Trà chiều

Personal Taste – Tiếng thở dài trong sáng

Phải là người cô đơn ở mức độ nào mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Published

on

Personal Taste không phải là một phim xuất sắc, cả từ thời cách đây sáu năm khi tôi lần đầu tiên xem phim cho đến tận bây giờ, nhận định đó vẫn không thay đổi. Tuy nhiên, có một thứ trong bộ phim này khiến tôi luôn nhung nhớ: sự cô đơn của Gae In. Sự cô đơn ấy được phản chiếu qua những tấm gương. Thật kì lạ vì nó không mang màu sắc quá u tối dù có nỗi cô đơn nào lại không trĩu nặng buồn bã. Hơi thở trầm buồn của Gae In phả vào những tấm gương ấy chỉ khiến cho sắc phản chiếu của nó bị mờ đục đi đôi chút; dưới ánh nắng lấp lánh, nó vẫn ngân lên một tia sáng trong trẻo hồi đáp lại tín hiệu của nắng. Như những bức ảnh được chỉnh sắc tương phản thấp lại và trở nên mềm mại, xao xuyến hơn khi tạo ra cảm giác mọi thứ chìm trong lớp sương mù, nỗi buồn của Gae In phủ lên tấm gương cô đơn cũng tương tự như vậy. Một nỗi buồn dịu dàng, một sự cô đơn đằm thắm.

Những tấm gương

Tôi xem Personal Taste 1 + 1/16 lần, nghĩa là một lần tôi xem trọn 16 tập phim và một lần tôi chỉ xem lại đúng tập một. Lần nào xem, tôi cũng đều bị xúc động bởi một chi tiết đơn giản ở tập một: chiếc bàn của Gae In. Gae In làm công việc thiết kế các đồ nội thất trong nhà, cô không chỉ vẽ mẫu mà còn tự tay thực hiện các mẫu thiết kế như một người thợ mộc thực thụ. Trong một hội chợ đồ nội thất, Gae In đã bày bán “chiếc bàn trò chuyện” của cô. Không ai hiểu chiếc bàn này có gì đặc biệt, nhìn bề ngoài, có vẻ như nó chỉ là chiếc bàn gỗ thông thường. Gae In giải thích: “Chiếc bàn này dành cho những người cô đơn, muốn có người ngồi đối diện trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn nhưng lại chẳng có ai. Không phải ai cũng có người yêu hoặc ở cạnh gia đình, vì vậy, chiếc bàn này dành cho họ. Nếu như bạn ngồi ở phần bên này của chiếc bàn, bạn hãy mở nắp gương ở phần đối diện, một tấm gương sẽ được dựng đứng trên bàn đối diện với vị trí bạn ngồi. Như vậy là, bây giờ bạn đã có thể tự trò chuyện với mình trong mỗi bữa ăn rồi. Nếu bạn không thích ồn ào, bạn có thể im lặng và chỉ cần thoáng nhìn bóng mình phản chiếu trong gương, cảm giác gần như có một người đang ngồi đối diện với bạn, nhìn bạn trong bữa ăn cũng đã khiến bạn bớt cô đơn đi rất nhiều rồi, có phải không?” Một điều dễ dự đoán là tất cả mọi người, khi bước qua gian hàng ấy, nghe Gae In trình bày như thế này đã cười cợt cô nàng, nói rằng chiếc bàn này rất vô dụng, sự “đặc biệt” của nó khiến họ cảm thấy rất ngớ ngẩn. Tình tiết này được xây dựng như một tình tiết hài hước trong phim. Và quả thực, lần đầu tiên xem đoạn này, tôi đã bật cười. Ý tưởng của Gae In sao mà ngộ nghĩnh quá. Nhưng sau khi nhìn mọi người, những người trong phim ấy cười và mỉa mai Gae In, tôi lại thấy thương cô vô cùng. Sự vui vẻ bên ngoài khi Gae In giới thiệu sản phẩm thực chất chỉ là để che giấu nỗi buồn trong lòng cô. “Chiếc bàn trò chuyện” ấy không phải là thứ tạo ra âm thanh; ngược lại, nó tăng cường độ của sự im lặng lớn hơn khi người ta phải tự đối diện với chính mình, tự đối diện với việc mình đang cô đơn, tự đối diện với từng sắc thái, biểu cảm trên khuôn mặt mình khi đang ăn. Nếu là tôi, tôi cũng sẽ không mua chiếc bàn đó, nó không tạo ra một hiện hữu thực sự; thay vào đó, nó lại tô đậm hơn sự vắng mặt. Tôi không đánh giá cao tác dụng chữa lành cảm giác cô đơn mà Gae In muốn gán cho chiếc bàn, tuy nhiên, chính từ chi tiết này khiến tôi bắt đầu yêu mến Gae In và mong một ngày, cô tìm được hạnh phúc cho riêng mình. Bởi vì, phải là người cô đơn ở mức độ như thế nào đó mới có thể nghĩ ra ý tưởng thiết kế chiếc bàn như thế. Có lẽ, nỗi cô đơn ấy đã bòn rút sức sống của Gae In mỗi ngày mà cô không biết.

