Phía sau trang sách

Những thành phố trôi dạt: Như mơ như thơ như ly kem bơ ôi thật bất ngờ

Published

on

“Chị cần gì ở đây – (Tôi muốn đẹp xuất sắc)
Thì ngồi vào đây – (Tôi muốn đẹp xuất sắc)
Thì điền vào đây – Không có gì thì mình sẽ mua nấy”

Văn chương đương đại Việt Nam những năm gần đây tôi không đọc gì ngoài vài cái tên quen thuộc. Quen Thuận trong lối viết táo bạo, biết Linda Lê trong ngòi bút lạnh tanh, thấy Nguyễn Bình Phương bằng ảo ảnh chòng chành, nghe Trần Tiễn Cao Đăng thổn thức trong số ít những tác phẩm của mình; ngoài ra là Võ Diệu Thanh, Dạ Ngân, Đỗ Hoàng Diệu… Nguyễn Vĩnh Nguyên là một trường hợp khác. Vốn biết ông qua những khảo cứu về Đà Lạt nhiều hơn tư cách một nhà văn, thích thú với lối dùng từ cổ điển nhưng hợp thời trong những cuốn sách về thời hương xa; từ đó lần mò tìm về những trải nghiệm dấn thân vào con đường đong tấm lòng. Và Những thành phố trôi dạt rõ ràng là cuốn sách ổn. Táo bạo (đôi khi), lạ lẫm (đôi chút), nhưng cũng không tránh khỏi những khiên cưỡng quá mức (thường trực).

Với Những thành phố trôi dạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên thông minh khi tự chọn cho mình hai chữ “trôi dạt” ở đầu đề sách. Vì với hai chữ vô thưởng vô phạt ấy, bạn muốn viết gì tùy thích, hiểu gì thì hiểu – đã gọi trôi dạt thì làm gì có định nghĩa hay ý nghĩa cố định. Do đó, một cách phủ phê, ông kéo dài thời gian trong cuốn sách này đến vô cùng. Có khi về thành Sodom nhìn cột muối, có khi bắn một liều nhảy tới chân trời mới toanh nơi ô tô không người lái và robot phục vụ khách sạn. Điều này phục dựng rõ ràng cho dụng ý của cái trôi dạt ấy, vì thời gian có lẽ là thứ duy nhất quan trọng với những cốt cách câu chuyện đứt đoạn thế này.

Ở trong lòng ấy, ông vận dụng cách viết đứt đoạn, (lại) với một dụng ý không rõ ràng. Với Những thành phố trôi dạt, dường như nó đòi hỏi người đọc nhiều hơn sự tự vấn bản thân, về con mắt – góc nhìn qua thế giới xung quanh, về khoa học – địa lý – chính trị – lịch sử đã đi đến đâu… Nói thế để hiểu, Nguyễn Vĩnh Nguyên không dùng cách viết tự sự của văn chương châu Á trong này. Nếu viết theo cách thông thường ấy là đóng hẹp cánh cửa suy nghĩ của người thưởng sách, thì trong này, ông mở toang cách cửa ấy ra, mở rộng đến mức có khi người đọc còn tưởng ở đấy không có cánh cửa, và ùm, rơi xuống vũng lầy văn chương.

Thật khó để nói về dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Không thật rõ ràng để đối chiếu liệu cái “nghệ thuật” của ông có là cố định hay không!? Ở một khoảnh khắc tôi nhận ra rằng, ông dùng rất nhiều những lối bẻ gãy mạch truyện, những chiêu thức lừa đón người đọc, cho họ vào túi và rồi thụp chặt bọn họ vào trong. Nhưng rồi sau khi đọc lại lần hai, tôi lại tự vấn lương tâm, liệu thật sự ông bóp nghẹt nó, hay, Những thành phố trôi dạt chỉ như vỏ ngoài của loài sứa biển, trong suốt, vô ảnh vô thanh, người đọc tự phóng chiếu mình (nếu có đủ khả năng) hay thể hiện cái gì mình bị ảnh hưởng (nếu đọc đủ nhiều). Tôi phát hiện ra rằng, có những câu chuyện của người lữ khách thứ tự xyz, hơn 90 phần trăm cốt truyện là ý a) nhưng rồi bất chợt ông chuyển lái sang một hướng b) một câu gọn ơ, không dọn mâm sẵn, cứ như một tai nạn bất ngờ. Rồi tôi tự hỏi, rốt cuộc a) chính hay b) chính; hay a) nền b) kết; hay cả hai rốt cuộc chẳng có gì quan trọng? Và dĩ nhiên, sau rốt tôi cho rằng, Nguyễn Vĩnh Nguyên trong cuốn sách này không những có bàn tay để xây dựng những thành phố (thực hay tưởng tượng), mà ông còn là người tái tạo cho thứ văn chương trong suốt gây ảo giác (đôi khi bạn nghĩ nó đa nghĩa, nó rất Juan Rulfo; nhưng thật ra nó chẳng có nghĩa gì cả). Rõ ràng rằng, tôi cũng chả chắc với những người khác rằng lời chú giải của mình liệu có còn đúng; nhưng đối với tôi, ít ra ở một thành phố sương mù, Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng đã thích nghi và gom bớt một chút mù sương đó vào đây.

Về mặt nội dung, nhìn chung không có gì quá đột phá hay mới mẻ đặc biệt. Lời lẽ hay lối hình dung của Nguyễn Vĩnh Nguyên trong này cũng không phức tạp hay khó hiểu. Tôi nhận ra rằng đó là sự đối nghịch của những thế trường tồn, của ham sướng cực độ utopia và u huyền rách mướp dystopia; của khó đoán – vô định (từ hình thức lan sang nội dung), của cái đẹp sau rốt là cái nhỏ nhen – ích kỷ – vô đạo đức – cực đoan – độc đoán – trưởng giả – hư danh – giả tạm – tư lợi – vật chất – … nói chung là bất cứ tính từ nào hai hay ba chữ có thể miêu tả bản chất con người trong phần lớn văn chương hiện thực châu Á nào. Ở đó cũng có (nếu phân tích theo một hướng cổ điển thời Victoria) cái đẹp của văn chương, của tự nhiên, của mối quan hệ. Hai trong những mặt đó, tốt hay xấu nếu bạn nhận ra được mặt nào thì âu cũng là điều tốt. Còn nếu không thấy gì cả thì cũng chả sao, bởi đây là văn chương “trôi dạt” – như tác giả tự định nghĩa. Nếu văn chương trong tác phẩm này bị cấm, thơ ca bị đốt trụi, sách dùng làm thang cao hay kẹp nách để tỏ rõ giá trị bản thân; thì sự cần kíp thấu hiểu đôi ba dòng nghĩa cũng thực không quá cần thiết.

Ảnh: Zing News

*

Nhưng đồng thời trôi dạt cũng là một bến bờ hiểm nguy. Trôi dạt rất gần vô thưởng vô phạt, và dĩ nhiên, không những một lần sau khi đọc đôi ba truyện ngắn tôi lại chẳng hiểu điều gì ẩn sau từng ấy câu chữ văn chương. Nguyễn Vĩnh Nguyên tỏ ra cao tay (có lẽ) với hệ thần kinh của bản thân tôi, nhưng cao tay quá thể nhiều khi lại trôi quá xa. Những thành phố trôi dạt chứa không ít những điều vô lý, chẳng hạn một khách sạn phải đặt chỗ trước bảy tháng mới có phòng, lại có nhân viên hỏi một khách lữ bị mù “mắt cô như thế cần gì phải ở trong phòng có view đẹp?”!? Nhà văn liệu có phải là nô lệ của chữ nghĩa, của những ý tưởng tuôn ra trong đầu mình? Tôi không chắc, vì tôi chẳng viết được gì hay ho. Nhưng để những vô lý tham gia định hình cuốn sách, cũng là một cách ăn hải sản rưới nhân sâm.

Nhắc đến đây tôi chợt nhớ rằng, một bình luận viên về sách từng cho rằng cái dở của văn chương Việt Nam là thiếu đi những người biên tập kỹ lưỡng. Chẳng đặng thì đừng, sau khi cuốn sách của đấng phu quân được chính tay nàng biên tập, liền đập ngay vào mắt lời nhận xét đắt giá “Gọn nhẹ, đọc loáng là xong. Có chút Kafka hài hài rồ rồ. Mạch văn nhanh, không bị rề rà” hay ”601 trang không xuống dòng. Cuốn tiểu thuyết văn học Việt Nam hay nhất mà mình đọc trong thập kỷ qua”. Thấy đấy, chỉ cần vô bàn tay của một biên tập là mọi thứ sáng tỏ, kỹ càng; có gì khó khăn?

