Trà chiều

Những nỗi buồn dịu dàng

Tôi đã nấn ná ngồi lại trong văn phòng một chút sau giờ làm việc, nhìn ngày dần tàn qua khung cửa sổ, bật lên những bản nhạc của nàng, để nỗi buồn của nàng và nỗi buồn của tôi hòa làm một.

Published

on

cho những ngày âm nhạc là số một

Tôi biết Suzy đã lâu qua những bài viết thỉnh thoảng hay thấy trên Kênh 14. Đương nhiên là tôi chỉ đọc lướt qua tiêu đề chứ hiếm khi click vào đọc bất cứ bài nào viết về nàng. Đơn giản vì tôi chưa xem phim nàng đóng, nghe nhạc nàng hát nên tôi cũng không có hứng thú đọc thông tin về nàng lắm. Tôi cũng không có ý định sẽ thưởng thức bất cứ tác phẩm nào trong quá trình hoạt động nghệ thuật của nàng.

Năm 2016, tôi đắm chìm trong W và rất thích Lee Jong Suk mặc dù ý định xem phim ban đầu là vì Han Hyo Joo. Vậy nên năm ngoái, tôi đã quyết định xem While you were sleeping không chút đắn đo một phần vì tên phim đã khiến tôi ấn tượng với chủ đề nó hướng đến (tôi vốn rất thích Dream của Kim Ki Duk, tôi đã hình dung While you were sleeping cũng có không khí tương tự), và phần nhiều là vì Suk. Tôi không có chút gì mảy may xem phim này vì Suzy. Trên thực tế, cũng không vì bộ phim này mà tôi thích Suzy. Suzy thật xinh – điều này tôi đã thấy qua hình ảnh trước đó. Nhưng khi xem phim, ấn tượng đầu tiên của tôi không phải là vẻ đẹp nàng sở hữu, mà là giọng nói của nàng. Đó không phải là một ấn tượng tốt hay không tốt, đó là một ấn tượng trung tính. Nàng không có giọng nói nhẹ nhàng, thanh thoát như Song Hye Kyo, Son Ye Jin hay như một số nữ diễn viên Hàn mà tôi thích. Đó là lần đầu tiên tôi nghe được một giọng nữ Hàn với âm vực trầm và mạnh như thế. Trái với khuôn mặt nàng, có gì đó rất nam tính, thiên về dấu cộng nhiều hơn dấu trừ trong cách nàng nói, kể cả khi thốt ra những lời yêu thương đường mật nhất. Nhiều lúc tôi còn tưởng tượng không biết nàng có trải qua quá trình “vỡ giọng” của phụ nữ tuổi trưởng thành không. Tôi cũng không thể hình dung được nàng sẽ hát những bản tình ca như thế nào.

Tuy vậy, xem xong While you were sleeping, tôi vẫn thử download mini album Yes No Maybe của nàng về máy. Tôi không nghe ngay lập tức nhưng chép vào điện thoại để lúc nào đó sẽ nghe. Trong suốt hai tháng sau đó, tôi quên béng mất việc album này đã nằm gọn trong điện thoại. Cho đến một ngày, tôi chợt nhớ ra và mở nghe thử. Tôi không nhớ quá nhiều về ấn tượng những lần đầu tiên nghe, nó không để lại trong tôi ấn tượng mạnh mẽ ngay lập tức. Thế nhưng, không hiểu sao tôi vẫn đều đặn mở nó vào mỗi sáng thức dậy trong suốt một tuần. Và sau một tuần, tôi bỗng nhiên thấy nó hay, thấy nó xuất sắc một cách lạ lùng.