Sau này, tôi mới hiểu vì sao trong mẫu thiết kế về chiếc bàn của Gae In, tấm gương lại đóng vai trò chủ đạo như vậy. Trong tiềm thức, cô vẫn luôn có cảm giác mình là người đã gây ra cái chết cho mẹ. Bố Gae In vốn là một kiến trúc sư và mẹ cô cũng là nhà thiết kế nội thất như cô. Bên dưới phòng khách nơi căn nhà họ sống là tầng hầm để mẹ cô làm việc. Vì công việc bận rộn, bà thường xuyên xuống tầng hầm để Gae In một mình chơi đùa trong phòng khách. Nơi sàn nhà của phòng khách ngay phía trên chiếc bàn lớn mà mẹ Gae In thường đứng làm việc dưới tầng hầm, bố cô không lót gạnh mà lót một tấm kính thật lớn. Như thế, vào ban ngày, mẹ Gae In không cần mở đèn dưới tầng hầm mà vẫn có thể nhận được nguồn sáng rõ ràng từ mặt trời để làm việc. Khi ấy, Gae In vẫn còn rất nhỏ. Nơi phòng khách, cô bé Gae In cứ bò qua bò lại trên tấm kính và nhìn mẹ làm việc ở dưới tầng hầm; thỉnh thoảng, mẹ ngước nhìn lên mỉm cười với cô, nụ cười của mẹ thật hiền hậu trong ánh sáng mặt trời chiếu trên khuôn mặt mẹ. Tại sao mẹ lại ở dưới hầm thế kia? Tại sao mẹ không lên chơi với Gae In? Không. Gae In không muốn mẹ cứ ở dưới hầm. Gae In muốn mẹ ở đây, ở ngay bên cạnh cơ. Gae In muốn chơi cùng mẹ. Thế là, Gae In đập tay lên tấm kính nhiều lần để gọi mẹ. Nhưng mẹ Gae In không nghe được tiếng đập kính vì tiếng máy khoan thậm chí còn lớn hơn.

Và…

Một tia nắng chợt gắt lên vì không còn gặp vật cản trở nữa, nó dội thẳng xuống tầm hầng, xuống đôi mắt mẹ như một tia nước mảnh nhưng có sức bắn mạnh mẽ. Mẹ chói mắt. Và rồi, một khoảng nắng nữa, một khoảng nắng nữa, tất cả khoảng nắng đổ ập xuống như cơn thác lũ tàn nhẫn cuốn trôi theo nó là vô số mảnh kính đang ánh lên tia sáng nhức mắt. Gae In cũng rơi xuống cùng dòng thác đó nhưng mẹ đã kịp thời đón lấy và che chở cho cô bé để rồi bị những mảnh kính đâm vào người. Sau tai nạn ấy, mẹ Gae In qua đời. Tai nạn đó đã luôn ám ảnh Gae In, cô nghĩ rằng mình là nguyên nhân gây ra cái chết của mẹ. Tôi không còn nhớ rõ về bố cô sau đó nữa, tôi không nhớ là ông đã đau buồn, tức giận vì ngôi nhà mình xây không an toàn, gây nên cái chết cho vợ nên tự tử hay chỉ đơn giản là rời đi, đến một nơi khác, một căn nhà khác, bỏ lại Gae In một mình ở căn nhà ấy. Nhưng điều tôi nhớ rất rõ là Gae In đã sống cô đơn trong căn nhà ấy cho đến năm ba mươi tuổi.