Riêng tôi thì ý thứ nhất, rõ ràng rất đúng. Trong Những thành phố trôi dạt không thiếu những sạn. Đôi chỗ vài câu một tác giả người Việt (không lai) viết bằng tiếng Việt nguyên bản (không cải cách), người đọc cũng là người Việt (không lai nốt), tự tin viết tiếng Việt không sai nhiều chính tả (đã kiểm chứng); nhưng đọc vào vẫn không hiểu nổi nó đang nói gì, giả thử (lại trong chuyện về lữ khách mù) “Không, đó là món quà thú vị mà tôi là cư dân của thành cô lưu giữ một kỷ niệm về chuyến đi”. Và đây không hẳn là trường hợp duy nhất. Không hiểu liệu đây là lỗi biên tập hay ý tác giả? Nhưng với một cuốn sách không một lỗi chính tả, tôi nghiêng nhiều hơn về ý tác giả. Nhưng sau rốt vẫn không hiểu đôi ba chỗ ấy đục khuyết câu chữ để làm gì? Hay lại như phim dài tập Netflix, ngắn tập Hollywood, từ những khiếm khuyết ấy làm dài đời hơn, ai biết được!?

Còn ý thứ hai, thì, tôi chả biết được! Chỉ biết Thomas Bernhard cũng không xuống dòng, Thuận trong Chinatown cũng thế, và thiếu gì những nhà văn với cá tính như thế, như Zodie Smith với nhiều đoạn hội thoại mà lời nhân vật kéo dài từ trang này sang trang kia vẫn chưa hết. Ngoài ra, thập kỷ vừa rồi nếu không viết được một bài điểm sách về Nguyễn Bình Phương, về Thuận (xin lỗi nhắc chị hơi nhiều), về Linda Lê hay các nhà văn cá tính nào khác mà phải cậy nhờ toán người ưu chuyên, rồi lại phủ quyết cuốn sách hay nhất thập niên cũng như cách nói Taylor Swift xứng đáng góp mặt trong top 10 những nữ rapper hay nhất thập niên này vậy.

Quay về lại chuyện biên tập. Thêm một ý nữa, ở đây dường như Nguyễn Vĩnh Nguyên (và biên tập viên) lại vướng thêm phải những điều thừa thãi. Ngay từ ban đầu, với tên gọi Những thành phố trôi dạt, tôi tự hỏi sao phải 50 câu chuyện, 50 lữ khách? Rốt cuộc rồi thì sao lại phải 50? 50 có nghĩa lý gì? Sau này tôi rút ra được, có lẽ 50 cũng là đại diện của cái dạt trôi – giữa 51 quá bán và 49 thiếu một. Ở đó, vịn vào sự hữu hình của 50, 50 câu chuyện trong đây không thiếu những cặp song thai. Như thể loài khỉ thống trị – loài ếch lái xe; như thể thơ ca bị cấm – văn chương bị đốt; như thể cây thông cô đơn và con gà đồng trên nóc nhà thờ… Nhìn qua nhìn lại, như trường hợp cuối, cả hai chẳng qua phản ánh cách con người ta nhìn vào di sản của những ngày này – di chỉ cũ xưa trong cái hời hợt mong muội hư danh. Chuyện ở giữa đó, chẳng qua là cái độc đoán, cái nhỏ nhen của loài giống người và sự trường tồn nghệ thuật muôn niên. Còn câu chuyện đầu, như một tương lai không quá xa xôi ở cả hai phía. Thì có gì cần để phải kéo dài chúng ra, khi có thể kể một cách gọn ghẽ và thật chắt lọc? Để rồi nhìn vào, tôi thấy cây thông cô đơn đúng thật cô đơn vì con gà đồng trên nóc nhà thờ màu đồng đã hút hết sự chú ý ngoài kia.

