Trà chiều

Nàng là phúc lành tôi được ân hưởng để có thể lần nữa lại viết

Tác phẩm mới của anh sẽ thắng giải Akutagawa, sẽ thành best-seller, anh sẽ nhận được nhiều tiền tác quyền. Từ giờ đến lúc đó, hãy để em lo chi phí sinh hoạt của chúng mình.

Published

on

Tôi nhớ em.

Tôi muốn bắt đầu giản dị như thế. Vì chính nỗi nhớ ngập tràn ấy thôi thúc tôi viết đôi dòng cho em sau gần hai năm hầu như không viết gì.

Tôi yêu cách em yêu. Yêu cách em thật mạnh mẽ, dứt khoát tiến đến bên người ấy dù chân trần có phải vấy bẩn bụi cát nóng bỏng hoang mạc. “Em vẫn sẽ bước đi.”

“Dù có thể em sẽ gây nhiều phiền hà cho anh, em hứa sẽ cố gắng sống hết mình. Hãy giúp em nhé.”

Trong bốn năm cuối đời ấy, em đã sống như thế nào? Ở vùng quê đó, ngày ngày nhìn ống khói kiêu hãnh vươn lên trời cao, chiều chiều ra biển ngắm hoàng hôn; và thỉnh thoảng, một người đàn ông lạ mặt có nốt ruồi đen thật to dưới cánh mũi phải sẽ đến thăm em. Là ai nhỉ? Em không thể nào nhớ tên người này. Dường như anh ta đã đến thăm em vào hôm qua hoặc hôm kia, tuần trước hoặc tháng trước. Như cát trôi qua kẽ tay, rơi xuống bãi biển rồi hòa vào bọt trắng xóa hoặc bẹp dí dưới gót chân người, em không thể nhớ chút kí ức nào về người ấy. Chỉ có cảm giác thân quen khó hiểu. Tựa như một đứa trẻ khi mới chào đời có thể dễ dàng phát âm “a” chẳng phải vì tiện lợi về mặt sinh học, hay vì “a” là âm tiết đầu tiên trong bảng chữ cái; mà vì nó đã đem kí ức về chữ “a” từ thế giới trước sang thế giới này. Em – một người phụ nữ bắt đầu đi ngược chiều tiến trình sinh học ở độ tuổi ba mươi để trở về là một đứa trẻ nguyên sơ chưa biết gì về thế giới, có lẽ em đã cảm nhận như thế khi đối diện người đàn ông ấy chăng?

Và rồi cái chết của em được nhắc đến chỉ bằng một lời thoại đơn giản giống như nàng Gelsomina trong La Strada. Không có những hình ảnh sau cùng về những ngày cuối đời em. Nhưng nỗi buồn vẫn thấm sâu trong tôi khi nhớ đến những giọt nước mắt của em – khoảnh khắc em thốt ra tên người đàn ông không phải xa lạ ấy, khi cuối cùng kí ức đã chịu quay về với em trong giây phút nhỏ nhoi: “Shinji!”

“Quả nhiên, em biết là Shinji có tài mà. Anh viết hay quá.”

Vẫn là em.

Ngay cả lúc đã ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, đã quên đi cách thực hiện những sinh hoạt hằng ngày đơn giản nhất, thậm chí quên đi chính bản thân mình là ai, trong thời khắc ngắn ngủi kịp nhớ ra ấy, em vẫn không quên động viên người đàn ông em luôn yêu thương từ lần đầu gặp gỡ. Người cùng thích loại nước uống giống em. Người đã bắt trọn chiếc hộp bé xíu ấy trong cú ném tạo thành vòng cung hoàn hảo của em. Người luôn tự ti trước em nhưng em vẫn không ngừng khen ngợi, khích lệ người ấy. Người là tác giả của cuốn tiểu thuyết em yêu thích nhất – “Angelica chân trần vấy cát”. Tôi thật sự ghen tị với Mamiya Shinji khi người phụ nữ anh yêu thương nhất trên đời cũng là độc giả hâm mộ trung thành nhất của anh.

Như ống khói đứng thẳng vươn cao giữa trời, kiêu hãnh và bộc trực, Angelica nghĩ rằng mình đã yêu người đàn ông ấy mất rồi.

“Nếu cứ nhớ mấy dòng đó, cô sẽ bị não phẳng đấy.”

“Dù như thế thật thì cũng đáng mà. Với người bình thường như tôi thì sự kích thích từ những chuyện ái tình phóng đãng kiểu này rất quan trọng.”