Bản nhạc đầu tiên chạm đến trái tim tôi là bài hát nằm cuối album: A little flower. Đây là một bản nhạc pop thông thường, giai điệu nghe thoáng qua có vẻ khá phổ biến với kiểu pop châu Á. Phần intro bản nhạc khiến tôi nhớ đến những bản nhạc pop nằm trong album Wishing for Happiness của Dương Thừa Lâm – đó có lẽ là album nhạc pop của Dương Thừa Lâm mà tôi thích nhất. Những nốt nhạc đầu tiên của A little flower khiến tôi nhớ đến Nỗi phiền muộn của chàng Werther, đến Tự tác tự thụ (My fault), đến Missing you trong album ấy. Và đoạn verse hay chorus lại khiến tôi nhớ đến những bài nhạc Việt như Cỏ mềm của Đỗ Bảo, Quên mất đã từng yêu của Đông Nhi… Đương nhiên, giai điệu những nốt nhạc không giống nhau, nhưng cảm giác của tôi ở đây là chúng cùng chia sẻ một bầu không khí. Tôi sẽ gọi bầu không khí ấy là những nỗi buồn dịu dàng. Đó là những nỗi buồn thật điềm tĩnh, thật trầm lắng, và sự dịu dàng ấy không đồng nghĩa với việc không đau. Như một vết cắt dù có lớn thế nào rồi cũng sẽ đến giai đoạn lên da non. Những bản nhạc này không nói về các vết thương trong giai đoạn còn rướm máu, hay mưng mủ, hay đã lên mài, nó chính xác là giai đoạn đã lên da non, là ngay điểm giao giữa ranh giới ở lại hay bước qua nỗi buồn. Và sự lựa chọn ấy là tùy thuộc riêng vào từng bài hát, từng giai điệu, từng tâm trạng.

Vì quá thích A little flower, tôi đã thử tìm hợp âm của bài này trên mạng và ngạc nhiên khi nó là tổ hợp của những hợp âm bậc 9. Dm9, G9, kính thưa 9 các kiểu. Đoạn mở đầu dịu dàng ấy hóa ra là thành quả của bậc 9 được thêm vào cơ đấy. Sau đó, tôi thử đàn đi đàn lại đoạn đầu với Dm9, G9, tôi nhấm nháp sự dịu dàng, bình yên của nó. Tôi cũng thử đàn lại đoạn mở đầu bằng Dm và thấy dù vẫn hợp nhưng không hay bằng Dm9. Tại sao điều đó lại xảy ra? Và rốt cuộc, tôi đã thức đến ba giờ sáng dù hôm sau còn phải đi làm để đọc qua hướng dẫn sơ lược về bậc 9, để nghịch với nó. Tôi không đọc lí thuyết nhiều, chỉ biết vừa đủ để nghịch, để tận hưởng sự kì diệu bậc 9 (hay bậc 2) mang lại. Lí thuyết nói rằng những nhóm hợp âm mở rộng như 9, 11, 13 được thêm vào dựa trên nốt của giai điệu, đơn giản là vậy thôi. Vây nên, khi muốn sử dụng 9, 11 hay 13 thì bản thân giai điệu cũng phải có những nốt bậc 9, 11, 13. Hợp âm mở rộng 9, 11, 13 chỉ đơn giản là để mang lại nét cá tính riêng cho phần hòa âm của chính bản nhạc, nếu cứ trưởng thứ hoặc thậm chí là cả 7 thì rất chung chung. Nên cẩn thận khi sử dụng hợp âm bậc 11 vì nó chính là nốt bậc 4 ở quãng trên, sử dụng 11 đôi khi dễ có cảm giác đang sử dụng hợp âm sus4 hơn là 11. Trong khi đó, bậc 13 đôi khi không khác mấy bậc 6, mà bậc 6 về cơ bản thì lại là bậc 7 của quãng 3 trên, nếu không tính toán cẩn thận thì nó cũng không có gì khác biệt. Qua chuyện này, tôi lại cảm nhận đôi khi âm nhạc cũng không khác toán học cho lắm, chúng đều có những phép tính đòi hỏi sự cẩn thận để làm tôn lên vẻ đẹp của kết quả (âm nhạc), hoặc để có một kết quả thật chuẩn xác (toán học).

Quay lại với bậc 9, phép tính trên cho thấy, trong nhóm hợp âm mở rộng, rốt cuộc sáng giá nhất hay dễ sử dụng nhất vẫn là bậc 9. Sau khi biết lí thuyết đơn giản như vậy, tôi lao vào thử đàn ngay bậc 9 theo tiến trình ngược để tự học. Theo qui luật tự nhiên, người ta sẽ soạn giai điệu cho tay phải trước rồi tìm hợp âm phù hợp cho tay trái. Nhưng ở đây, vì muốn thử âm tiết của bậc 9, tôi đàn hợp âm 9 bên tay trái trước và từ tay trái tìm ra giai điệu phù hợp cho tay phải. Tiến trình giúp tôi tìm được câu trả lời cho câu hỏi tôi đã thắc mắc bao năm qua. Làm sao để tạo ra âm điệu cho những nỗi buồn dịu dàng ấy? Hóa ra là bậc 9. Một hợp âm cơ bản, rất vui tươi như C khi có thêm nốt bậc 9 là D ở quãng trên thì bỗng nhiên nhuốm chút gì đó buồn ngay, nhưng đương nhiên là không buồn hẳn vì nếu buồn hẳn là đã sang hợp âm thứ trong khi nó vẫn đang là trưởng. Nếu như hợp âm cơ bản gồm bậc 1-3-5 cho ta xác định tâm trạng chung là vui hay buồn, hợp âm bậc 7 là vui buồn không rõ ràng, thì hợp âm bậc 9 là nỗi buồn dịu dàng. Nỗi buồn dịu dàng. Nỗi buồn dịu dàng của tôi. Tôi cứ vừa đàn vừa tấm tắc sung sướng trong đầu mãi: “Thứ mình cần đây rồi. Mình có thứ mới để chơi rồi.” Và cứ thế tôi đàn không biết mệt dù trước đó buồn ngủ lắm rồi, đã nhủ chỉ đàn một chút 10-15 phút thôi nhưng ba tiếng trôi vèo nhanh chóng, từ 12 giờ đêm, khi đồng hồ chỉ 3 giờ sáng lúc nào tôi không hay. Tôi nhớ lại khoảng thời gian này năm ngoái, khi ấy tôi cũng đang chơi đùa, nhưng đó là lần đầu tiên thử chơi đùa với hợp âm 6 sau khi đã viết được một bài phần lớn là dùng hợp âm 7. Hợp âm 6 là hợp âm bạn tôi không thích lắm vì anh nói hợp âm 6 thực chất chỉ là hợp âm 7 của quãng 3 trên thôi (đơn cử như C6 thực chất là chỉ là thế bấm đảo của Am7) nên dùng hợp âm 6 không có nhiều lợi ích lắm, có thể dùng 7 để thay thế và muốn dùng hợp âm mở rộng thì thử hợp âm 9 đi, nó mới thực sự là thêm nốt mới, thêm màu sắc mới cho bản nhạc, và âm bậc 9 khi thêm vào hợp âm nghe hay lắm. Tôi vẫn nhớ rõ từng lời anh nói như thế. Nhưng tôi chưa bao giờ thử dùng bậc 6 bao giờ nên cũng tò mò, muốn tự mình trải nghiệm, tự mình thử một lần trong đời xem như thế nào. Bậc 6 đến với tôi khi tôi thấy hợp âm của ai đó soạn cho bài La Vie En Rose trên mạng. Những đoạn bậc 6 khi thay thế bằng trưởng thứ bình thường nghe vẫn hợp với giai điệu bài hát, nhưng khi tôi đàn nó thử với bậc 6 thì nghe sướng tê người. Âm điệu lửng lơ của bậc 6 đặt ngay đúng chỗ trong giai điệu bài hát khiến tôi thấy xúc động. Bậc 6 rõ ràng không phải quá tệ nếu biết đặt đúng chỗ. Một trong những lí do tôi thích chính bài Drinking the fading sunlight của mình cũng chỉ đơn giản vì đó là một trải nghiệm vui vẻ, đáng nhớ khi thử thử ép mình phải viết giai điệu sao cho dùng bậc 6 mà nghe hợp. Đêm ấy tôi đã thức trắng đến 5 giờ sáng chỉ đàn bậc 6 và 7. Khoảng thời gian đó, tôi đã sao lãng mất lời dặn của anh về bậc 9. Và giờ thì tôi đã hiểu tại sao anh lại thích bậc 9 như vậy. Giờ thì tôi đã thấy được sự kì diệu của bậc 9, đã biết yêu nó và tôi muốn trong tương lai, một lúc nào đó lại thử viết lên giai điệu phù hợp với bậc 9.