Jin Ho đã đến với Gae In và anh giúp người phụ nữ ba mươi tuổi này xoa dịu nỗi cô đơn bằng niềm hạnh phúc trong tình yêu, thứ tình yêu đã lâu lắm rồi Gae In không biết đến, thứ tình yêu có thể khiến cô say đắm đến mức gạt bỏ đi sự vị kỷ thông thường khi yêu để thốt lên với anh rằng: “Dù anh là gay, em vẫn yêu anh. Anh cưới em đi, em chấp nhận một cuộc hôn nhân không tình yêu để anh có thể được thoải mái ở bên cạnh người ấy. Vì chỉ cần nhìn thấy anh hạnh phúc, em cũng hạnh phúc.” Khoảnh khắc Gae In thổ lộ với Jin Ho điều này, tôi thực sự ngỡ ngàng. Ngỡ ngàng vì không ngờ cô yêu anh đến như thế, cố gắng suy nghĩ vì anh đến như thế, và đồng thời tôi cũng ngỡ ngàng vì một Gae In nhút nhát lại có thể thẳng thắn nói ra điều này sao? Nhưng sau thoáng ngỡ ngàng đó, suy nghĩ kĩ lại thì điều này vô cùng hợp lí. Người con gái ba mươi tuổi ấy trước giờ chỉ biết đến nỗi buồn, sự cô đơn, và dù như thế, người con gái ấy vẫn luôn tiếp tục cố gắng một mình dẫu có nhiều lúc rất mệt mỏi, đã rất lâu rồi, không ai đem đến cho cô niềm hạnh phúc giản dị như ngồi ăn chung một bàn, xem cùng một chương trình truyền hình, chia sẻ cùng một không gian sống với cô để phá vỡ đi sự tĩnh lặng tưởng chừng không thể thay đổi; khi ai đó đem lại cho cô tất cả những điều ấy, cô còn đợi chờ gì để lãng phí thời gian nữa. Không. Gae In đã chờ đợi quá lâu và cô cần phải nắm giữ ngay điều quí giá ấy cho dù nó có thể biến thành thứ mang sức hủy diệt tương tự như những mảnh kính vỡ kia, cho dù nó có đâm vào đôi bàn tay cô khiến cô đau, khiến cô rướm máu.

May mắn cuối cùng đã đến với Gae In sau rất nhiều nỗi buồn, còn điều nào may mắn hơn khi người mình yêu cũng yêu mình. Hơn nữa, chính người ấy đã giúp Gae In chữa lành vết thương quá khứ. Nhờ có anh, cô biết được rằng bố cô thiết kế tấm kính lớn gắn trong phòng khách là vì mong muốn của mẹ cô, vì bà luôn muốn nhìn thấy cô mỗi khi làm việc. Và bố cô không căm ghét cô, ông căm ghét chính bản thân mình vì đã không thể tính toán được trường hợp bất đắc dĩ xảy ra như thế, vì ông đã đặt tấm kính theo một kết cấu sai và đã không chọn loại kính có cường lực lớn hơn. Đó không hoàn toàn là lỗi của Gae In. Nếu nói tai nạn ấy là lỗi thì đó là lỗi của tất cả mọi người. Làm sao một cô bé nhỏ tuổi có thể nghĩ rằng lực từ bàn tay mình đập có thể làm vỡ một tấm kính? Và thực ra, kể cả người lớn cũng không lường trước được điều đó. Có thể vì tấm kính ấy đã bị lỗi nhưng cũng có thể, đó là vì khát khao được mẹ nghe thấy tiếng nói của mình trong cô bé quá lớn. Dù như thế nào, tất cả mọi chuyện đều đã qua. Giờ đây, có một bàn tay dịu dàng đã lau sạch lớp bụi mờ phủ trên tấm gương.