Và em cùng người đàn ông viết những dòng ấy đã có một mối tình khắc cốt ghi tâm, buồn bã nhưng ấm áp. Về sau, anh ấy sẽ viết rằng: “Cuộc sống thật kì lạ, ngay cả trong những ngày thậm tệ, thỉnh thoảng ta vẫn có thể thấy được viễn cảnh tươi đẹp nhất. Đó là điều tôi đã hiểu ra.”

Vào những ngày đầu mới quen nhau, lúc em vừa mắc bệnh, có lần anh ấy đã trách em gọi nhầm tên vị hôn phu cũ khi em ôm anh và nói lời yêu thương. Anh bảo rằng điều đó chứng tỏ trong tiềm thức của em, vào những lúc em sợ hãi nhất, người em cần không phải là anh mà là vị cựu hôn phu kiêm bác sĩ đương nhiệm chữa trị căn bệnh của em. Anh muốn chia tay vì nghĩ rằng sẽ tốt hơn khi em ở cạnh người đàn ông kia, rằng tình cảm em dành cho anh thực chất chỉ là sự thúc đẩy nhất thời do căn bệnh mang lại. Nhưng em nhanh chóng nhận ra sự thật không phải như thế. Với đôi mắt buồn nhưng dứt khoát, cái cúi đầu xin lỗi thật sâu nhưng cương nghị, em đường hoàng nói với người cũ rằng: “Tôi vô cùng biết ơn những việc bác sĩ đã làm cho tôi. Thực sự, thực sự rất cảm kích. Nhưng người tôi yêu là Mamiya Shinji. Sự tồn tại của anh ấy tiếp thêm sức mạnh cho tôi sống hơn bất kì ai khác. Tôi xin lỗi.”

Em luôn thẳng thắn, rõ ràng như thế. Ngay sau đêm đầu tiên ái ân với Shinji trong lúc đã đính hôn cùng Yuuichi, vào buổi sáng khi vừa tỉnh dậy, em quyết định sẽ hủy hôn ước.

“Em sẽ hủy hôn ước. Em không hủy để đòi anh cưới em đâu. Chỉ là em đã quyết định vậy thôi.”

“Khoan đã. Anh nghĩ là em nên… suy nghĩ lại.”

“Em không có thời gian suy tính đâu. Em phải thông báo với anh ấy, rồi bố mẹ anh ấy vì có nhiều thứ cần phải hủy lắm.”

“Nhưng mà… em đừng làm vậy. À, chẳng hạn, chúng ta có thể tiếp tục thế này đến tận trước ngày cưới của em mà?”

“Em đã quyết định bước xuống tàu tốc hành và đi bộ trên sa mạc. Dù ngày mai chuyện với anh chẳng đi đến đâu, em cũng sẽ không quay đầu lại. Đưa em chìa khóa đi.”

Ban đầu, tôi cũng ngỡ ngàng trước tình yêu mãnh liệt em dành cho Shinji; vì sao một bác sĩ thông minh, thành đạt, xinh đẹp, dịu dàng như em lại yêu người đàn ông dường như chẳng có gì ngoài khiếu hài hước này, vì sao em quá tha thiết với tình yêu ấy đến nỗi một người như em lại phải chủ động trước một người quá bị động như anh… Câu trả lời đã có sẵn ngay từ đầu: vốn dĩ, tình yêu thực sự không nằm ở lí trí, không phải là phạm trù để đặt câu hỏi về nguyên nhân và kết quả.

“Em không biết những điều mình làm đúng hay sai, không biết liệu một ngày nào đó em có tìm được đáp án không. Chẳng ai biết cả. Nhưng em bị bản năng thúc đẩy phải đi ngược lại mọi khuôn khổ lí trí.”

Em yêu bằng bản năng nhưng lại biết suy nghĩ thực tế cho người mình yêu.

“Tác phẩm mới của anh sẽ thắng giải Akutagawa, sẽ thành best-seller, anh sẽ nhận được nhiều tiền tác quyền. Từ giờ đến lúc đó, hãy để em lo chi phí sinh hoạt của chúng mình.”

Em chân thành như thế, tha thiết như thế. Dù chuyện gọi nhầm tên anh chỉ vì căn bệnh ác nghiệt ấy, chẳng phải lỗi do em, nhưng em đã tự trách mình rất nhiều. Khoảng thời gian chín tháng xa nhau, có lẽ em đã lẩm nhẩm tên anh rất nhiều lần.

Tiểu thuyết em thích đọc nhất là “Angelica chân trần vấy cát” do anh viết.

Họ của mẹ em khi chưa lấy chồng là Mishima.

Tên ngôi đền nơi anh bị bỏ rơi lúc nhỏ là Matsushiro.

“Tiểu thuyết yêu thích nhất. Họ thời con gái của mẹ. Tên ngôi đền anh bị bỏ rơi. Hãy chia tay khi em không trả lời được ba câu hỏi đó anh nhé.”

Em đã tự nhủ với mình: “Nếu một ngày nào đó, mày không trả lời được ba câu hỏi này nữa, mày nên chết đi.”

Rồi em gặp lại anh, kết hôn với anh, và khi bệnh tình đột ngột trở nặng, trước lúc ngất đi, em đã thốt lên tên anh: “Shinji.”

“Shinji.”

“Shinji.”

“Có phải là anh không, Shinji?”

Vậy là nỗi niềm băn khoăn ngày xưa của cả anh và tôi đều đã được giải tỏa. Ngay trước lúc bất tỉnh và cả khi đã mất ý thức, em vẫn chỉ gọi thầm mỗi tên anh. Phân cảnh ấy khiến tôi ấm áp. Chỉ bằng việc quan sát tình yêu vĩ đại đó – tuy không phải dành cho mình nhưng tôi cũng có cảm giác chính mình được yêu. Đó có lẽ là lí do vì sao đến tận bây giờ tôi vẫn thích xem phim tình yêu như thế. Để gợi nhắc tôi rằng tình yêu chân thành có thể vẫn đang hiện hữu đâu đó. Em rất hoàn hảo, mọi điều về em đều tốt đẹp, nhưng không hiểu sao sự hoàn hảo không tì vết đó chẳng hề khiến tôi mảy may cảm thấy em không thực. Ngược lại, với tôi, em rất thực. Tôi luôn cảm giác có thể em đang tồn tại đâu đó. Chỉ là một người như em vốn không dành cho tôi. Nếu em thực sự có mặt trên cuộc đời này, em xứng đáng với những điều tốt đẹp hơn. Không biết bao lần, Shinji cũng tự nhủ như thế.

“Suốt hai mươi năm tôi chẳng có động lực để viết bất kì ý tưởng hay thậm chí một chữ nào. Thế rồi một người phụ nữ đã khiến tôi có động lực ấy thêm lần nữa. Nhưng người cần ở bên cạnh người phụ nữ không thể thay thế ấy vốn dĩ không phải là tôi.”

“Nàng là phúc lành tôi được ân hưởng để có thể lần nữa lại viết. Chẳng cần nghi ngờ gì, nàng chính là một thiên thần.”

Và thiên thần ấy không chỉ cho anh tình yêu hay trở thành nàng thơ của anh, nàng còn là người vợ hiền lúc nào cũng ưu tiên quyền lợi vì anh, lúc nào cũng nghĩ cách hỗ trợ anh sáng tác. Khi hai vợ chồng mới kết hôn, dọn vào căn hộ khang trang hơn phòng trọ trước đây của anh nhưng lại chỉ có hai gian phòng, nàng đã bảo đồng nghiệp anh nơi công ty cũ đến phụ dọn nhà rằng hãy để giường ngủ trong phòng khách kiêm nhà bếp thay vì để sang hẳn một phòng riêng.

“Mình có nên để bàn ở đây thay vì giường không? Em biết đấy, anh viết ở đâu cũng được mà.”

“Không cần anh. Như vậy được rồi. Em muốn anh có một chỗ đàng hoàng để viết, để anh có thể tạo ra những tác phẩm thật hay.”

Thế là, cảnh tượng trong căn phòng ấy có đôi chút kì lạ, khi bạn vừa mở cửa bước vào tổ ấm của họ, bạn sẽ thấy cùng lúc không gian chung để tiếp khách với dãy bếp và bàn ghế ở tay trái, trong khi bên tay phải lại là không gian riêng với chiếc giường ấm cúng nơi hai người ân ái mỗi đêm. Nhưng với Nao, điều đó không kì lạ, hay ngại ngùng, hay bất tiện; nàng có một không gian riêng tư hơn cần bảo vệ, vốn dĩ được thiết lập không phải cho nàng: không gian để chồng nàng đắm chìm vào thế giới riêng trong trang viết. Vào những đêm anh thức khuya viết lách, nàng mở cửa thật khẽ đủ để nhìn anh đang chăm chú gõ chữ trên máy tính; khi ấy, nàng sẽ mỉm cười thật tươi, khuôn mặt rạng rỡ vẻ tự hào, thì thầm không thành tiếng mà chỉ mấp máy môi rằng: “Cố lên anh nhé.” Rồi nàng lặng lẽ đóng cửa phòng, ra giường ngủ nằm nhắm mắt đợi anh. Nhưng nàng không ngủ hẳn. Khi anh viết xong, khi anh nằm xuống giường cạnh nàng, nàng sẽ vờ như vô thức mà dịu dàng quay sang ôm anh, mũi nàng khẽ chạm vào gò má anh cảm nhận mùi cơ thể quen thuộc. Đến khi ấy, nàng mới mỉm cười đi vào giấc ngủ.

Trên tất cả, nàng đã cho anh một mái ấm gia đình đúng nghĩa khi quyết định sẽ sinh con, sẽ để lại cho anh món quà cuối cùng sau khi nàng qua đời.

“Cứ nắm tay thế này mãi anh có mỏi không?”

“Em muốn buông tay à?”

“Không! Em thích như thế này.”

“Dù sao, ban nãy mình cũng đã buông tay ở quán ăn rồi.”

“Em tự hỏi mình có thể nhớ được khoảnh khắc này đến khi nào?”

“Em sẽ quên thôi, dù gì cũng chẳng phải dịp đặc biệt.”

“À, em đã quyết định sẽ có con với anh. Em từng nghĩ rằng nếu sức khỏe tốt hơn, em mới mong mỏi điều ấy. Nhưng bây giờ, khi biết rằng tình hình chẳng thể tiến triển tốt, ngược lại, em càng muốn có con với anh hơn.”

“Thật ư?”

“Vì con chúng mình sẽ là điều duy nhất mình có chung, đúng không anh?”

“Ừm, tất nhiên rồi.”

“Từ lúc em chào đời, rồi dần dần trở thành bác sĩ, phục vụ vì lợi ích của mọi người, gặp được anh, có cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời em, và bây giờ em muốn tạo một ghi chú để đánh dấu tình yêu của chúng mình.”

“Một ghi chú?”

“Em biết đứa trẻ không thể là một ghi chú, nhưng… nhưng em muốn con chúng mình sống trên đời này. Anh có thể giúp em được không? Dù chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi với con, cả ba chúng ta có thể sống bình yên bên nhau. Em nghĩ lí do đó đáng để mình cố gắng.”

Kitazawa Nao.

Tên của nàng Nao (尚) trong tiếng Nhật, có một nghĩa là “vẫn còn” (still). Điều này khiến tôi nhớ đến tiêu đề một tác phẩm cũng về người phụ nữ mắc bệnh Alzheimer “Still Alice”. Nao cũng vậy. Nàng vẫn là Nao kể cả khi đã mất đi hết kí ức. Một Nao kiên cường nhưng dịu dàng, điềm tĩnh và dứt khoát, lúc nào trong nàng cũng ngập tràn tình yêu thương và trách nhiệm.

Vào một ngày bình thường nào đó, thiên thần ấy đã lặng lẽ từ biệt cõi đời này.

Như ống khói đứng thẳng vươn cao giữa trời, kiêu hãnh và bộc trực, Angelica nghĩ rằng mình đã yêu người đàn ông ấy mất rồi.

Tôi cũng đã yêu em mất rồi.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Thế giới viễn tưởng độc đáo trong bốn bộ phim mang đậm tính thể nghiệm

Published

on

Thế giới của phim khoa học viễn tưởng không phải lúc nào cũng chỉ có AI, robot, hay du hành không gian mà còn vô vàn những điều đặc biệt khác có thể bạn chưa biết.

Năm 2023 vừa qua đã ghi nhận sự phát triển ngày càng mạnh mẽ của AI. Điều đó khiến cho dòng phim khoa học viễn tưởng nhận được nhiều sự quan tâm trở lại. Nhắc đến dòng phim này, người ta vẫn thường đóng khung nó với vài yếu tố tiêu biểu thường gặp như: AI, robot, du hành vũ trụ, thế giới song song… Tuy nhiên, có rất nhiều tác phẩm sci-fi kinh điển đã chứng minh điều ngược lại.

Hãy cùng Bookish khám phá những bộ phim sci-fi không thuần túy là sci-fi vì ở đó, người xem được tận hưởng bữa tiệc điện ảnh đỉnh cao với những hương vị hòa quyện mĩ mãn từ nhiều thể loại khác nhau.

Back to The Future (1985)

Sci-fi x Road Trip Comedies

Cùng với The Terminator, Back To The Future ra đời năm 1985 đã trở thành biểu tượng kinh điển của dòng phim sci-fi lấy chủ đề du hành thời gian. Đó cũng là một trong những nguyên nhân mà bộ phim này được nhắc đến nhiều lần trong Avengers: Endgame lúc cả nhóm quyết định quay về quá khứ.

Tuy nhiên, không giống như The Terminator, Back To The Future mang màu sắc vui nhộn, hài hước của lứa tuổi học trò. Cậu học sinh tuổi teen Marty McFly ở thập niên 80 vô tình bị kéo về quá khứ trên chiếc xe cỗ máy thời gian của nhà khoa học Emmett Brown. Cậu quay trở về thập niên 50 – lúc này bố mẹ cậu cũng ở lứa tuổi học trò như cậu. Để có thể quay về hiện tại năm 80, cậu phải tìm cách hàn gắn mối quan hệ của bố mẹ, nếu không bản thân cậu cũng sẽ không tồn tại ở năm 80. Từ đó, câu chuyện nảy sinh nhiều tình huống dở khóc dở cuối. Nếu như The Terminator là sự phối trộn hoàn hảo giữa thể loại sci-fi và hành động thì Back To The Future lại là màn kết hợp ăn ý giữa thể loại sci-fi và hài hành trình. Bộ phim tốn kinh phí thực hiện là 19 triệu USD nhưng lại có doanh thu phòng vé lên đến 388 triệu USD. Chính vì thành công này mà đạo diễn Robert Zemeckis đã thực hiện hai phần tiếp theo cũng vui nhộn không kém.

Snowpiercer (2013)

Sci-fi x Dystopia

Bong Joon Ho không chỉ tạo ra những bộ phim sâu sắc về đề tài xã hội mà ông còn có khả năng làm phim khoa học viễn tưởng rất chặt chẽ, thuyết phục. Điều này thể hiện rõ nhất qua Snowpiercer. Phim dựa trên tiểu thuyết Pháp Le Transperceneige lấy đề tài hậu tận thế. Trong tương lai, sau một thí nghiệm thất bại, khí hậu toàn cầu biến đổi dẫn đến gần như toàn bộ sinh vật đều bị diệt vong, ngoại trừ một số người may mắn có mặt trên con tàu Snowpiercer chạy vòng quanh Trái đất với động cơ vĩnh cửu. Tại đây, một xã hội thu nhỏ mới lại được hình thành. Dưới bàn tay tài hoa của Bong Joon Ho, Snowpiercer cũng không đơn giản là tác phẩm sci-fi thuần túy mà ông còn lồng ghép vào nhiều thể loại khác nhau: có những phân đoạn hành động mãn nhãn, đồng thời cũng có những phân đoạn dí dỏm, và cách đặt vấn đề về giai tầng xã hội vẫn mang phong cách rất đặc trưng của Bong. 

Eternal Sunshine Of The Spotless Mind (2004)

Sci-fi x Romance

Sẽ như thế nào nếu kết hợp thể loại sci-fi với phim tình cảm? Khi đó, chúng ta sẽ có kiệt tác Eternal Sunshine Of The Spotless Mind của bộ đôi đạo diễn Michel Gondry và biên kịch Charlie Kaufman. Bộ phim sử dụng đề tài “can thiệp kí ức” để khám phá bản năng con người khi tình yêu tan vỡ. Sẽ ra sao nếu khi chia tay một ai đó, bạn có thể xóa toàn bộ những kí ức vui buồn liên quan đến họ ra khỏi tâm trí? Sau khi Joel biết được Clementine – người yêu cũ của anh đã xóa kí ức tình yêu, anh quyết định bản thân mình cũng sẽ thực hiện việc này. Nhưng khi anh khám phá được điều gì đã khiến họ gắn kết rồi lại chia xa, anh nhận ra mình vẫn còn tình cảm dành cho cô. Nếu như công nghệ trong phim là thứ hư cấu thì cảm xúc giữa hai nhân vật trong Eternal Sunshine hoàn toàn chân thực, lay động trái tim người xem, khiến ai cũng phải thổn thức.

Under The Skin (2013)

Sci-fi x Experimental film

Cuối cùng, không thể không nhắc đến bộ phim sci-fi mang tính thể nghiệm, tiên phong đáng nhớ: Under The Skin. Có rất nhiều phim lấy đề tài sinh vật ngoài hành tinh xâm nhập Trái đất, nhưng có lẽ chưa bộ phim nào kể câu chuyện thật đặc biệt nhưng lại với nhịp điệu từ tốn như Under The Skin. Scarlett Johansson trong vai sinh vật ngoài hành tinh vô danh chỉ làm đúng một công việc là đi lang thang trên một chiếc xe tải, lựa chọn những người đàn ông cô đơn làm con mồi. Bộ phim rất kiệm lời thoại, khiến người xem rợn người không chỉ bởi những hình ảnh thị giác lạ mắt mà còn bởi thứ âm nhạc cũng đầy tính thể nghiệm độc đáo của Mica Levi. Tuy nhiên, nếu chỉ tập trung vào thể nghiệm mà bỏ qua nội dung, Under The Skin đã không gây được tiếng vang lớn như thế trong cộng đồng điện ảnh. Sau tất cả, bộ phim của đạo diễn Jonathan Glazer lại khiến người xem trăn trở nhiều về thân phận làm người.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

The Terminator & Blade Runner: Hai tượng đài điện ảnh độc đáo của thập niên 80

Published

on

Cùng ra mắt vào thập niên 80, The Terminator (1984) và Blade Runner (1982) đều là hai kiệt tác điện ảnh độc đáo, góp phần rất lớn trong việc tạo ra diện mạo mới cho thể loại sci-fi.

Bài viết này sẽ dẫn dắt bạn khám phá những vấn đề khác nhau được đặt ra trong hai phim: từ những dòng suy tư về mối liên hệ nhân quả giữa hành động và thời gian trong The Terminator đến không gian đô thị đậm chất noir và những truy vấn về bản chất con người trong Blade Runner.

The Terminator (1984)

The Terminator là bước đột phá ngoạn mục trong sự nghiệp điện ảnh của đạo diễn James Cameron. Vào thời điểm ra mắt, bộ phim gây ấn tượng bởi việc pha trộn nhiều đặc tính giữa các thể loại khác nhau, mang đến màu sắc mới cho dòng phim sci-fi.

The Terminator kể câu chuyện về một người máy sát thủ ra đời năm 2029, được trao nhiệm vụ quay về năm 1984 để giết người phụ nữ trẻ tên là Sarah Connor. Sarah hoàn toàn không biết rằng cuộc đời cô có ảnh hưởng đáng kể đến số phận nhân loại và cô có thể chết bất cứ lúc nào dưới sự truy sát của cỗ máy bất khả chiến bại được gọi là Kẻ Hủy Diệt. Kyle Reese cũng đến từ tương lai nhưng nhiệm vụ của anh là bảo vệ Sarah – người mẹ của thủ lĩnh tương lai.

Với cốt truyện như thế, The Terminator vừa có những pha hành động mãn nhãn, vừa có nhiều tầng suy tư phức tạp về dòng chảy của thời gian, về phương thức thay đổi một sự kiện trong quá khứ có thể dẫn đến tương lai khác biệt hoàn toàn – đây vốn là chủ đề hiếm gặp trong phim hành động ở giai đoạn đó. Ngoài ra, những bản nhạc nền tạo không khí căng thẳng của nhạc sĩ Brad Fiedel cũng góp phần lớn vào thành công của phim.

Tất cả những nhân tố đó đã khiến phim trở thành một mảnh ghép quan trọng của văn hóa đại chúng đến tận ngày nay. Câu nói “I'll be back” của nhân vật Kẻ Hủy Diệt trong phim được sử dụng phổ biến, trở thành slogan thương hiện cho chính Arnold Schwarzenegger.

Từ năm 1984 đến nay, The Terminator đã sản xuất 6 phần phim: The Terminator (1984), Terminator 2: Judgment Day (1991), Terminator 3: Rise of the Machines (2003), Terminator Salvation (2009), Terminator Genisys (2015), Terminator: Dark Fate (2019). Tất cả những phần phim này đều đạt được doanh thu khủng, riêng phần đầu tiên The Terminator đã trụ vững ở vị trí số 1 trên bảng xếp hạng phòng vé ở Mỹ trong suốt hai tuần. Năm 2008, The Terminator đã được Thư viện Quốc hội Hoa Kỳ đưa vào Viện lưu trữ phim quốc gia để bảo tồn với lí do là bộ phim “nổi bật ở phương diện văn hóa, lịch sử, và mĩ học”.                          

Blade Runner (1982)

Không may mắn như The Terminator, Blade Runner của đạo diễn Ridley Scott là một tuyệt tác có số phận khá hẩm hiu khi vừa ra đời. Tuy nhiên, qua nhiều thập kỉ với những bản dựng khác nhau, tác phẩm này đã trở thành một tượng đài lớn của thể loại sci-fi.

Dựa trên tiểu thuyết gốc Do Androids Dream Of Electric Sheep? của nhà văn Philip K. Dick, Blade Runner vẽ nên viễn cảnh ảm đạm của thế giới vào năm 2019. Khi đó, thế giới tràn ngập những replicant – người máy có hình dạng giống con người, được tạo ra với vòng đời ngắn ngủi để làm những công việc nguy hiểm phục vụ cho con người. Một nhóm replicant bất mãn trước việc này đã làm một cuộc phản loạn, quay trở về Trái Đất và giết con người. Rick Deckard, một cảnh sát đã nghỉ hưu ở Los Angeles nhận nhiệm vụ phải truy lùng và tận diệt toàn bộ nhóm replicant nổi loạn này.

Blade Runner là sự pha trộn giữa sci-fi, trinh thám và phim noir – thể loại phim hình sự tội phạm mang đậm phong cách Hollywood, thường thể hiện thái độ hoài nghi, mỉa mai. Thông qua hành trình của Rick Deckard, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi triết học về tính người, thế nào là một con người.

Nhưng không chỉ sâu sắc về nội dung, Blade Runner còn là bữa tiệc chiêu đãi về thị giác qua cách bộ phim thể hiện không gian đô thị tương lai với những màn hình quảng cáo lớn, đèn neon luôn lấp lánh và đường phố lúc nào cũng nhộn nhịp. Cảm hứng thị giác của phim kết hợp từ những bức tranh cổ điển của danh họa Edward Hopper và các khu phố với những tòa nhà chọc trời ở Hong Kong. Sự kết hợp này đã tạo nên không gian thị giác ấn tượng của phim khi con người bị nhấn chìm trong công nghệ. Mĩ thuật của phim tạo ảnh hưởng lớn đến cách xây dựng không gian cho những phim sci-fi hay hành động của Hollywood ra đời sau đó như: The Matrix (1999), bộ ba Dark Knight (2005 – 2012) của đạo diễn Christopher Nolan, Ghost in the Shell (2017)…

Ngày nay, Blade Runner đã có một chỗ đứng không thể thay thế trong dòng phim sci-fi với nhiều ảnh hưởng mang tính định hình về mĩ thuật, tư duy về cách kể chuyện và nhân vật. Blade Runner 2049 – phần tiếp theo của phim ra đời vào năm 2017, đúng 35 năm kể từ phần đầu tiên đã không làm người hâm mộ thất vọng với điểm số trên Rotten Tomatoes lên đến 88%.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Trà chiều

Hai tác phẩm định hình dấu ấn cá nhân của đạo diễn James Cameron và Christopher Nolan

Published

on

Đạo diễn James Cameron và đạo diễn Christopher Nolan đều là những cá nhân kiệt xuất trong ngành điện ảnh với nhiều bộ phim kinh điển vừa đạt được doanh thu khủng, vừa có giá trị nghệ thuật cao.

Tuy nhiên, khi nhắc đến hai vị đạo diễn tài danh này, có hai tác phẩm đặc biệt mà người hâm mộ điện ảnh không thể nào bỏ lỡ.Hãy cùng Bookish khám phá những dấu ấn đặc trưng cá nhân của đạo diễn James Cameron trong Avatar và của đạo diễn Christopher Nolan trong Inception.  

Avatar (2009)

Năm 2009, bộ phim sci-fi Avatar của đạo diễn James Cameron ra đời đã tạo nên bước ngoặt lớn cho sự phát triển công nghệ điện ảnh. Lần đầu tiên, cả thế giới được xem một bộ phim 3D. Kĩ thuật thị giác đột phá đã khiến trải nghiệm của phim cực kì sống động.

Vào năm 2154, nguồn tài nguyên Trái đất trở nên cạn kiệt dưới sự khai thác của con người dẫn đến khủng hoảng năng lượng. Lúc bấy giờ, tập đoàn RDA đang khai thác unobtanium – một loại khoáng sản có giá trị tại Pandora, một hành tinh tươi tốt mang sự sống giống Trái Đất nhưng lại có bầu khí quyển độc hại cho con người. Pandora là nơi sinh sống của người Na'vi da xanh, có hình dáng và trí óc giống con người. Để tìm hiểu về người Navi và sinh quyển ở Pandora, các nhà khoa học sử dụng cơ thể người lai Na’vi gọi là các Avatar, được hoạt động thông qua liên kết thần kinh với những người có kiểu gen phù hợp. Jake Sully là một cựu lính thủy quân được giao nhiệm vụ trà trộn vào hành tinh Pandora. Quá trình thực hiện nhiệm vụ đã khiến anh bị giằng xé giữa việc tuân theo mệnh lệnh hay bảo vệ xứ sở mà anh đã trót xem là quê nhà.

Đạo diễn James Cameron đã mất đến 15 năm để thực hiện Avatar từ lúc bộ phimcòn là ý tưởng năm 1994 cho đến khi ra đời năm 2009. Sở dĩ bộ phim mất nhiều thời gian như vậy là do Cameron không chỉ trau chuốt về mặt nghệ thuật mà còn cả kĩ thuật: từ công đoạn làm việc với chuyên gia ngôn ngữ để tạo ra tiếng Na’vi với hơn 1000 từ, cho đến việc tạo ra kĩ thuật 3D. Sự kì công này khiến Avatar chiều lòng được cả khán giả đại chúng lẫn giới hàn lâm. Avatar luônđứng đầu danh sách phim ăn khách nhất mọi thời đại với doanh thu lên đến 2,7 tỉ USD, và chỉ bị Avengers: Endgame vượt mặt vào năm 2019 sau suốt 10 năm thống trị bảng vàng.            

Avatar 3 dự kiến sẽ ra mắt vào năm 2025, tiếp tục hứa hẹn mang đến những thành tích khủng trong tương lai. 

James Cameron

Inception (2010)

Hầu như những bộ phim của đạo diễn Christopher Nolan đều có các yếu tố như: du hành thời gian, tìm hiểu bản chất thế giới… khiến người xem vừa rối não lẫn rối lòng. Và Inception chính là một tác phẩm hội tụ đủ các yếu tố làm nên thương hiệu Nolan, trở thành một tượng đài khó quên trong lòng người hâm mộ.

Inception là một trải nghiệm điện ảnh đáng nhớ khi Nolan cố gắng hình tượng hóa kiến trúc tư duy của con người, biến tiềm thức trở thành không gian vật lí cho các hoạt động đánh cắp được diễn ra. Bộ phim kể về một tên trộm có khả năng đi vào giấc mơ của người khác. Dom Cobb không trộm gì cả, anh chỉ trộm ý niệm. Bằng việc thâm nhập vào tiềm thức của đối tượng, anh có thể lấy thông tin mà đến cả những tay hacker sừng sỏ nhất cũng không thể làm được. Trong thế giới điệp viên, Cobb là vũ khí tối thượng. Nhưng kể cả vũ khí cũng có nhược điểm, khi Cobb gần như mất tất cả mọi thứ, anh được giao một nhiệm vụ cuối cùng để chuộc lỗi. Lần này, Cobb không gặt lấy ý niệm, anh gieo nó. Liệu anh và đồng đội có thành công?

Christopher Nolan

Inception có một kịch bản hoàn hảo, từng thế giới giấc mơ xuất hiện trong phim vừa chính xác, tinh tế, đôi khi lại hài hước. Thời gian là chủ đề yêu thích của Nolan và ông luôn tìm được cách thể nghiệm thú vị, có thể thấy rõ điều này qua cả phim InterstellarDunkirk. Nhưng trong Inception, thời gian không chỉ là chủ đề mà còn là công cụ kể chuyện khi tái hiện lại hoàn hảo nỗi ám ảnh của kẻ cắp giấc mơ. Từ đó, bộ phim đặt ra nhiều câu hỏi hóc búa: liệu rằng ta có đang sống trong thời gian thực, khi nào thì một giấc mơ trở thành thực tế, khi nào thì thực tế hóa ra lại chỉ là một giấc mơ, ta đang thức hay còn mơ?

Thông qua Inception, Nolan lồng ghép rất nhiều khái niệm về sự logic giấc mơ, đảo ngược các nguyên tắc vật lí, cho thấy những thực tại có thể vỡ vụn ra sao… Tất cả hòa quyện vào nhau, tạo thành một tác phẩm sci-fi tâm lí đỉnh cao mà có lẽ nhiều thập kỉ sau, vẫn còn khiến người ta trầm trồ.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng