Book trailer

Thành phố những lục địa bay: Tự sự của sương mù và những phận đời trôi nổi

Published

on

Mỗi nhà văn đều có một thành phố hư cấu hoặc phi hư cấu thân thuộc, xuất hiện thường xuyên trong tác phẩm của mình: với William Faulkner là tỉnh Yoknapatawpha, với Paul Auster là thành phố New York, với Phạm Công Luận là Sài Gòn… và với nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên thì đó là Đà Lạt. Thông qua tác phẩm mới nhất – Thành phố những lục địa bay – Nguyễn Vĩnh Nguyên một lần nữa tái khám phá Đà Lạt dưới những góc độ mới.

Một thành phố ẩn hiện giữa hư cấu và phi hư cấu

Trong Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã trình hiện một thành phố vừa là Đà Lạt, vừa không phải là Đà Lạt như chúng ta từng biết. Đó là Đà Lạt của riêng nhà văn – một thành phố nằm giữa hư cấu và phi hư cấu, ẩn sau những lớp sương mù là muôn ngàn tâm tư lắng đọng – thành phố của những lục địa bay.

Nguyễn Vĩnh Nguyên đã thực hành phương thức dùng cả chữ xen kẽ với hình để thay phiên nhau kể chuyện. Nếu xem Thành phố những lục địa bay là bản giao hòa giữa thực và ảo, thì ở đây, văn bản như một đại diện cho thế giới hư cấu, còn hình ảnh thì lại là đại diện cho thế giới thực. Chính việc tường thuật về thành phố theo lối này đã tạo cho người đọc cảm giác tác phẩm như một bộ phim giả tài liệu (mockumentary), mà ở đây – trong địa phận văn chương – nhà văn đã sáng tạo nên thể loại có thể tạm gọi là giả phi hư cấu.

Với kinh nghiệm nhiều năm làm báo, Nguyễn Vĩnh Nguyên đã sử dụng không chỉ văn phong sáng tác mà còn lồng ghép song song với văn phong báo chí trong Thành phố những lục địa bay. Ở nhiều phân đoạn, nhà văn thực hiện lựa chọn lối viết ngắn gọn, chỉ đơn thuần tả lại sự kiện, gợi nhớ đến phong cách điểm tin của báo chí nhưng không tạo cảm giác tin tưởng tuyệt đối cho người đọc mà đem lại nỗi mơ hồ, hoài nghi, tựa như khi ta nghe thông tin từ những lời đồn.

Nỗ lực vượt thoát ranh giới thể loại của nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên

Không chỉ chơi đùa giữa hư cấu và phi hư cấu, Nguyễn Vĩnh Nguyên còn chơi đùa giữa hai phân khúc nhỏ hơn trong phân nhánh hư cấu là truyện ngắn và tiểu thuyết.

Tác phẩm chia làm ba phần chính được đánh số La Mã và không đặt tiêu đề, ba phần này đóng vai trò tương tự như cấu trúc ba hồi trong điện ảnh, cách trình bày cũng gợi nhớ đến thể loại tiểu thuyết. Ở mỗi phần đều có rất nhiều truyện ngắn. Có thể gọi những truyện ngắn này là những mảnh vụn rơi ra từ lục địa kí ức; cũng có thể hiểu nó là những trường đoạn hay phân cảnh trong một hồi của cấu trúc kể chuyện.

Các truyện ngắn được dàn trải đều ở cả ba phần. Phần I có 25 truyện ngắn, phần II có 19 truyện ngắn, phần III có 22 truyện ngắn. Từng truyện ngắn này đều thực sự ngắn với dung lượng từ hai đến ba trang, tiện lợi cho cả những người đọc bận rộn theo dõi câu chuyện.

Hòa vào thiên nhiên để chiêm nghiệm thân phận con người

Thông thường, con người hiện đại đã quen thuộc với khái niệm “trở về thiên nhiên” sau những bộn bề trong cuộc sống đô thị – nơi không gian sinh hoạt bị những tòa nhà cao chọc trời xâm lấn, vây cùng siết tận. Nhưng trong Thành phố những lục địa bay, có vẻ như với nhà văn Nguyễn Vĩnh Nguyên, thiên nhiên không phải là nơi để quay về – vì “quay về” đồng nghĩa với việc thiên nhiên và con người vẫn còn là hai cá thể tách biệt, là đối tượng và chủ thể.

Tuy nhiên, ở tác phẩm này thì thiên nhiên vừa là đối tượng vừa là chủ thể, cả con người cũng đóng cùng lúc hai vai trò ấy. Con người hiểu chính mình thông qua việc hòa vào thiên nhiên; đồng thời, thiên nhiên cũng như một chủ thể có cảm xúc, thầm lặng quan sát tâm tư của con người và trình hiện lại những ghi nhận đó bằng dáng vẻ bên ngoài thông qua cây cối, gió sương, hồ mây… Quan điểm này thể hiện rõ trong truyện Thác – phần truyện mà tác giả dành để miêu tả cái chết của những người tuyệt vọng rồi tìm đến thác để nhanh chóng đặt dấu chấm hết cho cuộc đời. Ở đây, có một phép chơi chữ thông minh khi thác vừa là danh từ chỉ nơi chốn, vừa là động từ chỉ cái chết. Như thế, thác-danh-từ đại diện cho thiên nhiên, thác-động-từ đại diện cho con người. Những cái chết trong Thác cho người đọc một cảm thức rằng: cái chết của con người không phải là sự ra đi mà là trở về, để “chuyển hóa vào giới tự nhiên”.

Như vậy là, con người không chỉ sinh ra từ thiên nhiên, chết đi trở về với thiên nhiên, mà thực ra trong lúc ta còn sống, trong lúc trái tim còn bồi hồi nhịp đập, thiên nhiên vẫn luôn song hành cùng con người, thu hết vào lòng mọi tâm tư của con người, không phán xét, không gạn lọc, không chối bỏ – giống như cách mặt hồ thu hết hình ảnh từ những sinh thể xung quanh rồi dịu dàng phản chiếu lại rõ nét, sắc trong, trung thực; giống như chính tình yêu của tác giả dành cho Đà Lạt được thể hiện rất tỏ tường trong Thành phố những lục địa bay.         

Trích đoạn

Sương khói đặt cảnh vật vào một trạng thái mông lung mơ màng. Mọi khung cảnh đều có thể đánh lừa thị giác con người khi chúng lùi ra, giãn cách, ẩn hiện phía sau một lớp voan trắng, nhẹ và mỏng, nhạt mờ mọi đường nét.

(trích Hồ)

Một cây thông già mọc không thẳng thớm. Thân nó đổ ra phía mặt hồ như một trò đùa thăng bằng nhạt nhẽo. Những cành nhánh quằn quại mở rộng tán trên mặt nước vuốt ve chính chiếc bóng méo mó của mình.

(trích Thi sĩ)

Các hồ nước giống nhau ở một điểm, đó là những chiếc gương phẳng lặng dệt thêu mơ tưởng. Nhưng có thể chúng chỉ là những mảnh vỡ rời rạc của một chiếc gương mà thôi. Chiếc gương làm lật trái mọi sự việc mà nó soi bóng.

(trích Chuỗi hồ)

Về tác giả

Nguyễn Vĩnh Nguyên sinh năm 1979 tại Khánh Hòa, lớn lên tại Ninh Thuận, tốt nghiệp Sư phạm Ngữ văn Đại học Đà Lạt khóa 1997 – 2001. Anh sống và làm việc tại Sài Gòn. Ngoài các tập truyện ngắn, tản văn, tiểu thuyết, anh còn chuyên tâm thực hiện loạt sách về Đà Lạt, với nhiều ấn phẩm như: Đà Lạt một thời hương xa; Với Đà Lạt ai cũng là lữ khách; Đà Lạt, bên dưới sương mù; Thành phố những lục địa bay… Anh còn lập một fanpage chuyên về Đà Lạt, là nơi trao đổi những thông tin văn hóa, lịch sử, những câu chuyện về thành phố.

Book trailer

Niên lịch miền gió cát bàn cách sống hòa hợp thiên nhiên

Published

on

Sách Niên lịch miền gió cát là ghi chép của Aldo Leopold - nhà sinh thái học hoang dã - về các con người tôn trọng thiên nhiên.

Aldo Leopold là nhà địa chất học, nhà môi trường học. Năm 1935, gia đình ông mua một trang trại cũ gần sông Wisconsin (Mỹ), trồng cây và cứu sống cánh đồng đã chết. Ông ghi nhận những thay đổi của sinh, thực vật trong quá trình phục hồi. Các bản thảo sau đó được tập hợp thành quyển Niên lịch miền gió cátxuất bản tháng 4/1948, một tuần sau khi tác giả mất do đau tim.

Niên lịch miền gió cát do Dương Mạnh Hùng chuyển ngữ. Sách Phương Nam phát hành. Ảnh: Phương Nam Book.

Sách gồm ba phần. Phần một là quan sát sinh vật thay đổi theo từng tháng tại trang trại ở Wisconsin. Phần hai là ghi chép hành trình khám phá đời sống hoang dã của ông trong 40 năm. Phần cuối là nhận định về việc bảo tồn thiên nhiên. Thông qua thể văn xuôi đậm chất hóm hỉnh kết hợp yếu tố lịch sử, khoa học, Leopold truyền tải ý nghĩa về mối liên hệ giữa con người với môi trường, hy vọng độc giả yêu, tôn trọng thiên nhiên.

Ông đề ra đạo đức môi trường tự nhiên (land ethic): "Một hành động là đúng đắn là khi hướng tới bảo tồn tính toàn vẹn, ổn định của cộng đồng sinh vật". Leopold viết: "Con người sẽ có ý thức bảo tồn khi tiếp xúc, hiểu, cảm nhận được vẻ đẹp của thiên nhiên". Khi sống gần các sinh, thực vật, mỗi người sẽ hình thành đạo đức - cơ chế tự kiểm duyệt trước khi hành động tổn hại môi trường. Con người cần khám phá, kết nối với tự nhiên để có lòng yêu thương, quan tâm thế giới tạo hóa ban tặng.

Theo Buddy Huffaker, chủ tịch của Aldo Leopold Foundation (tổ chức nâng cao ý thức bảo vệ môi trường dựa trên lý luận của Leopold): "Nhờ lập luận về đạo đức môi trường tự nhiên nên Niên lịch miền gió cát được săn đón vào năm 1970 - lần đầu tiên tổ chức Ngày Trái đất. Các ghi chép về đạo đức của tác giả được áp dụng rộng rãi và vô tình trở thành chuẩn mực ứng xử với thiên nhiên". The Boston Globe nhận định sách là "một trong những tác phẩm có tầm ảnh hưởng mạnh mẽ đến phong trào môi trường".

Aldo Leopold là nhà khoa học, nhà địa chất học, nhà triết học, nhà môi trường học người Mỹ. Ảnh: aldoleopold.

Aldo Leopold (1887-1948) trải qua thời thơ ấu tại Burlington, gần dòng sông Mississippi - nơi dấu chân của ông trải khắp các khu rừng, đồng cỏ. Leopold học lâm nghiệp tại trường dạy về rừng của Yale. Sau khi tốt nghiêp năm 1909, ông làm việc tại Cục Kiểm lâm Mỹ, đồng thời nghiên cứu sinh thái học, đề ra đạo đức môi trường tự nhiên. Năm 1933, tập sách về quản lý động vật hoang dã Game Management được xuất bản. Năm 1982, vợ và năm người con thành lập The Aldo Leopold Foundation nhằm nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường hoang dã dựa trên di sản trí tuệ tác giả để lại.

Theo VNexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Người đẹp ngủ mê – tiểu thuyết kinh điển về nỗi buồn

Published

on

Người đẹp ngủ mê của nhà văn Nhật Kawabata Yasunari khắc họa nỗi buồn qua những suy nghĩ về sự sống và hoài niệm.

Người đẹp ngủ mê do dịch giả Quế Sơn chuyển ngữ, tái bản trong nước cuối tháng 11. Tác phẩm xuất bản lần đầu năm 1961, dựa trên kịch bản sân khấu kabuki Những mỹ nữ, công diễn vào khoảng thế kỷ 17 ở Nhật Bản.

Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước cuối tháng 11. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa sách Người đẹp ngủ mê. Tác phẩm dày 160 trang, tái bản trong nước. Ảnh: Phương Nam Book

Tác phẩm xoay quanh năm lần ông lão Eguchi ghé thăm ngôi nhà của những trinh nữ xinh đẹp tuổi chưa đầy 20. Họ bị gây mê bằng thuốc ngủ liều cao, khỏa thân trong tình trạng ngủ say. "Nếu chỉ cần lay nhẹ mà cô gái đã thức dậy thì ngôi nhà này đâu còn gì bí ẩn nữa. Các vị khách đến đây 'giống như ngủ với một ông Bụt vô hình'. Đối với các ông già, ngủ với một người đẹp không khi nào tỉnh thức là một mối cám dỗ, một cuộc phiêu lưu, một niềm vui thú mà họ tin mình còn thực hiện được", tác giả viết.

Mỗi chương là một lần Eguchi đến ngôi nhà ngủ cùng cô gái khác nhau. Khi màn đêm buông xuống, nhiều tiếng động kết hợp tạo nên bản nhạc của thiên nhiên, con người. Hơi thở của những cô gái, cộng với tiếng gió thổi qua mái nhà và âm thanh sóng biển đập vào vách đá. Từ đó, Eguchi hồi tưởng quá khứ, nhớ về những người đàn bà đi qua đời ông.

Tác giả lấy những hoài niệm để ẩn dụ cho sự tiếc nuối vẻ đẹp văn hóa Nhật Bản. Kỷ niệm tái hiện qua không gian, hình ảnh thiên nhiên xung quanh ngôi nhà của các mỹ nữ. Việc ngủ cạnh những cô gái khiến Eguchi khám phá nhiều cung bậc cảm xúc, đồng thời nhận ra sự cô đơn của mình. "Một nỗi cô đơn buồn bã trào lên. Nhưng hơn cả nỗi cô đơn hay nỗi buồn rầu, chính là nỗi cô chiếc tuyệt vọng của tuổi già như thể đông lạnh hẳn trong ông", Kawabata viết.

Tác phẩm không chỉ tràn ngập những mỹ từ, như "bàn tay mịn và đẹp, mái tóc trinh trắng, đôi má ửng đỏ, cổ và vai trông tươi và trẻ", mà còn suy tưởng về quy luật của thời gian, sự sống và cái chết, nỗi hoài niệm quá khứ, khao khát tương lai. Đời sống xã hội mang nhiều tổn thương, khiến con người dễ rơi vào tâm trạng cô đơn, tiếc nhớ những tháng ngày quá khứ.

Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa trong của tác phẩm Người đẹp ngủ mê năm 2023. Ảnh: Phương Nam Book

Càng về cuối, Kawabata càng đào sâu ký ức của nhân vật chính, nhằm giúp Eguchi tìm lại được cảm xúc thuần túy nhất. Eguchi tin những lão già như mình, khi có dịp trú ngụ tại ngôi nhà của các mỹ nữ, không chỉ nhìn lại thời trai trẻ mà cố quên đi những việc tiêu cực xảy ra trong cuộc đời. Từ khía cạnh này, Eguchi liên tưởng những người đẹp ngủ mê là hiện thân của thần tiên trong các truyền thuyết.

"Cô gái ngủ mê man như chết nhưng thời gian sinh tồn của nàng đâu có ngưng chảy, vậy nàng có giữ được thời gian đó không hay là nó chảy tuột vào một vực sâu không đáy? Nàng không phải là một búp bê sống, vì không thể có búp bê sống trên thế gian này; nàng được biến thành một đồ chơi sống, để các cụ già đã mất năng lực đàn ông không bị cảm thấy xấu hổ. Không, không phải một đồ chơi: đối với các cụ, nàng chính là cuộc sống. Một cuộc sống người ta có thể sờ mó được, một cách tự tin", Kawabata nhận định.

Trong một số tác phẩm, Kawabata thường lồng ghép quan điểm của mình để gợi nhớ cuộc sống mồ côi và những khó khăn thời trẻ tuổi trẻ. Đồng thời, nhà văn để lại nhiều khoảng trống để độc giả tự khám phá. Bằng sự khéo léo biến hóa ngôn từ, Kawabata dẫn dắt người đọc qua nhiều tình huống, tạo nên cảm nhận khác nhau khi đọc tác phẩm.

Tác phẩm được giới chuyên môn và nhiều độc giả đánh giá cao. Năm 1968, Người đẹp ngủ mê giúp Kawabata Yasunari trở thành tiểu thuyết gia người Nhật đầu tiên đoạt giải Nobel Văn học. Đại diện Viện Hàn lâm Thụy Điển nhận xét: "Tác giả tôn vinh cái đẹp hư ảo, đồng thời khắc họa nỗi buồn hiện hữu trong đời sống thiên nhiên và định mệnh con người".

Trên trang đánh giá sách Goodreads, độc giả Jim Fonseca viết: "Những dòng văn mở đầu câu chuyện góp phần che đậy nỗi khao khát và ký ức tình yêu trong quá khứ của nhân vật. Tác phẩm có chút kinh dị nhưng hấp dẫn, khắc sâu vào tâm trí tôi".

Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh
Nhà văn Kawabata Yasunari. Ảnh: Estate of Yousuf Karsh

Kawabata Yasunari (1899-1972) sinh ra ở Osaka, mồ côi năm lên hai tuổi. Từ đó, ông và người chị ruột sống cùng ông bà ngoại và gia đình người dì. Qua thời gian, những sáng tác văn chương, tiểu luận mỹ học và phê bình văn học của Kawabata vẫn luôn hấp dẫn nhiều nhà nghiên cứu văn học khắp thế giới, do phản ánh nhiều phương diện văn hóa và đề cao tinh thần người Nhật. Nhiều tác phẩm của Kawabata từng xuất bản trong nước, gồm: Đẹp và buồnHồTiếng núiXứ tuyếtBồ công anh.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Book trailer

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Đường xưa mây trắng là tác phẩm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh. Cuốn sách kể về cuộc đời Đức Phật, mà ai đọc vào cũng cảm nhận được điều hay lẽ phải. Giáo lý nhà Phật được tác giả phân tích dễ hiểu, dễ nắm bắt.

Thầy Thích Nhất Hạnh (tên khai sinh Nguyễn Xuân Bảo, sinh năm 1926, tại Huế). Ông là Thiền sư nổi tiếng người Việt Nam. Ông hiện là nhà sư có ảnh hưởng lớn đến Phật giáo trên toàn thế giới. Không những là nhà tu hành, Thích Nhất Hạnh còn hiện diện là một nhà văn, nhà thơ, nhà khảo cứu. Đến nay, ông đã viết được hơn 100 cuốn sách.

Hầu như tác phẩm nào của ông cũng gây được sự chú ý không chỉ ở những người theo Phật giáo, mà ở nhiều độc giả, ở mọi lứa tuổi, ngành nghề, tôn giáo khác. Tác phẩm Đường xưa mây trắng của Thầy Thích Nhất Hạnh có thể được coi như là một cuốn tiểu thuyết về cuộc đời Đức Phật, mà trong sách, tác giả gọi là Bụt. Bụt là phiên âm từ âm Buddha trong tiếng Phạn.

Quán thiền trong Đường xưa mây trắng của Thiền sư Thích Nhất Hạnh
Tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Cuộc đời Đức Phật được kể qua con mắt của chú bé chăn trâu Svasti, sau xuất gia, trở thành một vị đệ tử của Phật. Svasti từng cúng dường cỏ bồ đề cho cho Đức Phật suốt 49 ngày trước khi thành đạo. Đây có thể là góc nhìn khác lạ của tác giả so với nhiều người kể về Đức Phật.

Qua đôi mắt đứa trẻ, mọi sự vật, sự việc sẽ được kể chân thật, hồn nhiên, không có gì phải giấu diếm. Đức Phật hiện diện lên trước hết, không phải là một thần linh, mà là một con người giản dị, có cuộc sống và mơ ước như bao người. Mơ ước của Đức Phật là làm lợi cho muôn loài.

Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Tác phẩm Đường xưa mây trắng được chia làm 81 chương, trong mỗi chương là những cảnh xưa, người xưa được hiện diện lên sống động. Giáo lý nhà Phật được nói dễ hiểu, gọn gàng. Những tập tục của người xuất gia xưa, hay cách quán thiền cũng được tác giả lồng ghép vào khéo léo.

Câu chuyện diễn ra tự nhiên, không có một gượng ép nào. Tác giả cho thấy sức tưởng tượng thiên tài của mình, người đọc có thể tưởng rằng, tác giả phải là người sống bên cạnh Đức Phật mới có thể viết tỉ mỉ, lý thú như vậy, nếu như không đọc tên người viết.

Tâm sự về cuốn sách này, Thiền sư Thích Nhất Hạnh từng viết: “Tôi còn nhớ là tôi đã viết Đường xưa mây trắng ở trong cái quán của Xóm Thượng. Hồi đó chưa có lò sưởi trung ương, trong phòng chỉ có một cái lò sưởi đốt củi thôi và trời rất lạnh. Tay phải tôi viết còn tay trái thì đưa ra hơ trên lò sưởi. Tôi đã viết những chương của Đường xưa mây trắng với rất nhiều hạnh phúc.

Thỉnh thoảng tôi đứng dậy pha trà để uống. Mỗi ngày viết mấy giờ cũng như được ngồi uống trà với đức Thế Tôn. Và tôi biết trước người đọc sẽ rất có hạnh phúc vì khi viết mình cũng đang có rất nhiều hạnh phúc. Viết Đường Xưa Mây Trắng không phải là một lao động mệt nhọc mà là cả một niềm vui lớn. Đó là một quá trình khám phá. Có những đoạn tôi cho là khó viết, như đoạn Bụt độ cho ba anh em ông Ca Diếp.

Tài liệu thường nói là Bụt độ ba anh em đó nhờ thần thông của Ngài, nhưng khi viết thì tôi đã không để cho Bụt dùng thần thông mà cứ để Bụt sử dụng từ bi và trí tuệ của Ngài để độ ba ông ấy. Bụt có rất nhiều trí tuệ, rất nhiều từ bi, tại sao Bụt không dùng mà lại phải dùng thần thông? Và tôi có một niềm tin rất vững chắc là mình sẽ viết được chương đó. Chương này là một trong những chương khó nhất của Đường Xưa Mây Trắng nhưng cuối cùng tôi đã thành công. Chương khó thứ hai là chương nói về cuộc trở về của Bụt để thăm gia đình. Ngài đã thành Phật rồi, Ngài đã thành bậc toàn giác rồi, nhưng về thăm gia đình thì Ngài vẫn còn là một đứa con của cha, của mẹ, vẫn là một người anh của các em.

Viết như thế nào để Bụt vẫn còn giữ lại được tính người của Ngài. Cũng nhờ niềm tin đó mà tôi thành công. Quý vị đọc lại, sẽ thấy Bụt về thăm nhà rất tự nhiên. Cách Ngài nắm tay vua cha đi từ ngoài vào, cách Ngài đối xử với em gái, cách Ngài đối xử với Yasodhara và Rahula, rất tự nhiên. Tôi có cảm tưởng là có chư Tổ gia hộ nên tôi mới viết như vậy được. Trong Đường Xưa Mây Trắng chúng ta khám phá ra Bụt là một con người chứ không phải là một vị thần linh”.

Một trích dẫn hay trong tác phẩm Đường xưa mây trắng - Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Đường xưa mây trắng được biết đến là cuốn sách đã bán được nhiều triệu bản, được dịch ra hơn 20 tiếng trên thế giới. Sau khi đọc được cuốn sách này, nhà tỉ phú Ấn Độ Bhupendra Kuman Modi đã quyết định tài trợ 120 triệu USD để các nhà làm sản xuất dựa theo Đường Xưa Mây Trắng dựng thành phim.

Qua cuốn sách Đường xưa mây trắng, thầy Thích Nhất Hạnh đã vẽ lại phần nào khung cảnh xưa: “Trong bóng me im mát vị khất sĩ Svastika đang thực tập phép quán niệm hơi thở. Chú ngồi trong tư thế hoa sen. Từ hơn một tiếng đồng hồ, chú đã ngồi thực tập như thế một cách chăm chú. Đó đây trong tu viện Trúc Lâm, hàng trăm vị khất sĩ cũng đang ngồi thực tập thiền quán, hoặc trong bóng tre, hoặc tron những chiếc am lá nhỏ đựng rải rác khắp nơi trong tu viện, xen lẫn giữa những bụi tre xanh tươi và khỏe mạnh”.

Đọc cuốn sách này, chúng ta học được nhiều điều hay của Đức Phật, đó là cách nói chuyện, cách hành động, cách lý giải cuộc sống. Và đặc biệt, là cách quán thiền, cách tĩnh tâm trước những biến động của đời người.

Theo báo Pháp luật

Đọc bài viết

Cafe sáng