Câu trả lời

Personal Taste không phải là một phim tôi sẽ hào hứng giới thiệu với mọi người và bảo rằng nó rất hay, cần xem, nên xem. Nếu làm như thế, tôi sẽ tự dối lòng mình hoặc cảm thấy rất xấu hổ, hoặc sợ hãi vì bộ phim này có thể đem đến trải nghiệm không tốt cho người tôi giới thiệu. Cũng như Suicide Squad, Personal Taste là một phim thật dễ tìm điểm tệ của nó để phê phán: cốt truyện có nhiều điểm phi lí, nhân vật một chiều vì chỉ có một mục tiêu suốt phim, nhiều đoạn hài hước còn cường điệu, nhiều đoạn sinh hoạt đời thường dài dòng không cần thiết cho thấy bộ phim là sự kết hợp tham vọng giữa thể loại drama và slice of life nhưng đôi khi lại phân vân không biết theo thể loại nào dẫn đến toàn bộ cấu trúc phim có gì đó không vững chắc, đồng đều… Có quá nhiều điểm để chê Personal Taste và thời điểm ra mắt, bộ phim này được đánh giá là không thành công, một dự án “flop” vì giới phê bình không đánh giá cao, khán giả đại chúng có vẻ như cũng không thích phim vì rating không cao (so với thời điểm đó) và chưa bao giờ rating được lọt vào top ba, tập cao nhất cũng chỉ ở thứ hạng tư, còn lại ở hầu hết các tập thì rating đứng vị trí thứ bảy hoặc tám. Người ta ngạc nhiên vì sao một kịch bản viết không chắc tay lắm như vậy lại được Son Ye Jin lựa chọn? Trước đó, phim Spotlight (2008) mà Ye Jin tham gia đã không mấy thành công với rating cực kì thấp vì phim kén khán giả đại chúng Hàn: phim chỉ tập trung vào miêu tả công việc của các phóng viên truyền hình và điều đặc biệt là toàn phim không hề có loveline – một điều rất hiếm thấy trong phim Hàn. Cá nhân tôi cũng không thích Spotlight nhưng tôi đánh giá cao sự lựa chọn của Ye Jin vì tôi hiểu onnie đang muốn thử sức mình ở những dạng phim khác biệt với truyền thống của Hàn, onnie không muốn đóng khung ở thể loại phim tình cảm – lãng mạn, vì vậy onnie chọn Alone in Love (một phim dòng slice of life) và sau đó là Spotlight (một phim nghề nghiệp). Sau hai phim vốn không phải là gu của khán giả đại chúng Hàn Quốc, onnie quay trở lại đóng dòng phim chính thống của truyền hình Hàn, một phim nhắm tới mục đích thị trường và được dự báo sẽ thu hút đông đảo khán giả trẻ bởi phim còn có sự tham gia của Lee Min Ho – một diễn viên vừa mới nổi và đang rất được yêu thích tại thời điểm đó sau Boys Over Flowers. Thế nhưng cuối cùng, phim thất bại vì một kịch bản không ổn định trong mặt cấu trúc và thậm chí, đôi khi dường như không rõ ràng trong mặt thể loại: có những lúc phim hài đến mức hài nhảm chứ không phải là hài có duyên vì lạm dụng hài hình thể quá đà để gây cười, có những lúc phim lại quá kịch tính đến mức người ta nhìn rõ sự cố tình để tạo ra kịch tính đó, có những lúc phim lại trôi qua đều đều như slice of life… Vì vậy, bộ phim khó có thể duy trì mạch cảm xúc xuyên suốt cho khán giả theo dõi phim. Thế nên, có rất nhiều người tự hỏi vì sao một diễn viên kì cựu như Son Ye Jin lại chọn tham gia phim này? Trong những người đó có tôi, và tôi còn tự đặt thêm cho mình câu hỏi nữa: vì sao có thể dễ dàng thấy nhiều điểm chưa tốt ở phim này và không dám giới thiệu nó cho ai nhưng thực lòng tôi vẫn thích nó?

Chính vì những lí do đó mà cách đây sáu năm, khi xem xong Personal Taste, tôi đã không hề viết bất cứ dòng nào cho nó. Trong những năm vừa qua, tôi cũng không giới thiệu đến ai bộ phim này. Nhiều lần, tôi nghĩ mình đã quên Personal Taste, rằng nội dung của nó sẽ hoàn toàn trôi tuột khỏi tâm trí tôi như rất nhiều phim khác tôi từng xem. Nhưng thật kì lạ, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến Gae In, thỉnh thoảng tôi lại nhớ đến thứ không khí mơ hồ còn đọng lại sau khi xem phim dù đã quên rất nhiều chi tiết nội dung phim, và bao giờ tôi cũng nhớ rất rõ đến hình ảnh tấm gương hay tấm kính, đến sự cô đơn của Gae In. Có lẽ, hình ảnh tấm gương đã trở thành một chiếc thẻ, một “tag” giúp tôi lưu trữ và nhớ về những chi tiết trong phim xoay quanh nó. Và sau sáu năm, tôi nhận ra tôi không chỉ thích Personal Taste vì hình ảnh tấm gương ấy, trong tiềm thức từ lúc nào không biết, tôi đã thích bộ phim này vì nó là chính nó, là cái tổng thể chung bất toàn và còn nhiều khiếm khuyết đó. Cùng với Suicide Squad, Personal Taste có lẽ chỉ mới là phim thứ hai mang đến cho tôi hiện tượng này: ta không thể nói rằng phim hay bởi những điểm chưa tốt lộ quá rõ nhưng đồng thời ta vẫn yêu thích nó. Thông thường, những phim tôi thích sẽ là những phim tôi cảm thấy hay (xét cả về mặt lí tính lẫn cảm tính) và không ngần ngại giới thiệu nó cho mọi người trong những dịp có thể. Nhưng, Suicide SquadPersonal Taste là ngoại lệ. Sau khi xem Suicide Squad, tôi đã rất thắc mắc về chính cảm xúc của bản thân mình: vì sao tôi có thể thấy những điều mọi người chê ở phim là hợp lí và bản thân tôi cũng thấy phim không thể gọi là hay, không xuất sắc nhưng tại sao tôi lại thích nó đến như thế? Chính vì không hiểu nổi cảm xúc của bản thân mình, tôi đã viết một bài review về Suicide Squad để làm phép thăm dò tiềm thức nhằm khả dĩ giúp tôi hiểu được nguồn cơn. Sau khi viết xong review cho Suicide Squad, tôi đã phần nào hiểu hơn lí do vì sao phim không hay nhưng mình thích. Vì vậy, tôi cũng muốn làm động tác tương tự cho Personal Taste để phần nào giải đáp những thắc mắc của mình sau sáu năm. Đó là lí do tôi cố gắng viết bài review này dù không còn nhớ phần lớn nội dung phim, dù tôi chỉ nhớ cảm xúc và không khí chung, dù chỉ còn vài hình ảnh được neo lại. Tôi đã cố gắng viết bài này mà không xem lại phim để làm rõ những chi tiết mình đã quên. Vì vậy, có thể bài viết này mang tính không chính xác, thậm chí sai lệch ở phần chi tiết và trích dẫn thoại bởi nó được hồi tưởng lại từ một kí ức không còn mấy rõ ràng nữa. Dù như thế, tôi vẫn muốn viết lại sự mơ hồ này để lưu giữ nó, bởi chính sự mơ hồ cũng quan trọng không kém sự rõ ràng, chi tiết. Và dường như, cũng bởi vì tôi đã yêu Personal Taste bằng một thứ tình yêu mơ hồ.

Tôi không còn băn khoăn về việc mình thích Personal Taste nữa. Câu trả lời rất đơn giản. Đó là personal taste. Có lẽ, tôi cũng đã phần nào hiểu được lí do vì sao onnie tham gia Personal Taste. Có phải vì sự cô đơn của Gae In không? Có phải vì chính nỗi niềm này như Dos đã viết trong The Raw Youth không? “Với năm tháng, niềm vui và nỗi buồn dường như lẫn lộn với nhau, biến thành tiếng thở dài trong sáng.” Và Gae In cũng có một tiếng thở dài trong sáng như thế.

Điểm đánh giá: 7/10
Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phim chiếu rạp dùng AI thay thế hoa hậu Thùy Tiên: Vô hồn hay cảm xúc?

Published

on

Chiều 4/8, buổi ra mắt phim "Chốt đơn!" diễn ra tại TP HCM. Tại sự kiện, ê-kíp chia sẻ: “Đạo diễn và nhà sản xuất đã tìm ra phương án để thay thế diễn viên chính, để bộ phim có thể được ra rạp. Chúng tôi đã sử dụng công nghệ AI để thay thế nữ chính”.

Trong phim, vai nữ chính Hoàng Linh (trước đó hoa hậu Thùy Tiên thể hiện) vẫn được giữ nguyên, song mặt của Thùy Tiên đã được can thiệp công nghệ AI để làm khác đi. Ngoài ra, ê-kíp cũng sử dụng giọng lồng tiếng để thay thế giọng của Thùy Tiên.

Dân mạng và những người đã xem phim đều tranh luận về việc AI trông giống hay khác Thùy Tiên

Song theo ghi nhận, vì can thiệp công nghệ AI nên hình ảnh của nữ chính tỏ ra thiếu tự nhiên. Biểu cảm nhân vật không mượt mà. Hạn chế này bộc lộ rất rõ ở những chuyển cảnh hay khi nhân vật thay đổi thái độ. Ngoài việc Hoàng Linh trông giống hay khác Thùy Tiên, hình ảnh AI còn gây tranh luận vì độ thật - giả, khả năng truyền tải cảm xúc, vô hồn hay gợi được sự đồng cảm? Đó cũng là lo ngại ban đầu của các đạo diễn cũng như nhiều khán giả.

Việc sử dụng AI để "đổi đầu", "thay mặt" diễn viên trong phim không chỉ đặt ra những tranh cãi về mặt kỹ thuật và cảm xúc, mà còn chạm đến những câu hỏi lớn hơn về đạo đức, quyền con người và vai trò của con người trong thế giới ngày càng bị chi phối bởi trí tuệ nhân tạo. Khi công nghệ có thể can thiệp vào hình ảnh, giọng nói, thậm chí là tạo ra một bản sao số hoàn hảo của một con người, ranh giới giữa thật và ảo đang trở nên mong manh hơn bao giờ hết.

Trong bối cảnh đó, việc tìm hiểu và trang bị kiến thức về AI không còn là điều xa vời dành riêng cho các chuyên gia công nghệ, mà đã trở thành nhu cầu thiết yếu với mọi cá nhân trong xã hội hiện đại. Hai cuốn sách dưới đây có thể là khởi đầu lý tưởng:

EIGHT - 8 Cách Làm Chủ Trí Thông Minh Nhân Tạo

Cuốn sách cung cấp một cái nhìn thực tế, rõ ràng và gần gũi về cách AI đang dần ảnh hưởng đến mọi khía cạnh của đời sống, từ công việc, giáo dục đến các mối quan hệ cá nhân. Lee Ji-sung đưa ra những lời khuyên giúp người đọc không bị tụt lại phía sau, đồng thời biết cách sử dụng AI như một công cụ hỗ trợ, chứ không phải đối thủ đáng sợ. Đây là cuốn sách dành cho bất kỳ ai đang cảm thấy lo lắng hoặc tò mò trước tốc độ phát triển chóng mặt của công nghệ.

2030 - Những Xu Hướng Lớn Sẽ Định Hình Thế Giới Tương Lai

Không chỉ dừng lại ở AI, 2030 phác họa một bức tranh toàn cảnh về tương lai: dân số già hóa, đô thị hoá cực đoan, phụ nữ nắm giữ vai trò kinh tế, v.v.. Xã hội ngày càng lớn, tiền kỹ thuật số thay thế tiền mặt, và tất nhiên AI hiện diện trong mọi mặt đời sống. Với góc nhìn liên ngành (xã hội học, kinh tế học, công nghệ), tác giả giúp người đọc hiểu được rằng thế giới đang chuyển động theo một logic mới, và ta cần chuẩn bị để thích nghi với logic ấy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Cafe sáng