Phía sau trang sách

Những thành phố trôi dạt: Như mơ như thơ như ly kem bơ ôi thật bất ngờ

Published

on

“Chị cần gì ở đây – (Tôi muốn đẹp xuất sắc)
Thì ngồi vào đây – (Tôi muốn đẹp xuất sắc)
Thì điền vào đây – Không có gì thì mình sẽ mua nấy”

Văn chương đương đại Việt Nam những năm gần đây tôi không đọc gì ngoài vài cái tên quen thuộc. Quen Thuận trong lối viết táo bạo, biết Linda Lê trong ngòi bút lạnh tanh, thấy Nguyễn Bình Phương bằng ảo ảnh chòng chành, nghe Trần Tiễn Cao Đăng thổn thức trong số ít những tác phẩm của mình; ngoài ra là Võ Diệu Thanh, Dạ Ngân, Đỗ Hoàng Diệu… Nguyễn Vĩnh Nguyên là một trường hợp khác. Vốn biết ông qua những khảo cứu về Đà Lạt nhiều hơn tư cách một nhà văn, thích thú với lối dùng từ cổ điển nhưng hợp thời trong những cuốn sách về thời hương xa; từ đó lần mò tìm về những trải nghiệm dấn thân vào con đường đong tấm lòng. Và Những thành phố trôi dạt rõ ràng là cuốn sách ổn. Táo bạo (đôi khi), lạ lẫm (đôi chút), nhưng cũng không tránh khỏi những khiên cưỡng quá mức (thường trực).

Với Những thành phố trôi dạt, Nguyễn Vĩnh Nguyên thông minh khi tự chọn cho mình hai chữ “trôi dạt” ở đầu đề sách. Vì với hai chữ vô thưởng vô phạt ấy, bạn muốn viết gì tùy thích, hiểu gì thì hiểu – đã gọi trôi dạt thì làm gì có định nghĩa hay ý nghĩa cố định. Do đó, một cách phủ phê, ông kéo dài thời gian trong cuốn sách này đến vô cùng. Có khi về thành Sodom nhìn cột muối, có khi bắn một liều nhảy tới chân trời mới toanh nơi ô tô không người lái và robot phục vụ khách sạn. Điều này phục dựng rõ ràng cho dụng ý của cái trôi dạt ấy, vì thời gian có lẽ là thứ duy nhất quan trọng với những cốt cách câu chuyện đứt đoạn thế này.

Ở trong lòng ấy, ông vận dụng cách viết đứt đoạn, (lại) với một dụng ý không rõ ràng. Với Những thành phố trôi dạt, dường như nó đòi hỏi người đọc nhiều hơn sự tự vấn bản thân, về con mắt – góc nhìn qua thế giới xung quanh, về khoa học – địa lý – chính trị – lịch sử đã đi đến đâu… Nói thế để hiểu, Nguyễn Vĩnh Nguyên không dùng cách viết tự sự của văn chương châu Á trong này. Nếu viết theo cách thông thường ấy là đóng hẹp cánh cửa suy nghĩ của người thưởng sách, thì trong này, ông mở toang cách cửa ấy ra, mở rộng đến mức có khi người đọc còn tưởng ở đấy không có cánh cửa, và ùm, rơi xuống vũng lầy văn chương.

Thật khó để nói về dụng ý nghệ thuật của Nguyễn Vĩnh Nguyên. Không thật rõ ràng để đối chiếu liệu cái “nghệ thuật” của ông có là cố định hay không!? Ở một khoảnh khắc tôi nhận ra rằng, ông dùng rất nhiều những lối bẻ gãy mạch truyện, những chiêu thức lừa đón người đọc, cho họ vào túi và rồi thụp chặt bọn họ vào trong. Nhưng rồi sau khi đọc lại lần hai, tôi lại tự vấn lương tâm, liệu thật sự ông bóp nghẹt nó, hay, Những thành phố trôi dạt chỉ như vỏ ngoài của loài sứa biển, trong suốt, vô ảnh vô thanh, người đọc tự phóng chiếu mình (nếu có đủ khả năng) hay thể hiện cái gì mình bị ảnh hưởng (nếu đọc đủ nhiều). Tôi phát hiện ra rằng, có những câu chuyện của người lữ khách thứ tự xyz, hơn 90 phần trăm cốt truyện là ý a) nhưng rồi bất chợt ông chuyển lái sang một hướng b) một câu gọn ơ, không dọn mâm sẵn, cứ như một tai nạn bất ngờ. Rồi tôi tự hỏi, rốt cuộc a) chính hay b) chính; hay a) nền b) kết; hay cả hai rốt cuộc chẳng có gì quan trọng? Và dĩ nhiên, sau rốt tôi cho rằng, Nguyễn Vĩnh Nguyên trong cuốn sách này không những có bàn tay để xây dựng những thành phố (thực hay tưởng tượng), mà ông còn là người tái tạo cho thứ văn chương trong suốt gây ảo giác (đôi khi bạn nghĩ nó đa nghĩa, nó rất Juan Rulfo; nhưng thật ra nó chẳng có nghĩa gì cả). Rõ ràng rằng, tôi cũng chả chắc với những người khác rằng lời chú giải của mình liệu có còn đúng; nhưng đối với tôi, ít ra ở một thành phố sương mù, Nguyễn Vĩnh Nguyên cũng đã thích nghi và gom bớt một chút mù sương đó vào đây.

Về mặt nội dung, nhìn chung không có gì quá đột phá hay mới mẻ đặc biệt. Lời lẽ hay lối hình dung của Nguyễn Vĩnh Nguyên trong này cũng không phức tạp hay khó hiểu. Tôi nhận ra rằng đó là sự đối nghịch của những thế trường tồn, của ham sướng cực độ utopia và u huyền rách mướp dystopia; của khó đoán – vô định (từ hình thức lan sang nội dung), của cái đẹp sau rốt là cái nhỏ nhen – ích kỷ – vô đạo đức – cực đoan – độc đoán – trưởng giả – hư danh – giả tạm – tư lợi – vật chất – … nói chung là bất cứ tính từ nào hai hay ba chữ có thể miêu tả bản chất con người trong phần lớn văn chương hiện thực châu Á nào. Ở đó cũng có (nếu phân tích theo một hướng cổ điển thời Victoria) cái đẹp của văn chương, của tự nhiên, của mối quan hệ. Hai trong những mặt đó, tốt hay xấu nếu bạn nhận ra được mặt nào thì âu cũng là điều tốt. Còn nếu không thấy gì cả thì cũng chả sao, bởi đây là văn chương “trôi dạt” – như tác giả tự định nghĩa. Nếu văn chương trong tác phẩm này bị cấm, thơ ca bị đốt trụi, sách dùng làm thang cao hay kẹp nách để tỏ rõ giá trị bản thân; thì sự cần kíp thấu hiểu đôi ba dòng nghĩa cũng thực không quá cần thiết.

Ảnh: Zing News

*

Nhưng đồng thời trôi dạt cũng là một bến bờ hiểm nguy. Trôi dạt rất gần vô thưởng vô phạt, và dĩ nhiên, không những một lần sau khi đọc đôi ba truyện ngắn tôi lại chẳng hiểu điều gì ẩn sau từng ấy câu chữ văn chương. Nguyễn Vĩnh Nguyên tỏ ra cao tay (có lẽ) với hệ thần kinh của bản thân tôi, nhưng cao tay quá thể nhiều khi lại trôi quá xa. Những thành phố trôi dạt chứa không ít những điều vô lý, chẳng hạn một khách sạn phải đặt chỗ trước bảy tháng mới có phòng, lại có nhân viên hỏi một khách lữ bị mù “mắt cô như thế cần gì phải ở trong phòng có view đẹp?”!? Nhà văn liệu có phải là nô lệ của chữ nghĩa, của những ý tưởng tuôn ra trong đầu mình? Tôi không chắc, vì tôi chẳng viết được gì hay ho. Nhưng để những vô lý tham gia định hình cuốn sách, cũng là một cách ăn hải sản rưới nhân sâm.

Nhắc đến đây tôi chợt nhớ rằng, một bình luận viên về sách từng cho rằng cái dở của văn chương Việt Nam là thiếu đi những người biên tập kỹ lưỡng. Chẳng đặng thì đừng, sau khi cuốn sách của đấng phu quân được chính tay nàng biên tập, liền đập ngay vào mắt lời nhận xét đắt giá “Gọn nhẹ, đọc loáng là xong. Có chút Kafka hài hài rồ rồ. Mạch văn nhanh, không bị rề rà” hay ”601 trang không xuống dòng. Cuốn tiểu thuyết văn học Việt Nam hay nhất mà mình đọc trong thập kỷ qua”. Thấy đấy, chỉ cần vô bàn tay của một biên tập là mọi thứ sáng tỏ, kỹ càng; có gì khó khăn?

Riêng tôi thì ý thứ nhất, rõ ràng rất đúng. Trong Những thành phố trôi dạt không thiếu những sạn. Đôi chỗ vài câu một tác giả người Việt (không lai) viết bằng tiếng Việt nguyên bản (không cải cách), người đọc cũng là người Việt (không lai nốt), tự tin viết tiếng Việt không sai nhiều chính tả (đã kiểm chứng); nhưng đọc vào vẫn không hiểu nổi nó đang nói gì, giả thử (lại trong chuyện về lữ khách mù) “Không, đó là món quà thú vị mà tôi là cư dân của thành cô lưu giữ một kỷ niệm về chuyến đi”. Và đây không hẳn là trường hợp duy nhất. Không hiểu liệu đây là lỗi biên tập hay ý tác giả? Nhưng với một cuốn sách không một lỗi chính tả, tôi nghiêng nhiều hơn về ý tác giả. Nhưng sau rốt vẫn không hiểu đôi ba chỗ ấy đục khuyết câu chữ để làm gì? Hay lại như phim dài tập Netflix, ngắn tập Hollywood, từ những khiếm khuyết ấy làm dài đời hơn, ai biết được!?

Còn ý thứ hai, thì, tôi chả biết được! Chỉ biết Thomas Bernhard cũng không xuống dòng, Thuận trong Chinatown cũng thế, và thiếu gì những nhà văn với cá tính như thế, như Zodie Smith với nhiều đoạn hội thoại mà lời nhân vật kéo dài từ trang này sang trang kia vẫn chưa hết. Ngoài ra, thập kỷ vừa rồi nếu không viết được một bài điểm sách về Nguyễn Bình Phương, về Thuận (xin lỗi nhắc chị hơi nhiều), về Linda Lê hay các nhà văn cá tính nào khác mà phải cậy nhờ toán người ưu chuyên, rồi lại phủ quyết cuốn sách hay nhất thập niên cũng như cách nói Taylor Swift xứng đáng góp mặt trong top 10 những nữ rapper hay nhất thập niên này vậy.

Quay về lại chuyện biên tập. Thêm một ý nữa, ở đây dường như Nguyễn Vĩnh Nguyên (và biên tập viên) lại vướng thêm phải những điều thừa thãi. Ngay từ ban đầu, với tên gọi Những thành phố trôi dạt, tôi tự hỏi sao phải 50 câu chuyện, 50 lữ khách? Rốt cuộc rồi thì sao lại phải 50? 50 có nghĩa lý gì? Sau này tôi rút ra được, có lẽ 50 cũng là đại diện của cái dạt trôi – giữa 51 quá bán và 49 thiếu một. Ở đó, vịn vào sự hữu hình của 50, 50 câu chuyện trong đây không thiếu những cặp song thai. Như thể loài khỉ thống trị – loài ếch lái xe; như thể thơ ca bị cấm – văn chương bị đốt; như thể cây thông cô đơn và con gà đồng trên nóc nhà thờ… Nhìn qua nhìn lại, như trường hợp cuối, cả hai chẳng qua phản ánh cách con người ta nhìn vào di sản của những ngày này – di chỉ cũ xưa trong cái hời hợt mong muội hư danh. Chuyện ở giữa đó, chẳng qua là cái độc đoán, cái nhỏ nhen của loài giống người và sự trường tồn nghệ thuật muôn niên. Còn câu chuyện đầu, như một tương lai không quá xa xôi ở cả hai phía. Thì có gì cần để phải kéo dài chúng ra, khi có thể kể một cách gọn ghẽ và thật chắt lọc? Để rồi nhìn vào, tôi thấy cây thông cô đơn đúng thật cô đơn vì con gà đồng trên nóc nhà thờ màu đồng đã hút hết sự chú ý ngoài kia.

Thứ ba thứ tư, vẫn lại câu chuyện biên tập. Như đã nói ở trên, tôi vốn thích Nguyễn Vĩnh Nguyên vì lối sử dụng câu cú, từ ngữ của anh; và với tập truyện ngắn trước khi đọc Những thành phố trôi dạt, Khu vườn lưu lạc (2007) tôi đã chưng hửng khi thấy ở đó anh trích nhạc Ưng Hoàng Phúc, dẫn nhạc bolero. Chẳng ai nói đây là quy phạm không được phép dẫn, nhưng vấn đề để nâng cấp bản thân, tạo nên nền móng cho một tác phẩm; dù với mục đích gắn chặt đời sống, vẫn phải đặt ra một ngưỡng nhất định. Nếu đủ tài năng tạo ngữ cảnh dẫn đề một cách thật sang, thật lòng hợp lý, tôi chứ không ai khác vô cùng ủng hộ. Vì nếu như thế, ít ra văn chương Việt Nam tồn tại tác phẩm mà những dịch giả phải đi trầy trật chuyển ngữ (như văn chương của Tàn Tuyết vậy) và nhắc lại muôn đời cái khó khăn ấy. Nhưng ở đây, rất tiếc, Nguyễn Vĩnh Nguyên phù hợp với khách sạn hạng sang hơn khu phố tồi tàn. Trích dẫn “mông lung như một trò đùa”, “mặt xanh như đít nhái”… thật sự lỗi thời và không lại thấy một đương đại nào, như kiểu urban dictionary của người trẻ tuổi. Chỉ thấy thô kệch, hợp thời và thật nông dã. Nhưng cũng may mắn, nó chiếm rất ít dung lượng trong cuốn sách này, chỉ như một kẻ khó ở.

Và cuối cùng, để nói đúng như từ điển urban dictionary, tôi xin dùng cụm “thiếu nghị lực” cho cách xây dựng câu chuyện của cuốn sách này (xin đừng đánh giá, tôi chẳng phải nhà văn). Rõ ràng tựa đề có chữ trôi dạt, chình ình ở ngay bìa chính, còn được nhấn mạnh vô tận trang 2 rồi đến trang 3; thế nhưng Nguyễn Vĩnh Nguyên (và một lần nữa, anh chị biên tập) vẫn không giữ nổi thực hiện cái cam kết ấy. Trôi dạt, tôi tưởng, là những thành phố vô danh, không thật; nhưng lại ở đây hình tượng Saigon (áo dài, chợ bốn mặt, hòn ngọc phương Đông), Đà Lạt (cây thông cô đơn, con gà trên nóc nhà thờ, uống vang từ thành phố cao nguyên) hay ngay cả nghề viết của anh (tác giả của du khảo địa lý) trừng trừng hiện ra trong vô thức người đọc. Có thể cho rằng tác giả không nhắc chính tên thì không có nghĩa nó là Saigon, Đà Lạt hay anh; nhưng rõ ràng nó còn gì khác? Nếu từng đọc qua tác phẩm trước nữa, sẽ thấy y rằng những dòng mô tả Đà Lạt, trong đây vẫn lại một người đàn ông bước về nhà ga, vẫn món hoẵng nướng, cừu nướng phía trên cao nguyên, và hàng hà sa số những điểm chung khác. Cái cá nhân, cái cố định, cái chung chung; tất cả dường như đi ngược với chữ vô hình, đôi khi nhìn gần nhìn xa, tôi lại không biết có đọc nhầm sách!

*

Nhìn chung dẫu biết biên tập là một nghề khó. Cứ thử so sánh một cuốn ngoại văn và quyển quốc văn, ta liền xét thấy ở cuốn đầu tiên, tác giả luôn dành những lời cảm ơn ở phía cuối cùng tới người biên tập, tới nhà xuất bản, gia đình, họ hàng, thân quyến; còn ở cuốn kia, chẳng một lời thốt, cái tên in chết ở nơi trang phụ. Chẳng bàn sâu xa bản tính – văn hóa của mỗi khu vực, của mỗi quốc gia; rằng phương Tây ưa tính tập thể, phương Đông rèn tính cá nhân; mà nói thật ra bất cứ một tác giả nào cũng luôn thật tâm mong muốn đứa con tinh thần là thuần nguyên nhất, không dòng pha tạp, không lẫn dị chất. Điều đó khiến cho những cuốn như cuốn sách này rõ ràng sỡ hữu một cốt truyện hay, phong cách mới lạ, thế nhưng chết yểu khi còn non thai bởi chính đặc tính nguyên thủy. Dẫu sao vẫn phải công nhận Nguyễn Vĩnh Nguyên về sự tự tin, đổi mới và tùy biến nơi mình, đã cho ra đời một cuốn sách lạ, đánh thức lại nhiều cảm giác khi đọc. Hy vọng một ngày nào đó, cái tên của người biên tập sẽ không lặng im, nó biết động đậy, biết đi và thể hiện mình.

Hết.

minh.

Phía sau trang sách

Giải mã hạnh phúc: Khám phá nguồn gốc của niềm vui và sự hài lòng

Liệu có bí mật nào cho hạnh phúc? Đây là câu hỏi đã xuất hiện từ hàng thập kỷ trước, và nhiều triết gia, lãnh tụ tôn giáo cũng như nhà khoa học đã đưa ra câu trả lời của riêng họ. Nhưng liệu có thể dùng khoa học để giải mã sự mưu cầu hạnh phúc được không?

Published

on

Hãy cùng đến với “Giải mã hạnh phúc”. Đây là một giả thuyết được đưa ra bởi chuyên gia tâm lý Jonathan Haidt, cho rằng hạnh phúc đến từ những khao khát nội tâm và đồng thời cũng đến từ các yếu tố bên ngoài. Nói cách khác thì hạnh phúc vừa là “bẩm sinh”, vừa là “nuôi dưỡng”.

Cụ thể thì như vậy nghĩa là gì? Hãy cùng phân tích các thành phần tạo nên “Giải mã hạnh phúc”, cũng như cách ứng dụng chúng vào cuộc sống để tìm kiếm niềm vui và sự hài lòng.

Bẩm sinh

Yếu tố di truyền đóng một vai trò nhất định trong cảm nhận chung về hạnh phúc của chúng ta. Một số người sinh ra đã có cái nhìn lạc quan, trong khi những người khác có thể phải vật lộn với lo âu và trầm cảm. Tuy nhiên, điều quan trọng cần nhớ là mặc dù di truyền có thể ảnh hưởng đến mức độ hạnh phúc cơ bản, nhưng chúng không phải là yếu tố quyết định duy nhất.

Nuôi dưỡng

Môi trường và trải nghiệm cũng định hình hạnh phúc, điều này  bao gồm các mối quan hệ, công việc và thậm chí cả cộng đồng nơi chúng ta sống. Bằng cách tạo ra một môi trường hỗ trợ và trọn vẹn, chúng ta có thể nuôi dưỡng hạnh phúc lớn hơn trong cuộc sống.

Cân bằng giữa mong muốn và hoàn cảnh: “Giải mã hạnh phúc” cho rằng chúng ta có thể tìm thấy hạnh phúc bằng cách cân bằng giữa mong muốn bên trong và hoàn cảnh bên ngoài. Ví dụ, nếu bạn có mong muốn mạnh mẽ về an ninh tài chính, có thể bạn cần tìm một công việc mang đến nguồn thu nhập ổn định. Mặt khác, nếu bạn có niềm đam mê sâu sắc với sự sáng tạo, việc theo đuổi một sự nghiệp cho phép niềm đam mê đó phát triển có thể quan trọng hơn.

Vậy, làm cách nào để áp dụng “Giải mã hạnh phúc” vào thực tiễn? Dưới đây là một vài mẹo giúp bạn tìm thấy niềm vui và sự hài lòng trong cuộc sống:

1. Xác định các giá trị của bản thân: Hiểu được điều gì thực sự quan trọng với bạn có thể giúp định hướng các quyết định và tạo ra một cuộc sống viên mãn hơn.

2. Nuôi dưỡng các mối quan hệ: Mối quan hệ bền chặt với gia đình và bạn bè có thể mang lại tình yêu thương, sự hỗ trợ và cảm giác được thuộc về.

3. Theo đuổi đam mê: Tham gia vào các hoạt động và sở thích mang lại niềm vui có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc và hài lòng.

4. Thực hành lòng biết ơn: Dành thời gian để trân trọng những điều tốt đẹp trong cuộc sống, dù nhỏ bé, có thể làm tăng cảm giác hạnh phúc tổng thể của bạn.

5. Cho đi: Giúp đỡ người khác có thể mang lại ý nghĩa và sự trọn vẹn cho cuộc sống của chúng ta.

Jonathan Haidt là một nhà tâm lý học và nhà tâm lý học xã hội, nổi tiếng với các công trình nghiên cứu về tâm lý học đạo đức và tâm lý học tư tưởng chính trị. Ông là giáo sư ngành Lãnh đạo Đạo đức tại Trường Kinh doanh Stern thuộc Đại học New York, và đã xuất bản một số cuốn sách và nhiều bài báo nghiên cứu trong lĩnh vực tâm lý học.

Các công trình của Haidt thường tập trung vào ý tưởng rằng niềm tin và giá trị đạo đức của chúng ta được hình thành bởi nhiều yếu tố, bao gồm văn hóa, sự nuôi dạy và kinh nghiệm cá nhân. Ông lập luận rằng đạo đức không chỉ là vấn đề lý trí mà còn bị ảnh hưởng bởi cảm xúc và trực giác của chúng ta.

Một trong những đóng góp đáng chú ý nhất của Haidt cho lĩnh vực tâm lý học là mô hình “trực giác xã hội” về phán đoán đạo đức. Mô hình này cho rằng các phán đoán đạo đức thường dựa trên những đánh giá tự động, vô thức về các tình huống, thay vì lý luận có ý thức và có chủ ý. Công trình này thách thức quan điểm truyền thống cho rằng việc ra quyết định đạo đức là một quá trình hoàn toàn lý trí, và nhấn mạnh tầm quan trọng của cảm xúc và trực giác trong việc hình thành niềm tin đạo đức của chúng ta.

Nghiên cứu của Haidt cũng đã khám phá vai trò của đạo đức trong hệ tư tưởng chính trị, và ông đã chỉ ra rằng những người theo chủ nghĩa bảo thủ và tự do thường có nền tảng đạo đức khác nhau. Ví dụ, những người theo chủ nghĩa bảo thủ có xu hướng coi trọng các giá trị như lòng trung thành, quyền lực và sự thiêng liêng, trong khi những người theo chủ nghĩa tự do có xu hướng coi trọng sự công bằng và chăm sóc. Haidt lập luận rằng những khác biệt về đạo đức này đóng một vai trò quan trọng trong việc định hình thái độ và hành vi chính trị.

Các công trình của Haidt đã được trích dẫn rộng rãi và nhận được nhiều giải thưởng, bao gồm Giải thưởng William James Fellow từ Hiệp hội Khoa học Tâm lý. Các cuốn sách của ông được ca ngợi vì dễ tiếp cận và chứa đựng những hiểu biết sâu sắc về tâm lý con người.

Nhìn chung, những đóng góp của Jonathan Haidt cho lĩnh vực tâm lý học đã làm sáng tỏ vai trò của đạo đức và cảm xúc trong việc định hình niềm tin và hành vi, đồng thời giúp mở rộng hiểu biết về sự phức tạp của tâm trí con người.

Tóm lại, “Giải mã hạnh phúc” nhắc nhở chúng ta rằng hạnh phúc là sự kết hợp của cả bẩm sinh và nuôi dưỡng. Bằng cách cân bằng những mong muốn bên trong với hoàn cảnh bên ngoài, chúng ta có thể tạo ra một cuộc sống viên mãn và vui vẻ hơn. Vậy nên, hãy thử kiểm chứng “Giải mã hạnh phúc” và xem liệu nó có khiến bạn hạnh phúc hơn không nhé!

Lam dịch từ MindfulMac

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Cafe sáng