Tôi đã đi chệch quá xa những điều ban đầu mình muốn viết. Tôi muốn viết về album Yes No Maybe của Suzy. Tôi phải nhắc lại điều này lần nữa. Bài tôi thích thứ nhì sau A little flower chính là bài đầu tiên của album: Pretending to be happy. Tôi thích phần hòa âm phối khí của bài này, thích giai điệu và thích cả câu chuyện trong lời bài hát nữa – đó là nỗi buồn mà có lẽ ai cũng từng một lần trải qua. Pretending to be happy không hiểu sao khiến tôi có cảm giác nó giống nhạc jazz, kiểu jazz nhẹ như được pha loãng với pop luôn là thứ đặc sản tôi yêu thích. Sau đó, tôi lại thích Like a heater – bài số năm trong album. Like a heater không hiểu sao khiến tôi nhớ đến những bản nhạc bossa nova thuần chủng dù có lẽ bài này không hẳn là điệu bossa nova (tôi không có đủ kiến thức để phân định) mà chỉ mượn bossa nova cho phần phối khí để tạo không khí. Vì vậy, Like a heater khiến tôi nhớ đến một bản bossa nova mà tôi rất thích trong album nhạc phim Alone in Love: What if we. Tôi đã bỏ cả một album tổng hợp nhạc của Antonio Carlos Jobim vào điện thoại để thẩm thấu vẻ đẹp của bossa nova nhưng đáng tiếc thay, đến nay số lần repeat album ấy trong điện thoại vẫn chưa nhiều lắm, phần lớn tôi vẫn nuông chiều tai mình với pop và thỉnh thoảng là jazz pha pop. Nhưng Like a heater dễ thương lắm, nó là kiểu bossa nova rất dễ nghe, câu chuyện trong lời bài hát cũng dễ thương như chính giai điệu của nó vậy.

Bài thứ 4 tôi thích trong album cũng là bài ở vị trí thứ tư trong album: Les Preferences. Những lần đầu tiên, bài hát này cho tôi cảm giác ngang phè phè, uể oải, buồn chán. Về sau, tôi lại thích chính sự ngang phè phè đó. Nỗi buồn đâu cần phải cố gắng tạo kịch tích để lên cao, xuống thấp, thắt nút mở nút như một phim giải trí. Khi bạn buồn thực sự hoặc khi bạn ở trong nỗi buồn nào đó quá lâu, bạn không còn muốn làm gì kể cả khóc, bạn chỉ đơn giản là vẫn tiếp tục sống ngày qua ngày. Giai điệu bản nhạc này cho tôi cảm giác đó. Nó là nỗi buồn khe khẽ thấm sâu từng ngày, một cơn đột kích tăng vọt đến cao trào là điều quá tàn nhẫn với nó. Phần phối khí của bản nhạc này là khiến tôi nhớ đến những bản nhạc pop quốc tế khoảng tầm thập niên 80, 90 chẳng hạn như là bài Take on me cua a-ha, Maria của Blondie, đây có thể không phải là những ví dụ thích đáng lắm nhưng đột nhiên tôi cũng không nhớ ra được bài nào khác. Phần đánh trống và phối khi của Les Preferences mang âm hưởng cũ xưa khá giống hai bài ấy nhưng chỉ khác là được chơi với tempo chậm hơn, trong giai điệu dường như cũng có lẫn chút âm hưởng blue của các bản jazz chậm.

Tôi lần lượt thích bài It’s all like thatYes No Maybe vào cùng thời điểm nhưng có lẽ sự yêu thích dành cho It’s all like that vẫn nhỉnh hơn một chút vì giai điệu bài này rất bắt tai, dường như là RnB lại có thêm đoạn rap nghe rất đã nữa. Yes No Maybe thì có lẽ để cho phù hợp với concept tribute Vương Gia Vệ nên đúng là nó ra được chút chất điên loạn của khung hình mắt cá, các chuyển động mờ nhòe đứt khúc vì quay thiếu hình trong một frame – những yếu tố thị giác rất đặc trưng trong phim của ông.

