bên dưới lòng đất của người Fremen… Chúng liên tục xuất hiện để thử thách Paul, để rồi cuối cùng anh được mọi người nhận ra chính là vị Thánh ghi trong sử sách toàn cõi ngân hà. Đa số thời lượng của phần 2 tương ứng với HANG ĐỘNG TRONG CÙNG – nơi anh chứng minh bản thân và giành được quyền vươn lên dẫn đầu. Ta thấy ở đây Herbert rất tài tình khi song song với những bước tiến về mặt quyền lực, thì cõi lòng Paul cũng chịu tra tấn trong những thay đổi của bản thân mình. Có thể nói tuy chặng đầu tiên của HÀNH TRÌNH ANH HÙNG đã gần hoàn thành xong với nhân vật này ở phía bên ngoài, nhưng thật ra một HÀNH TRÌNH ANH HÙNG khác cũng đang mở ra trong nội tâm anh, khi phải chứng kiến mục đích thật sự của mẹ anh – Lệnh bà Jessica, cuộc hôn phối với Công chúa của vua Shaddam và những biến động bên trong Chani.

Chani cũng là một nhân vật có hành trình anh hùng song song khác. Ảnh: Collider

       Khép lại 2 phần phim của Villeneuve, hiện Paul và Xứ cát đang dừng trước “trận đánh” quyết định để mang về PHẦN THƯỞNG và dần tiến đến HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ. Tuy khép lại tại đây nhưng có thể thấy Xứ cát là bộ tác phẩm đậm tính sử thi mà mỗi nhân vật lại tự sở hữu một HÀNH TRÌNH ANH HÙNG riêng biệt. Ta thấy nó trong Chani mà “con đường” cô đi chính là tình cảm với Paul và trách nhiệm với cộng đồng Fremen của mình. Ta thấy nó trong Lệnh bà Jessica và tham vọng của bà với nhóm tôn giáo Bene Gesserit. Trong khi đó một nhân vật mới – em gái của Paul – cũng sắp xuất hiện. Và tuy chỉ mới nằm trong bụng mẹ nhưng nó cũng đang dần có những HÀNH TRÌNH ANH HÙNG nhất định, trong việc nhất tề chi phối và biến các nhân vật xung quanh mình trở nên phức tạp.

Ở phần 2, Lệnh bà Jessica là một nhân vật vô cùng bí hiểm. Ảnh: Screen Rant

       Ngoài điều đó ra, Herbert cũng rất thành công trong việc “đeo mặt nạ” cho các nhân vật, để ta không thể lường trước đường đi nước bước của bản thân họ. Chẳng hạn phút trước Paul và Chani còn rất mặn mà, nhưng ngay sau đó mọi chuyện đổi khác khi anh chấp nhận lấy Công chúa như đại diện cho chiến thắng của mình. Lệnh bà Jessica cũng nằm trong “ngã ba” ấy, khi không ai biết một cách rõ ràng bà đang từng bước leo lên theo quyền lực của con trai mình, hay chính bà mới là kẻ thao túng tất cả, trả thù cho điều đã mất? Và nếu điều ấy là thật, hóa ra cổ mẫu anh hùng mà ta xác định ngay từ ban đầu đã đổi bản chất. Paul từ mẫu bị động chuyển sang chủ động với chính những gì mà mình học hỏi, nhưng nếu vai trò của mẹ anh lớn hơn, thì hóa ra Paul chỉ là một kiểu anh hùng xúc tác – người có vị trí là bàn đạp cho hình tượng khác bước lên vũ đài danh vọng. Áp chính lý thuyết của Vogler vào Xứ cát bản phim của Villeneuve, ta thấy vì sao mà tác phẩm này thành công vang dội trong các năm qua. Dù biết một cách khái quát đó là trùng trùng lớp lớp âm mưu, nhưng khi được phân tích dưới cổ mẫu và những điểm nút quan trọng của hành trình anh hùng, ta sẽ lại thấy những chi tiết này hiện ra phức tạp, gắn kết ra sao.

Ngô Minh

Đọc bài viết

Trà chiều

Sứ Đoàn Iwakura đạt Giải thưởng sách Quốc Gia 2024

Published

on

Giải thưởng Sách Quốc gia là giải thưởng do Ban Tuyên giáo Trung ương, Bộ Thông tin và Truyền thông, Hội Xuất bản Việt Nam tổ chức hàng năm, trao giải cho những cuốn sách (bộ sách) có giá trị nổi bật về nội dung tư tưởng, tri thức, thẩm mỹ nhằm tôn vinh tác giả, dịch giả, nhà khoa học và người làm công tác xuất bản.

Tối ngày 29.11.2024 tại lễ trao Giải thưởng Sách Quốc gia lần VII, tác phẩm Sứ Đoàn Iwakura - Chuyến Tây Du Khảo Cứu Nhằm Canh Tân Nhật Bản Thời Minh Trị (Ian Nish biên soạn, Nguyễn Hoàng Mai - Nguyên Tâm dịch) hân hạnh được vinh danh giải Khuyến khích.

Sứ Đoàn Iwakura là tác phẩm nghiên cứu tập hợp nhiều tư liệu giá trị, giúp độc giả hiểu rõ hơn về chuyến du khảo nhằm canh tân Nhật Bản thời Minh Trị dưới góc nhìn của người phương Tây. Để có một đường lối phát triển đất nước hoàn toàn mới, người Nhật đã khởi động chuyến công du gọi là Sứ mệnh Iwakura thăm Hoa Kỳ và nhiều nước châu Âu. Đây là một chuyến đi lịch sử có tầm quan trọng đến mức khi nhắc về Minh Trị Duy Tân, người ta lập tức nhớ đến chuyến đi này.

Sách dày 427 trang, gồm 11 chương tổng hợp các bài viết của Ian Nish và 12 chuyên gia trong lĩnh vực quan hệ quốc tế khu vực Nhật Bản và Đông Á. Tám chương đầu, độc giả sẽ cùng phái đoàn đi qua tám cường quốc từ Mỹ, Anh, Pháp, Bỉ, Đức, Nga, Thụy Điển và Italy. Bản ghi chép của những học giả góp phần tái hiện hành trình tìm kiếm “văn minh khai sáng” của sứ đoàn Iwakura tại trời Âu dưới góc nhìn của người phương Tây. Ba phần còn lại trong ấn phẩm là bài phân tích, nhận định của chuyên gia lịch sử, đánh giá tình hình nước Nhật sau chuyến công du.

Để hiểu thêm về một lát cắt lịch sử quan trọng của Nhật Bản, cũng như đọc thêm về chuyến đi được mệnh danh là “Chuyến công du lịch sử thay đổi nước Nhật”, mời bạn tìm đọc sách tại đây hoặc tại hệ thống các nhà sách Phương Nam trên toàn quốc.

Đọc bài viết

Cafe sáng