Thứ ba thứ tư, vẫn lại câu chuyện biên tập. Như đã nói ở trên, tôi vốn thích Nguyễn Vĩnh Nguyên vì lối sử dụng câu cú, từ ngữ của anh; và với tập truyện ngắn trước khi đọc Những thành phố trôi dạt, Khu vườn lưu lạc (2007) tôi đã chưng hửng khi thấy ở đó anh trích nhạc Ưng Hoàng Phúc, dẫn nhạc bolero. Chẳng ai nói đây là quy phạm không được phép dẫn, nhưng vấn đề để nâng cấp bản thân, tạo nên nền móng cho một tác phẩm; dù với mục đích gắn chặt đời sống, vẫn phải đặt ra một ngưỡng nhất định. Nếu đủ tài năng tạo ngữ cảnh dẫn đề một cách thật sang, thật lòng hợp lý, tôi chứ không ai khác vô cùng ủng hộ. Vì nếu như thế, ít ra văn chương Việt Nam tồn tại tác phẩm mà những dịch giả phải đi trầy trật chuyển ngữ (như văn chương của Tàn Tuyết vậy) và nhắc lại muôn đời cái khó khăn ấy. Nhưng ở đây, rất tiếc, Nguyễn Vĩnh Nguyên phù hợp với khách sạn hạng sang hơn khu phố tồi tàn. Trích dẫn “mông lung như một trò đùa”, “mặt xanh như đít nhái”… thật sự lỗi thời và không lại thấy một đương đại nào, như kiểu urban dictionary của người trẻ tuổi. Chỉ thấy thô kệch, hợp thời và thật nông dã. Nhưng cũng may mắn, nó chiếm rất ít dung lượng trong cuốn sách này, chỉ như một kẻ khó ở.

Và cuối cùng, để nói đúng như từ điển urban dictionary, tôi xin dùng cụm “thiếu nghị lực” cho cách xây dựng câu chuyện của cuốn sách này (xin đừng đánh giá, tôi chẳng phải nhà văn). Rõ ràng tựa đề có chữ trôi dạt, chình ình ở ngay bìa chính, còn được nhấn mạnh vô tận trang 2 rồi đến trang 3; thế nhưng Nguyễn Vĩnh Nguyên (và một lần nữa, anh chị biên tập) vẫn không giữ nổi thực hiện cái cam kết ấy. Trôi dạt, tôi tưởng, là những thành phố vô danh, không thật; nhưng lại ở đây hình tượng Saigon (áo dài, chợ bốn mặt, hòn ngọc phương Đông), Đà Lạt (cây thông cô đơn, con gà trên nóc nhà thờ, uống vang từ thành phố cao nguyên) hay ngay cả nghề viết của anh (tác giả của du khảo địa lý) trừng trừng hiện ra trong vô thức người đọc. Có thể cho rằng tác giả không nhắc chính tên thì không có nghĩa nó là Saigon, Đà Lạt hay anh; nhưng rõ ràng nó còn gì khác? Nếu từng đọc qua tác phẩm trước nữa, sẽ thấy y rằng những dòng mô tả Đà Lạt, trong đây vẫn lại một người đàn ông bước về nhà ga, vẫn món hoẵng nướng, cừu nướng phía trên cao nguyên, và hàng hà sa số những điểm chung khác. Cái cá nhân, cái cố định, cái chung chung; tất cả dường như đi ngược với chữ vô hình, đôi khi nhìn gần nhìn xa, tôi lại không biết có đọc nhầm sách!

*

Nhìn chung dẫu biết biên tập là một nghề khó. Cứ thử so sánh một cuốn ngoại văn và quyển quốc văn, ta liền xét thấy ở cuốn đầu tiên, tác giả luôn dành những lời cảm ơn ở phía cuối cùng tới người biên tập, tới nhà xuất bản, gia đình, họ hàng, thân quyến; còn ở cuốn kia, chẳng một lời thốt, cái tên in chết ở nơi trang phụ. Chẳng bàn sâu xa bản tính – văn hóa của mỗi khu vực, của mỗi quốc gia; rằng phương Tây ưa tính tập thể, phương Đông rèn tính cá nhân; mà nói thật ra bất cứ một tác giả nào cũng luôn thật tâm mong muốn đứa con tinh thần là thuần nguyên nhất, không dòng pha tạp, không lẫn dị chất. Điều đó khiến cho những cuốn như cuốn sách này rõ ràng sỡ hữu một cốt truyện hay, phong cách mới lạ, thế nhưng chết yểu khi còn non thai bởi chính đặc tính nguyên thủy. Dẫu sao vẫn phải công nhận Nguyễn Vĩnh Nguyên về sự tự tin, đổi mới và tùy biến nơi mình, đã cho ra đời một cuốn sách lạ, đánh thức lại nhiều cảm giác khi đọc. Hy vọng một ngày nào đó, cái tên của người biên tập sẽ không lặng im, nó biết động đậy, biết đi và thể hiện mình.

Hết.

minh.

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng