Trà chiều

Những nỗi buồn dịu dàng

Tôi đã nấn ná ngồi lại trong văn phòng một chút sau giờ làm việc, nhìn ngày dần tàn qua khung cửa sổ, bật lên những bản nhạc của nàng, để nỗi buồn của nàng và nỗi buồn của tôi hòa làm một.

Published

on

cho những ngày âm nhạc là số một

Tôi biết Suzy đã lâu qua những bài viết thỉnh thoảng hay thấy trên Kênh 14. Đương nhiên là tôi chỉ đọc lướt qua tiêu đề chứ hiếm khi click vào đọc bất cứ bài nào viết về nàng. Đơn giản vì tôi chưa xem phim nàng đóng, nghe nhạc nàng hát nên tôi cũng không có hứng thú đọc thông tin về nàng lắm. Tôi cũng không có ý định sẽ thưởng thức bất cứ tác phẩm nào trong quá trình hoạt động nghệ thuật của nàng.

Năm 2016, tôi đắm chìm trong W và rất thích Lee Jong Suk mặc dù ý định xem phim ban đầu là vì Han Hyo Joo. Vậy nên năm ngoái, tôi đã quyết định xem While you were sleeping không chút đắn đo một phần vì tên phim đã khiến tôi ấn tượng với chủ đề nó hướng đến (tôi vốn rất thích Dream của Kim Ki Duk, tôi đã hình dung While you were sleeping cũng có không khí tương tự), và phần nhiều là vì Suk. Tôi không có chút gì mảy may xem phim này vì Suzy. Trên thực tế, cũng không vì bộ phim này mà tôi thích Suzy. Suzy thật xinh – điều này tôi đã thấy qua hình ảnh trước đó. Nhưng khi xem phim, ấn tượng đầu tiên của tôi không phải là vẻ đẹp nàng sở hữu, mà là giọng nói của nàng. Đó không phải là một ấn tượng tốt hay không tốt, đó là một ấn tượng trung tính. Nàng không có giọng nói nhẹ nhàng, thanh thoát như Song Hye Kyo, Son Ye Jin hay như một số nữ diễn viên Hàn mà tôi thích. Đó là lần đầu tiên tôi nghe được một giọng nữ Hàn với âm vực trầm và mạnh như thế. Trái với khuôn mặt nàng, có gì đó rất nam tính, thiên về dấu cộng nhiều hơn dấu trừ trong cách nàng nói, kể cả khi thốt ra những lời yêu thương đường mật nhất. Nhiều lúc tôi còn tưởng tượng không biết nàng có trải qua quá trình “vỡ giọng” của phụ nữ tuổi trưởng thành không. Tôi cũng không thể hình dung được nàng sẽ hát những bản tình ca như thế nào.

Tuy vậy, xem xong While you were sleeping, tôi vẫn thử download mini album Yes No Maybe của nàng về máy. Tôi không nghe ngay lập tức nhưng chép vào điện thoại để lúc nào đó sẽ nghe. Trong suốt hai tháng sau đó, tôi quên béng mất việc album này đã nằm gọn trong điện thoại. Cho đến một ngày, tôi chợt nhớ ra và mở nghe thử. Tôi không nhớ quá nhiều về ấn tượng những lần đầu tiên nghe, nó không để lại trong tôi ấn tượng mạnh mẽ ngay lập tức. Thế nhưng, không hiểu sao tôi vẫn đều đặn mở nó vào mỗi sáng thức dậy trong suốt một tuần. Và sau một tuần, tôi bỗng nhiên thấy nó hay, thấy nó xuất sắc một cách lạ lùng.

Bản nhạc đầu tiên chạm đến trái tim tôi là bài hát nằm cuối album: A little flower. Đây là một bản nhạc pop thông thường, giai điệu nghe thoáng qua có vẻ khá phổ biến với kiểu pop châu Á. Phần intro bản nhạc khiến tôi nhớ đến những bản nhạc pop nằm trong album Wishing for Happiness của Dương Thừa Lâm – đó có lẽ là album nhạc pop của Dương Thừa Lâm mà tôi thích nhất. Những nốt nhạc đầu tiên của A little flower khiến tôi nhớ đến Nỗi phiền muộn của chàng Werther, đến Tự tác tự thụ (My fault), đến Missing you trong album ấy. Và đoạn verse hay chorus lại khiến tôi nhớ đến những bài nhạc Việt như Cỏ mềm của Đỗ Bảo, Quên mất đã từng yêu của Đông Nhi… Đương nhiên, giai điệu những nốt nhạc không giống nhau, nhưng cảm giác của tôi ở đây là chúng cùng chia sẻ một bầu không khí. Tôi sẽ gọi bầu không khí ấy là những nỗi buồn dịu dàng. Đó là những nỗi buồn thật điềm tĩnh, thật trầm lắng, và sự dịu dàng ấy không đồng nghĩa với việc không đau. Như một vết cắt dù có lớn thế nào rồi cũng sẽ đến giai đoạn lên da non. Những bản nhạc này không nói về các vết thương trong giai đoạn còn rướm máu, hay mưng mủ, hay đã lên mài, nó chính xác là giai đoạn đã lên da non, là ngay điểm giao giữa ranh giới ở lại hay bước qua nỗi buồn. Và sự lựa chọn ấy là tùy thuộc riêng vào từng bài hát, từng giai điệu, từng tâm trạng.

Vì quá thích A little flower, tôi đã thử tìm hợp âm của bài này trên mạng và ngạc nhiên khi nó là tổ hợp của những hợp âm bậc 9. Dm9, G9, kính thưa 9 các kiểu. Đoạn mở đầu dịu dàng ấy hóa ra là thành quả của bậc 9 được thêm vào cơ đấy. Sau đó, tôi thử đàn đi đàn lại đoạn đầu với Dm9, G9, tôi nhấm nháp sự dịu dàng, bình yên của nó. Tôi cũng thử đàn lại đoạn mở đầu bằng Dm và thấy dù vẫn hợp nhưng không hay bằng Dm9. Tại sao điều đó lại xảy ra? Và rốt cuộc, tôi đã thức đến ba giờ sáng dù hôm sau còn phải đi làm để đọc qua hướng dẫn sơ lược về bậc 9, để nghịch với nó. Tôi không đọc lí thuyết nhiều, chỉ biết vừa đủ để nghịch, để tận hưởng sự kì diệu bậc 9 (hay bậc 2) mang lại. Lí thuyết nói rằng những nhóm hợp âm mở rộng như 9, 11, 13 được thêm vào dựa trên nốt của giai điệu, đơn giản là vậy thôi. Vây nên, khi muốn sử dụng 9, 11 hay 13 thì bản thân giai điệu cũng phải có những nốt bậc 9, 11, 13. Hợp âm mở rộng 9, 11, 13 chỉ đơn giản là để mang lại nét cá tính riêng cho phần hòa âm của chính bản nhạc, nếu cứ trưởng thứ hoặc thậm chí là cả 7 thì rất chung chung. Nên cẩn thận khi sử dụng hợp âm bậc 11 vì nó chính là nốt bậc 4 ở quãng trên, sử dụng 11 đôi khi dễ có cảm giác đang sử dụng hợp âm sus4 hơn là 11. Trong khi đó, bậc 13 đôi khi không khác mấy bậc 6, mà bậc 6 về cơ bản thì lại là bậc 7 của quãng 3 trên, nếu không tính toán cẩn thận thì nó cũng không có gì khác biệt. Qua chuyện này, tôi lại cảm nhận đôi khi âm nhạc cũng không khác toán học cho lắm, chúng đều có những phép tính đòi hỏi sự cẩn thận để làm tôn lên vẻ đẹp của kết quả (âm nhạc), hoặc để có một kết quả thật chuẩn xác (toán học).

Quay lại với bậc 9, phép tính trên cho thấy, trong nhóm hợp âm mở rộng, rốt cuộc sáng giá nhất hay dễ sử dụng nhất vẫn là bậc 9. Sau khi biết lí thuyết đơn giản như vậy, tôi lao vào thử đàn ngay bậc 9 theo tiến trình ngược để tự học. Theo qui luật tự nhiên, người ta sẽ soạn giai điệu cho tay phải trước rồi tìm hợp âm phù hợp cho tay trái. Nhưng ở đây, vì muốn thử âm tiết của bậc 9, tôi đàn hợp âm 9 bên tay trái trước và từ tay trái tìm ra giai điệu phù hợp cho tay phải. Tiến trình giúp tôi tìm được câu trả lời cho câu hỏi tôi đã thắc mắc bao năm qua. Làm sao để tạo ra âm điệu cho những nỗi buồn dịu dàng ấy? Hóa ra là bậc 9. Một hợp âm cơ bản, rất vui tươi như C khi có thêm nốt bậc 9 là D ở quãng trên thì bỗng nhiên nhuốm chút gì đó buồn ngay, nhưng đương nhiên là không buồn hẳn vì nếu buồn hẳn là đã sang hợp âm thứ trong khi nó vẫn đang là trưởng. Nếu như hợp âm cơ bản gồm bậc 1-3-5 cho ta xác định tâm trạng chung là vui hay buồn, hợp âm bậc 7 là vui buồn không rõ ràng, thì hợp âm bậc 9 là nỗi buồn dịu dàng. Nỗi buồn dịu dàng. Nỗi buồn dịu dàng của tôi. Tôi cứ vừa đàn vừa tấm tắc sung sướng trong đầu mãi: “Thứ mình cần đây rồi. Mình có thứ mới để chơi rồi.” Và cứ thế tôi đàn không biết mệt dù trước đó buồn ngủ lắm rồi, đã nhủ chỉ đàn một chút 10-15 phút thôi nhưng ba tiếng trôi vèo nhanh chóng, từ 12 giờ đêm, khi đồng hồ chỉ 3 giờ sáng lúc nào tôi không hay. Tôi nhớ lại khoảng thời gian này năm ngoái, khi ấy tôi cũng đang chơi đùa, nhưng đó là lần đầu tiên thử chơi đùa với hợp âm 6 sau khi đã viết được một bài phần lớn là dùng hợp âm 7. Hợp âm 6 là hợp âm bạn tôi không thích lắm vì anh nói hợp âm 6 thực chất chỉ là hợp âm 7 của quãng 3 trên thôi (đơn cử như C6 thực chất là chỉ là thế bấm đảo của Am7) nên dùng hợp âm 6 không có nhiều lợi ích lắm, có thể dùng 7 để thay thế và muốn dùng hợp âm mở rộng thì thử hợp âm 9 đi, nó mới thực sự là thêm nốt mới, thêm màu sắc mới cho bản nhạc, và âm bậc 9 khi thêm vào hợp âm nghe hay lắm. Tôi vẫn nhớ rõ từng lời anh nói như thế. Nhưng tôi chưa bao giờ thử dùng bậc 6 bao giờ nên cũng tò mò, muốn tự mình trải nghiệm, tự mình thử một lần trong đời xem như thế nào. Bậc 6 đến với tôi khi tôi thấy hợp âm của ai đó soạn cho bài La Vie En Rose trên mạng. Những đoạn bậc 6 khi thay thế bằng trưởng thứ bình thường nghe vẫn hợp với giai điệu bài hát, nhưng khi tôi đàn nó thử với bậc 6 thì nghe sướng tê người. Âm điệu lửng lơ của bậc 6 đặt ngay đúng chỗ trong giai điệu bài hát khiến tôi thấy xúc động. Bậc 6 rõ ràng không phải quá tệ nếu biết đặt đúng chỗ. Một trong những lí do tôi thích chính bài Drinking the fading sunlight của mình cũng chỉ đơn giản vì đó là một trải nghiệm vui vẻ, đáng nhớ khi thử thử ép mình phải viết giai điệu sao cho dùng bậc 6 mà nghe hợp. Đêm ấy tôi đã thức trắng đến 5 giờ sáng chỉ đàn bậc 6 và 7. Khoảng thời gian đó, tôi đã sao lãng mất lời dặn của anh về bậc 9. Và giờ thì tôi đã hiểu tại sao anh lại thích bậc 9 như vậy. Giờ thì tôi đã thấy được sự kì diệu của bậc 9, đã biết yêu nó và tôi muốn trong tương lai, một lúc nào đó lại thử viết lên giai điệu phù hợp với bậc 9.

Tôi đã đi chệch quá xa những điều ban đầu mình muốn viết. Tôi muốn viết về album Yes No Maybe của Suzy. Tôi phải nhắc lại điều này lần nữa. Bài tôi thích thứ nhì sau A little flower chính là bài đầu tiên của album: Pretending to be happy. Tôi thích phần hòa âm phối khí của bài này, thích giai điệu và thích cả câu chuyện trong lời bài hát nữa – đó là nỗi buồn mà có lẽ ai cũng từng một lần trải qua. Pretending to be happy không hiểu sao khiến tôi có cảm giác nó giống nhạc jazz, kiểu jazz nhẹ như được pha loãng với pop luôn là thứ đặc sản tôi yêu thích. Sau đó, tôi lại thích Like a heater – bài số năm trong album. Like a heater không hiểu sao khiến tôi nhớ đến những bản nhạc bossa nova thuần chủng dù có lẽ bài này không hẳn là điệu bossa nova (tôi không có đủ kiến thức để phân định) mà chỉ mượn bossa nova cho phần phối khí để tạo không khí. Vì vậy, Like a heater khiến tôi nhớ đến một bản bossa nova mà tôi rất thích trong album nhạc phim Alone in Love: What if we. Tôi đã bỏ cả một album tổng hợp nhạc của Antonio Carlos Jobim vào điện thoại để thẩm thấu vẻ đẹp của bossa nova nhưng đáng tiếc thay, đến nay số lần repeat album ấy trong điện thoại vẫn chưa nhiều lắm, phần lớn tôi vẫn nuông chiều tai mình với pop và thỉnh thoảng là jazz pha pop. Nhưng Like a heater dễ thương lắm, nó là kiểu bossa nova rất dễ nghe, câu chuyện trong lời bài hát cũng dễ thương như chính giai điệu của nó vậy.

Bài thứ 4 tôi thích trong album cũng là bài ở vị trí thứ tư trong album: Les Preferences. Những lần đầu tiên, bài hát này cho tôi cảm giác ngang phè phè, uể oải, buồn chán. Về sau, tôi lại thích chính sự ngang phè phè đó. Nỗi buồn đâu cần phải cố gắng tạo kịch tích để lên cao, xuống thấp, thắt nút mở nút như một phim giải trí. Khi bạn buồn thực sự hoặc khi bạn ở trong nỗi buồn nào đó quá lâu, bạn không còn muốn làm gì kể cả khóc, bạn chỉ đơn giản là vẫn tiếp tục sống ngày qua ngày. Giai điệu bản nhạc này cho tôi cảm giác đó. Nó là nỗi buồn khe khẽ thấm sâu từng ngày, một cơn đột kích tăng vọt đến cao trào là điều quá tàn nhẫn với nó. Phần phối khí của bản nhạc này là khiến tôi nhớ đến những bản nhạc pop quốc tế khoảng tầm thập niên 80, 90 chẳng hạn như là bài Take on me cua a-ha, Maria của Blondie, đây có thể không phải là những ví dụ thích đáng lắm nhưng đột nhiên tôi cũng không nhớ ra được bài nào khác. Phần đánh trống và phối khi của Les Preferences mang âm hưởng cũ xưa khá giống hai bài ấy nhưng chỉ khác là được chơi với tempo chậm hơn, trong giai điệu dường như cũng có lẫn chút âm hưởng blue của các bản jazz chậm.

Tôi lần lượt thích bài It’s all like thatYes No Maybe vào cùng thời điểm nhưng có lẽ sự yêu thích dành cho It’s all like that vẫn nhỉnh hơn một chút vì giai điệu bài này rất bắt tai, dường như là RnB lại có thêm đoạn rap nghe rất đã nữa. Yes No Maybe thì có lẽ để cho phù hợp với concept tribute Vương Gia Vệ nên đúng là nó ra được chút chất điên loạn của khung hình mắt cá, các chuyển động mờ nhòe đứt khúc vì quay thiếu hình trong một frame – những yếu tố thị giác rất đặc trưng trong phim của ông.

Tóm lại là, mini album này có 6 bài và tôi thích hết cả 6. Lâu lắm rồi, tôi chưa nghe một album nào khiến tôi hứng khởi đến mức thôi thúc tôi phải viết lại suy nghĩ như thế này. Khi bạn thích trọn vẹn một album, bạn sẽ có niềm vui là không phải khổ sở chọn bài để nghe, bạn cứ bấm bừa bất kì bài nào trong album nghe cũng được, nghe bao nhiêu bài một lúc cũng được, bạn nghe trọn vẹn từ đầu đến cuối, rồi lại từ đầu đến cuối, cảm nhận không khí riêng của từng bài hòa trong không khí toàn vẹn chung của cả album. Điều đó thật tuyệt vời. Một album tuyệt vời sẽ cho bạn cảm giác đó, giống như xem từng cảnh trong một bộ phim, đọc từng chương trong một cuốn tiểu thuyết, mỗi phần đều có vẻ đẹp của riêng nó và khi hợp lại, nó tạo thành một câu chuyện trọn vẹn. Album này của Suzy cho tôi cảm giác đó. Tôi rất trân trọng nhà sản xuất của công ty JYP đã vô cùng nỗ lực cho ra đời sản phẩm âm nhạc nhiều màu sắc, văn minh như thế này. Nó góp phần thay đổi định kiến của tôi về K-pop và những ca sĩ thần tượng của K-pop. Ban đầu, tôi đã không đặt kì vọng quá nhiều vào chất lượng âm nhạc của album này, chỉ nghe cho vui là chính. Nhưng quả thực, đúng là không nên vội đánh giá, phán xét sự vật qua vẻ ngoài của nó.

Có lẽ, trên thực tế, Yes? No? không phải là album quá xuất sắc với nhiều người nhưng chỉ cần nó xuất sắc với tôi, tôi nghĩ thế là quá đủ cho việc thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật. Tôi không chờ đợi đồng minh hay đánh giá tương tự từ những người khác nữa. Tôi ở trong nó, nó ở trong tôi, chúng tôi bao bọc lẫn nhau. Như thế là một không gian riêng tư toàn vẹn đã được hình thành.

Tôi muốn viết một chút nữa về giọng hát của Suzy. Giọng nàng khi hát thật khác với khi nói. Chất giọng ấy ngọt ngào và nữ tính đến lạ lùng khi cất lên những giai điệu mặc dù khi giao tiếp thông thường, nó khá cứng, mạnh và trầm, đôi lúc gần như một người đàn ông. Tôi không thể lí giải được việc này, có lẽ đó là điều kì diệu của âm nhạc. Cũng giống như cách nó kết nối hai không gian xa cách thành một, liên thông hai tuyến thời gian khác nhau thành một đường thẳng xuyên suốt. Và thế là, tôi đã nấn ná ngồi lại trong văn phòng một chút sau giờ làm việc, nhìn ngày dần tàn qua khung cửa sổ, bật lên những bản nhạc của nàng, để nỗi buồn của nàng và nỗi buồn của tôi hòa làm một. Những nỗi buồn dịu dàng.            

Album Yes? No? trên Spotify:

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Sài Gòn – Hồi sinh từ ký ức, vươn mình đến tương lai

Từ ngày 1/7/2025, cái tên “Sài Gòn” chính thức trở lại trên bản đồ hành chính Việt Nam. Đây không phải là tên thành phố, mà là tên của một phường trung tâm thuộc TPHCM. Một sự thay đổi tưởng chừng kỹ thuật, hành chính, nhưng lại gợi lên những suy tư lớn hơn: về ký ức đô thị, về cách chúng ta gọi tên một vùng đất và về hướng đi của tương lai giữa dòng chảy đổi mới.

Published

on

Từ nay, người dân sẽ phải làm quen với những tên gọi mới, địa giới mới và cả cách quản lý mới. Nhưng giữa tất cả những đổi thay ấy, cái tên “Sài Gòn” không trở lại như một nỗi hoài niệm, mà như một sợi chỉ đỏ âm thầm nối liền ký ức và hiện tại: bền bỉ, lặng lẽ nhưng chưa từng đứt đoạn. Một cái tên chưa bao giờ mất đi trong tâm thức người dân, nay được trả về đúng vị trí của nó: chính danh và được ghi nhận.

Tên cũ hồi sinh, đô thị vươn mình

Không chỉ hiện diện trong ký ức của hàng triệu người dân, Sài Gòn còn là mạch nguồn cảm hứng bất tận cho nhiều thế hệ người viết, người sáng tác. Trong đó, có thể kể đến tác giả Phạm Công Luận - một cây bút gắn bó lâu năm với Phương Nam Book và được xem là người dành trọn tâm huyết để viết về Sài Gòn. Gần như mỗi năm, ông lại cho ra đời một tác phẩm mới, nhưng điều đặc biệt là dù đã viết rất nhiều năm, rất nhiều sách, ông vẫn luôn tìm ra được những góc nhìn mới, tinh tế và giàu cảm xúc về vùng đất này.

Từ Sài Gòn ngoảnh lại trăm năm, Hồi ức Phú Nhuận,đến Có một thời ở Chợ LớnMade in Sài Gòn - hai tác phẩm vừa được phát hành đầu năm nay, những trang viết của ông như một hành trình gom nhặt lại những ký ức xưa cũ về Sài Gòn. Chính những tác phẩm ấy là bằng chứng cho thấy: Sài Gòn không chỉ tồn tại trên bản đồ, mà sống động trong văn hóa, tâm tưởng và cả trong từng chi tiết đời sống hàng ngày của người dân.

Bởi vậy, khi cái tên “Sài Gòn” trở lại trong một vị trí hành chính cụ thể, đó không đơn thuần là sự phục dựng danh xưng, mà là sự thừa nhận giá trị văn hóa, tinh thần mà vùng đất này đã và đang mang trong mình. Nhưng câu chuyện không chỉ dừng ở ký ức hay bản sắc. Việc sáp nhập, thay đổi đơn vị hành chính lần này còn là một phần trong chiến lược cải tổ toàn diện, nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, tinh gọn bộ máy và hướng đến một đô thị hiện đại.

Bởi vậy, mô hình hành chính mới không đơn thuần là tinh gọn bộ máy, mà còn là cơ hội để đẩy mạnh ứng dụng công nghệ, hiện đại hóa quản lý, nâng cao chất lượng dịch vụ công và cuộc sống người dân. Đây là một phần trong chiến lược phát triển bền vững, toàn diện và hội nhập sâu rộng mà Việt Nam đang theo đuổi. Và để chiến lược đó đi vào thực tế, không thể thiếu sự góp sức của mỗi cá nhân - những người đang sống, làm việc, học tập và trực tiếp cảm nhận từng thay đổi nhỏ nhất trong đời sống hàng ngày.

Đổi mới không chỉ đến từ chính sách, mà bắt đầu từ chính chúng ta - những người kiến tạo nên diện mạo mới cho đô thị mỗi ngày.

Thế hệ trẻ giữ vai trò tiên phong trong hành trình đổi mới

Đổi mới không phải là khẩu hiệu treo tường, mà là từng hành động cụ thể mỗi ngày: một sinh viên chọn học thêm kỹ năng mềm; một kỹ sư chủ động cập nhật công nghệ mới; một giáo viên thay đổi cách giảng dạy để học sinh dễ tiếp cận tri thức hơn. Con đường học vấn không chỉ là hành trang cá nhân, mà còn là cách mỗi người góp phần xây dựng quốc gia trong thời đại tri thức. Như lời Tổng Bí thư Tô Lâm đã nói: “Mỗi ngày làm việc là một ngày kiến tạo”. Và với người trẻ hôm nay, sự kiến tạo ấy chính là học tập, là tư duy phản biện, là sự dấn thân vào hành trình đổi mới - không chỉ để thay đổi bản thân, mà còn để thay đổi xã hội.

Những thay đổi ấy đang diễn ra ở khắp nơi: từ miền núi, hải đảo xa xôi đến các đô thị trung tâm hay những vùng sáp nhập mới. Và câu chuyện của Sài Gòn hôm nay - một địa danh cũ trở lại trong hình hài hành chính mới chỉ là một lát cắt trong bức tranh cải tổ rộng lớn mà cả nước đang cùng nhau vẽ nên.

Tên gọi có thể đổi. Địa giới có thể gộp. Nhưng khát vọng vươn lên, ý chí tự cường và tinh thần làm chủ vận mệnh thì vẫn còn nguyên vẹn, thậm chí mạnh mẽ hơn bao giờ hết.

Sài Gòn hôm nay đang bước vào một hành trình mới: hành trình của hiện đại, của tinh gọn, của đổi mới. Nhưng trên hết, đó là hành trình mà trong đó, người dân không chỉ là đối tượng của thay đổi, mà là chủ thể kiến tạo.

Một cái tên trở lại. Và cả một thời đại mới - bắt đầu.

Thùy Dương

Đọc bài viết

Trà chiều

Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam có gì khác các nước đồng văn?

Published

on

Mỗi năm vào ngày mùng 5 tháng 5 âm lịch, Việt Nam và các nước đồng văn như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản lại cùng nhau chào đón một dịp lễ truyền thống mang đậm dấu ấn văn hóa phương Đông: Tết Đoan Ngọ. Dù tên gọi và nghi lễ có phần khác biệt, ngày lễ này đều gắn liền với ý nghĩa thanh lọc cơ thể, xua đuổi bệnh tật và bảo vệ sức khỏe trong thời khắc giao mùa quan trọng của năm. Từ bữa cơm "diệt sâu bọ" của người Việt, tục uống rượu hùng hoàng ở Trung Quốc, đến gội đầu và xông hơi bằng thảo dược ở Hàn Quốc; Tết Đoan Ngọ không chỉ phản ánh đời sống tâm linh mà còn cho thấy sự giao thoa và phát triển đa dạng của các nền văn hóa Á Đông.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Việt Nam

Ở nước ta, Tết Đoan Ngọ được dân gian gọi bằng một cái tên dân dã: Tết diệt sâu bọ vì người ta tin rằng khi ăn món đầu tiên trong ngày này thì sâu bọ, giun sán trong người sẽ bị chết hết. Theo nhà nghiên cứu văn hóa Trần Ngọc Thêm, ngày Tết này của Việt Nam có nguồn gốc chung với các dân tộc Bách Việt sinh sống ở khu vực Nam Trung Hoa và Bắc Đông Dương. Đây là vùng canh tác lúa nước lâu đời, nơi khí hậu mùa hè nóng bức ảnh hưởng xấu đến sức khỏe con người. Tuy nhiên, nhờ vào kinh nghiệm quan sát thời tiết để canh tác, người dân nơi đây đã hình thành nên Tết Đoan Ngọ như một nghi lễ nhằm thích ứng và tận dụng quy luật tự nhiên trong chu kỳ khí hậu hàng năm. 

Đặc biệt hơn, đây còn là ngày mang tính biểu tượng của ngày giỗ Quốc Mẫu Âu Cơ - ngày vô cùng quan trọng trong đời sống văn hóa tâm linh của mỗi người dân Việt. Ca dao ông cha ta có câu: Tháng Năm ngày tết Đoan Dương/ Là ngày giỗ Mẹ Việt Thường Văn Lang.  

Theo truyền thống của dân tộc Việt, người dân ăn tết Đoan Ngọ bằng sự cúng lễ. Tại các làng xã có lễ thần tại đình, đền; ở thôn, xóm có cúng tại miếu còn trong mỗi gia đình, mâm cỗ được dâng lên tổ tiên. Vì đây là thời điểm tiết trời nắng gắt nhất trong năm (Cực Âm – tiết Hạ chí), nên các món ăn thường là đồ nguội, mát mang tính hàn. Những món không thể thiếu trong mâm cỗ cúng Tết Đoan Ngọ ở khắp 3 miền là rượu nếp (cơm rượu) và trái cây. Trái cây được chọn có hình tròn như vải, mận (miền Nam gọi là mận bắc), hạt sen (làm chè). 

Ngoài ra, ẩm thực Tết Đoan Ngọ cũng có nhiều điểm khác nhau ở 3 miền. Miền Bắc thường có bánh gio trên bàn cúng, từ Thanh Hóa vào đến Huế thường nấu xôi ăn với thịt vịt. Người dân từ Đà Nẵng đến Quảng Ngãi thường cho trẻ nhỏ vào vườn hái quả ăn, một số ít gia đình nấu xôi chè cúng lễ. Trong khi đó, người nông dân miền Nam thường đúc bánh lọt, nấu chè trôi nước và xôi gấc cúng tổ tiên rồi cả nhà quây quần cùng nhau ăn. Với tư duy tiếp biến làm mới cách chế biến, trang trí, phong vị các món chay truyền thống cùng mong muốn giao thoa ẩm thực 3 miền, bạn có thể tham khảo công thức món chè trôi nước tam sắc trong cuốn Thanh tịnh mâm cỗ Việt của hai tác giả Hồ Đắc Thiếu Anh Nguyễn Hồ Tiếu Anh.

Nguồn gốc và tục lệ Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc 

Khác với Việt Nam, ý nghĩa ngày tết Đoan Ngọ của người Trung Hoa gắn với tích về ông Khuất Nguyên nước Sở cuối thời chiến quốc. Là một nhà thơ và chính trị gia nước Sở, ông nổi tiếng vì lòng yêu nước và tài văn chương. Sau khi bị vu cáo và thất sủng, ông sống trong đau khổ và sáng tác thiên "Ly Tao" thể hiện nỗi lòng. Những ngày cuối đời, ông bị đày đến Giang Nam, rồi trong tuyệt vọng, đã tự vẫn bằng cách ôm đá nhảy xuống sông Mịch La. Theo truyền thuyết ấy, hàng năm người ta tổ chức ngày mồng 5 tháng 5 là ngày Tết Đoan Ngọ để tưởng nhớ ông. 

Cũng theo tích trên, sau khi Khuất Nguyên trầm mình xuống sông Mịch La, người dân Trung Quốc xưa đã tổ chức chèo thuyền ra cứu ông nhưng không thành. Từ đó, truyền thống đua thuyền rồng vào ngày Tết Đoan Ngọ ra đời để tưởng niệm ông. Ngoài ra, người Trung Quốc còn giữ nhiều phong tục đặc trưng trong dịp lễ này như đeo túi thơm để xua đuổi tà ma, hái thuốc, hái trà và tổ chức lễ hội rước rồng ở một số vùng dân tộc thiểu số như người Mèo.

Hoạt động đua thuyền rồng trong ngày Tết Đoan Ngọ

Về ẩm thực, người Trung Quốc ăn bánh ú (zongzi) với nhiều loại nhân tùy vùng như thịt, đậu xanh, long nhãn, trứng muối hay bột dẻ…và uống rượu hùng hoàng - một loại rượu có pha khoáng chất màu vàng, được tin là có thể xua đuổi sâu bọ và tà khí.

Nguồn gốc và tục lệ ở Hàn Quốc 

Còn tại xứ sở kim chi, ngày Tết Đoan Ngọ được biết đến với tên gọi Dano (단오) hay Surinal (수릿날). Ở đây, “Suri” có nghĩa là “Thần”, là “cao”, tức là vị thần tối cao, ám chỉ mặt trời. Tết Đoan Ngọ báo cho mọi người biết ánh nắng chói chang của mùa hè sắp lan tỏa khắp nơi, cây cối hoa màu cũng sắp tới thời điểm sinh trưởng tốt tươi nhất trong năm. Người ta tổ chức các hoạt động ăn chơi nhằm tượng trưng cho sức mạnh và sự cường tráng, cầu nguyện cho mùa màng bội thu không bị sâu bệnh phá hoại.

Phong tục tập quán truyền thống tiêu biểu nhất của Hàn Quốc trong ngày Tết Đoan Ngọ là đấu vật truyền thống Ssireum. Trước kia, người giành chiến thắng trên sân đấu vật thường được thưởng một con bê. Vào ngày Tết Đoan Ngọ xa xưa, phụ nữ thường kéo nhau ra suối gội đầu bằng nước lá cỏ Thạch Dương Bồ, rồi chơi đánh đu. Đến cả các cô gái đài các giới thượng lưu ngày thường chỉ quanh quẩn trong dinh thự, nhưng tới Tết Đoan Ngọ cũng được cha mẹ cho phép ra ngoài ngắm cảnh.

Bánh Suritteok và Yaktteok là hai loại bánh truyền thống làm từ gạo, các loại hạt và lá cây được người Hàn thưởng thức trong ngày 5/5 này. Nếu như bánh Suritteok chỉ đơn giản là chiếc bánh ngải cứu hình bánh xe thì những chiếc bánh Yaktteok đa dạng hơn khá nhiều. Cũng được làm từ gạo không dính nấu chín nhưng không phải với lá ngải cứu mà với các loại hạt khác nhau và tạo thành những hình dáng phong phú.

Như vậy, không chỉ là dịp đánh dấu bước chuyển quan trọng trong chu kỳ mùa vụ và thời tiết, Tết Đoan ngọ còn là tấm gương phản chiếu bản sắc văn hóa riêng của các quốc gia Á Đông. Dù cùng chung cội nguồn từ nền văn minh nông nghiệp lúa nước và chịu ảnh hưởng của triết lý phương Đông, mỗi dân tộc lại sáng tạo nên những phong tục, nghi lễ mang màu sắc riêng. Việc tiếp nối và gìn giữ các giá trị này không chỉ giúp mỗi dân tộc lưu giữ ký ức văn hóa truyền thống, mà còn góp phần tạo nên sự đa dạng và sâu sắc trong di sản tinh thần chung của khu vực.

Hà Nhi

Đọc bài viết

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Cafe sáng