Tóm lại là, mini album này có 6 bài và tôi thích hết cả 6. Lâu lắm rồi, tôi chưa nghe một album nào khiến tôi hứng khởi đến mức thôi thúc tôi phải viết lại suy nghĩ như thế này. Khi bạn thích trọn vẹn một album, bạn sẽ có niềm vui là không phải khổ sở chọn bài để nghe, bạn cứ bấm bừa bất kì bài nào trong album nghe cũng được, nghe bao nhiêu bài một lúc cũng được, bạn nghe trọn vẹn từ đầu đến cuối, rồi lại từ đầu đến cuối, cảm nhận không khí riêng của từng bài hòa trong không khí toàn vẹn chung của cả album. Điều đó thật tuyệt vời. Một album tuyệt vời sẽ cho bạn cảm giác đó, giống như xem từng cảnh trong một bộ phim, đọc từng chương trong một cuốn tiểu thuyết, mỗi phần đều có vẻ đẹp của riêng nó và khi hợp lại, nó tạo thành một câu chuyện trọn vẹn. Album này của Suzy cho tôi cảm giác đó. Tôi rất trân trọng nhà sản xuất của công ty JYP đã vô cùng nỗ lực cho ra đời sản phẩm âm nhạc nhiều màu sắc, văn minh như thế này. Nó góp phần thay đổi định kiến của tôi về K-pop và những ca sĩ thần tượng của K-pop. Ban đầu, tôi đã không đặt kì vọng quá nhiều vào chất lượng âm nhạc của album này, chỉ nghe cho vui là chính. Nhưng quả thực, đúng là không nên vội đánh giá, phán xét sự vật qua vẻ ngoài của nó.

Có lẽ, trên thực tế, Yes? No? không phải là album quá xuất sắc với nhiều người nhưng chỉ cần nó xuất sắc với tôi, tôi nghĩ thế là quá đủ cho việc thưởng thức một tác phẩm nghệ thuật. Tôi không chờ đợi đồng minh hay đánh giá tương tự từ những người khác nữa. Tôi ở trong nó, nó ở trong tôi, chúng tôi bao bọc lẫn nhau. Như thế là một không gian riêng tư toàn vẹn đã được hình thành.

Tôi muốn viết một chút nữa về giọng hát của Suzy. Giọng nàng khi hát thật khác với khi nói. Chất giọng ấy ngọt ngào và nữ tính đến lạ lùng khi cất lên những giai điệu mặc dù khi giao tiếp thông thường, nó khá cứng, mạnh và trầm, đôi lúc gần như một người đàn ông. Tôi không thể lí giải được việc này, có lẽ đó là điều kì diệu của âm nhạc. Cũng giống như cách nó kết nối hai không gian xa cách thành một, liên thông hai tuyến thời gian khác nhau thành một đường thẳng xuyên suốt. Và thế là, tôi đã nấn ná ngồi lại trong văn phòng một chút sau giờ làm việc, nhìn ngày dần tàn qua khung cửa sổ, bật lên những bản nhạc của nàng, để nỗi buồn của nàng và nỗi buồn của tôi hòa làm một. Những nỗi buồn dịu dàng.            

Album Yes? No? trên Spotify:

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Book trailer

5 tựa sách cho ngày hè nhàn rỗi

Published

on

By

5-tua-sach-cho-ngay-he-nhan-roi

Từ những cuốn sách phơi bày hậu chứng chiến tranh cho đến những cuốn tiểu thuyết ghi lại thân phận nhỏ bé, mong manh, trôi dạt của con người... Các tác phẩm sau là lựa chọn tuyệt vời cho một ngày hè nhàn rỗi, để tìm thêm lại những phong vị mới.

Đuổi theo ánh sáng – Oliver Stone

Là biên kịch và đạo diễn từng 3 lần đoạt giải Oscar với những tác phẩm nổi tiếng như Express Midnight, Scarface, Salvador, Platoon... cũng như những người ngoại đạo, hành trình vươn đến đỉnh cao trong môn nghệ thuật thứ 7 của Oliver Stone luôn không dễ dàng. Đuổi theo ánh sáng là cuốn hồi ký được ông chắp bút, đưa ta đi từ những ngày đầu tiên ở nước Mỹ huyền diệu, đến tuổi trưởng thành nhiều mới mẻ trong chiến tranh Việt Nam và hành trình nếm mật nằm gai để vươn đến hào quang của Hollywood.

Trong cuốn sách này, ta sẽ thấy bên cạnh một cái tên được ngợi ca cũng là một con người bất toàn, mắc nhiều tội lỗi và cũng có lúc tưởng chừng buông xuôi. Thế nhưng chính quyết tâm, nỗ lực và sức mạnh nội tại đã giúp cho ông vẫn luôn duy trì tình yêu với quỹ đạo đời mình. Đó cũng là một bài học xoay quanh thông điệp luôn luôn vươn lên, từ đó tìm thấy ý nghĩa cho cuộc đời mình.

Với cách viết chân thành, gần gũi, đan kết với nhiều hình tượng, cảnh huống được lấy ra từ các thần thoại cũng như tác phẩm văn chương, phim ảnh nổi tiếng... Đuổi theo ánh sáng không chỉ đơn thuần là một cuốn hồi ký, mà cũng đồng thời là một tác phẩm văn xuôi hấp dẫn về một thời đoạn của tuổi trẻ lạc lối và tuổi trưởng thành không ngừng bỏ cuộc. Một tác phẩm vượt ra khỏi biên giới thể loại để mang đến câu chuyện phổ quát và thông điệp ý nghĩa cho những cá nhân vẫn đang chật vật trên con đường sự nghiệp của bản thân mình.

Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm – Le Thi Diem Thuy

Thuộc thế hệ thứ 2 của những cây bút “di dân”, Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm tuy có dung lượng tương đối khiêm tốn, nhưng nội dung mà nó truyền tải lại vô cùng lớn về mặt cảm xúc cũng như ấn tượng đến từ người đọc. Đó là hành trình tìm lại cội nguồn, xác định bản lai diện mục của một cá nhân với lai lịch “dị thường” qua thứ văn chương đẹp đẽ, thơ mộng với nhiều hình ảnh ám ảnh nối nhau cho đến vô cùng. Le Thi Diem Thuy sở hữu ma thuật của từ ngữ, để nhào nặn nó thành những ấn tượng không thể nào phai.

Cõi người và thân phận ấy cũng mong manh như con bướm suốt đời lưu cữu trong thứ thủy tinh trong suốt và nhìn thấu được. Kiếp người di dân cũng mãi tạc ghi vào mã gene mình ám ảnh về nước, dẫu là cái hồ trong khu dân cư hay thứ nước biển mặn chát của những con thuyền lênh đênh trên biển... thì cũng hình thành ở họ nỗi sợ nguyên thủy về số phận mình và thân phận mình giữa dòng chìm nổi. Le Thi Diem Thuy nắm bắt được chúng một cách tinh tế, và dàn trải ra giữa các trang viết một cách chân thành mà không lên gân.

Về mặt văn chương, Le Thi Diem Thuy cùng Ocean Vuong là 2 nhà văn đại diện cho khả năng nắm bắt được từng khoảnh khắc và cấp đông nó cho đến vĩnh cửu. Gã du đãng chúng ta đang lùng kiếm hay Một thoáng ta rực rỡ ở nhân gian là các tác phẩm có nhiều tầng nghĩa, làm xúc động cả những ký ức cá nhân hay nỗi đau cộng đồng. Và sức ám ảnh ấy sẽ lại khởi đầu mỗi khi những dòng chữ đầu tiên hiện ra và người đọc bị cuốn theo dòng nước ấy.

Những kẻ tuyệt vọng – Minh Tran Huy

Văn chương di dân khắc ghi trong lòng người đọc rất nhiều ấn tượng xoay quanh chủ nghĩa hiện thực, thế nhưng với Minh Tran Huy, cô đã làm điều đó một cách văn chương và vị nghệ thuật đến không ngờ đến. Ở Những kẻ tuyệt vọng ta sẽ không tìm thấy những gia đình tan nát của các thuyền nhân, ta cũng không thấy những chật vật hòa nhập với cuộc sống mới một cách hiển hình... mà thay vào đó là sự giao hòa của những tâm thức với các câu chuyện mang tính đại diện khác lạ.

Cuốn sách kể về chuyện tình vô cùng tươi đẹp của Lise và chàng Louis đầy những khát khao nhưng hành trình đến được với nhau cũng đã trải qua không ít khó khăn cũng như thách thức. Từ Việt Nam đến những lâu đài nước Pháp, từ những công viên bên bờ sông vắng lặng đến tàn tích lâu đài của thời Trung cổ... Cuốn sách xé toạc những đường biên không – thời gian để mang đến một tác phẩm lạ lẫm, thách thức, không ngừng chờ được giải đáp.

Điều ta tìm thấy trong tiểu thuyết này là sự giao thoa của Đông với Tây, của quá khứ với hiện đại, của Á và Âu trong sự tương đồng và phát triển thêm từ Trọng Thủy – Mỵ Châu đến Tristan - Iseult, hay bộ tứ Tấm Cám – Lọ Lem – Bạch Tuyết – Công chúa ngủ trong rừng.... Mang đậm màu sắc của Angela Carter trong không khí Gothic được phối trộn với trọng tâm di dân, đây là cuốn tiểu thuyết được đẩy đến đường biên của những thể nghiệm, đòi hỏi một sự truy tầm giá trị sâu xa hơn việc thưởng thức. Có thể nói Minh Tran Huy đã viết nên một tác phẩm ấn tượng, độc đáo và không thể quên.

Khát khao cây cỏ - Michael Pollan

Từ trước đến nay, trong các tác phẩm nghiên cứu, con người luôn chứng minh mình là chủ nhân của mọi thứ, là đối tượng tác động, là tác nhân chủ chốt... Nhưng với Khát khao cây cỏ, Michael Pollan đã thực hiện điều ngược lại, khi đặt ra một câu hỏi vô cùng thách thức, rằng thực vật nghĩ gì về ta, liệu con người có thật là phía nắm chuôi, quyết định mọi thứ cho giống loài vốn được ngầm hiểu là không có trí thông minh hay nhạy bén này?

Câu hỏi nói trên đã được giải đáp qua 4 phần lớn xoay quanh loài táo, tulip, cần sa và khoai tây, gắn với khát khao vị ngọt, vẻ đẹp, niềm hứng thú và sự an toàn. Từ các rừng táo ở nước Mỹ đến các thùng container trồng cần sa nhân tạo ở Amsterdam, từ ngày hiện tại trong công nghệ biến đổi gen ở khoai tây cho đến nhiều thế kỷ trước khi cơn sốt tulip vẫn còn là thứ gì đó cực kỳ bùng nổ... Pollan từng bước dẫn ta vào mạng lưới gắn kết đặc biệt, để biết con người xét cho đến cùng chỉ là một cực của các mối quan hệ, trong tính chủ động cũng như bị động.

Những câu chuyện về Johnny Hạt Táo, đặc tính có kế hoạch theo trường phái Apollo hay hoang dã của Dionysus... đã đưa người đọc không chỉ lướt qua lịch sử mà các loài cây gắn liền, mà cũng đồng thời là một biên niên sử về các khao khát và niềm đắm say của nhân loại này. Có thể xem đây là một tác phẩm rực rỡ, bao quát và choáng ngợp về mối gắn kết giữa con người cùng tự nhiên.

Con đường thủy vào Trung Hoa - Milton Osborne

Những ngày gần đây câu chuyện xoay quanh sông Mekong bỗng nóng trở lại trong việc xây dựng kênh đào Phù Nam và những được – mất sau đó. Chính điều này cũng đưa ta về lại với quá khứ của hơn 100 năm trước, khi những người Pháp tiên phong đã cố gắng tìm con đường thủy cho việc giao thương nối liền từ điểm tận cùng đổ ra biển Đông trên đất An Nam với thượng nguồn từ dãy Himalaya ở nơi đầu mút Trung Quốc.

Con sông hùng vĩ phần nào dự báo tầm vóc của cuộc thám hiểm, và quả đúng như thế, những gì được Milton Osborne kể lại có thể được xem như một bằng chứng lịch sử, nhưng cũng có thể quan niệm đó là một cuốn tiểu thuyết phiêu lưu nói gót những Thuyền trưởng Corcoran hay tác phẩm của Conrad danh tiếng... Những khó khăn, thách thức; sự thịnh vượng, trù phú nhưng cũng nguy hiểm chết người của miền nhiệt đới... cho ta thấy rằng con đường khai sáng của nơi mẫu quốc chưa khi nào là dễ, chưa cần bàn đến niềm tin, ý dân hay là những thứ thuộc về tư tưởng.

Bằng việc khai thác nguồn sử liệu phong phú và cách kể chuyện cuốn hút, Con đường thủy vào Trung Hoa là một tác phẩm đáng đọc, nên đọc, để biết về những khó khăn của con đường khai sáng văn minh, cũng như sự huyền diệu của miền nhiệt đới từ trăm năm trước hay trăm năm sau vẫn mãi như vậy.

Đọc bài viết

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng