Phía sau trang sách

Những đại lộ vành đai: Trường ca quên lãng của Patrick Modiano

Nếu bạn may mắn được sống ở Paris trong tuổi thanh xuân, thì cho dù có đi đâu trong suốt đường đời còn lại, Paris vẫn ở trong bạn, bởi Paris là một cuộc hội hè miên man. – Ernest Hemingway

Published

on

Đây không phải là cuốn sách đầu tiên trong năm tôi đọc của Patrick Modiano. Như Murakami từng nói, nếu ta đọc những gì người khác cũng đọc – hẳn nhiên ta chỉ có thể tư duy như những người ấy; thế nên khi một tên tuổi lớn như Modiano liên tục được dịch và xuất bản mới, tôi không mấy mặn mà. Lần cầm Quảng trường ngôi sao để đọc hẳn nhiên như một sự tình cờ, và cũng hẳn nhiên, tôi không thể đọc hết. Hơn phân nửa cuốn sách dìm tôi vào làn sương của những rời rạc, của những gì không gắn kết vào nhau, và thế là bỏ cuộc. Đến khi cầm lên Những đại lộ vành đai, đó lại là một sự trùng hợp khác. Với cuốn sách này, những gì là Modiano nhất vẫn hiển hiện vượt lên, về sự rời rạc, cái thiếu gắn kết và quan trọng nhất là sự quên lãng – những cụm từ vẫn thường được nhắc đến mỗi khi ám chỉ phong cách Modiano, và một mặt nào đó, ít nhiều tôi cũng thấm nhuần qua trải nghiệm này.

Những đại lộ vành đai kể về hành trình tìm lại căn cước người cha của Serge sau 10 năm cách biệt bởi những bi kịch không thể nói ngáng đường mối quan hệ giữa họ. Nhịp sống diễn ra trong những chiều tối ở ngôi làng vùng Seine-et-Marne ven rừng Fontainebleau đung đưa đậm chất Pháp; trong khi ngoài kia, chính trị cũng đang biến động, và phong trào bài trừ Do Thái đang đến đỉnh điểm. Trong những nhập nhoạng hơi người và mùi ký ức, Serge lắp ghép những mảnh đời gắn liền với cha mình, để từ đó một bản thể yếm thế hiện ra, trong vỏ bọc của quên lãng, của mất kết nối, và còn gì khác ngoài những rình rập chực chờ nhảy xổ vào trong người đọc?


Lưu ý: Nội dung dưới đây tiết lộ nhiều tình tiết quan trọng của tác phẩm Những đại lộ vành đai.

CÁC NHÂN VẬT

Sự lãng quên có lẽ là mùi vị được nhận thức rõ ràng nhất khi đọc văn chương của Modiano. Trong cuốn tiểu thuyết này, mùi hương ấy len lỏi ám khói vào trong từng con người, cảnh vật và cách bài trí. Sống động nhất trong những chi tiết kể trên là hội các nhân vật mà Serge cố gắng tiếp xúc để tìm kiếm những dẻ xương sườn còn lại của cha mình. Nhóm người ấy là tập hợp những kẻ bị tước mất vị thế, những kẻ nhan nhản sống nhung nhúc ngoài lề xã hội. Tất cả chỉ là giả tạm với những vỏ bọc họ tự dựng ra. Modiano vẫn như thường lệ, không đưa ra một manh mối chắc chắn nào. Ông phủ người đọc bằng lớp lụa của cái hư vô, của sự không chắc chắn; để từ đó thế chênh vênh của các nhân vật bộc lộ, dần dần chuyển hóa thành cái bấp bênh trong mỗi người đọc.  

Murraille, Marcheret, Maud Gallas, Sylviane Quimphe,… tất cả những người trong hội quán ấy tập hợp như bức tranh thu nhỏ của xã hội Paris phù hoa. Murraille – nhân chứng lão luyện của trò tống tiền và quỹ đen, toát ra đủ mùi nguy hiểm. Marcheret – cựu lính lê dương, một kẻ bỏ đi không hơn không kém. Sylviane – người đàn bà ăn bám, sống dựa như ký sinh trùng trong khi Maud Gallas ở đó như kẻ thoát y mua vui trong những quán rượu quầy bar. Nổi bật lên trên là lão mập, một Nam tước Chaval Deyckecaire nào đó, với sự vô cảm đặc trưng Ottoman, phủ phục, kính sợ và run rẩy trước mọi diễn biến. Ông bối rối, bạc nhược và sẽ là nhân vật đáng quên nhất nếu không trở thành mắt xích quan trọng trong câu chuyện của Serge.

Nếu trong Nàng tóc đỏ, Orhan Pamuk dựng lên thế giằng co của những bản ngã cha con giết chết lẫn nhau đậm tính sử thi và sự trơ trơ của Thổ Nhĩ Kỳ; thì ở đây, với Những đại lộ vành đai, câu chuyện ấy lại một lần nữa xuất hiện trở lại, và được gọi dưới tên, như Serge vẫn thường bảo “trường đoạn đau đớn ở trạm tàu điện ngầm George – V”. Cái kết bi thảm ấy diễn ra trong ngày những cảm xúc bối rối gạt chân lẫn nhau để ông một khắc nào đó đẩy cậu con trai vừa đỗ cậu tú vào dưới những bánh xe của gầm tàu hỏa. Động cơ của cú đẩy ấy đến nay vẫn chưa xác định. Liệu đó là sự ganh đua với học vấn của đứa con ông luôn tự hào, trong khi bản thân bất lực với bản cải tạo tuyến đường sắt La Petite Ceinture; hay liệu ông thấy một sao chép DNA thất bại nào đó ở người con trai, mà ở đó ông gợi cho cậu cách giả bút tự của các nhà văn để bán giá cao hơn như Melissa McCarthy một lần nào đó hóa thân trong Can you ever forgive me? Hay một lý giải khác, là cách xỏa bỏ hình ảnh yếm thế, bất lực khi bị hành hung ở chợ tem, ở nhà Pessac và sự thất bát trong lần chơi cổ phiếu từ những công ty phá sản hoặc dẹp tiệm từ lâu?

Không ai biết rõ, ngay cả Serge, và cũng chẳng phải chuyến hành trình của cậu cũng chính là chuyến đi tìm câu trả lời ấy? Nhưng rốt cuộc, sau hằng hà những khó khăn, sau việc viết truyện khiêu dâm, làm đĩ đực, làm bạn tâm tình của một kẻ nghiện rượu và một chuyên gia tống tiền […], lặn ngụp trong bầu không khí xói mòn tinh thần và sức khỏe, đồng hành với những kẻ vô lại, ngày qua ngày để mắt đến bố không ngơi nghỉ; thì kết quả cuối cùng cậu có được không gì hơn chính hình ảnh rất đáng lãng quên ấy, việc bố cậu cùng hội cùng thuyền với đám du thủ du thực ở quầy bar và phớt lờ một cách triệt để đứa con duy nhất của mình.

Modiano tiếp tục phủ một màn sương lãng quên khác lên lời giải đáp ấy, và người đọc thêm một lần nữa chìm sâu vào thứ thuốc mê ông chiết xuất ra. Nhưng ở đó, dẫu biết những huân chương tước vị là giả tạm, vẫn biết sự nhận ra đứa con là giả vờ, vẫn biết mọi chuyện mai này sẽ theo một hướng rất khác; nhưng cậu trai 17 tuổi vào đêm 17 tháng 6 gần như bị tước đi cuộc sống bởi cha mình ấy, vẫn hiên ngang đứng ra bảo vệ người đàn ông ấy. Đến cuối khi ông bị lừa mất hết tất cả, cậu có hai con đường – một, trốn thoát bình yên và hai, chịu cảnh tù tội cùng ông; thì cậu vẫn luôn ở đó, chọn đồng hành ngồi im cúi đầu để có những đụng chạm xác thịt dù là nhỏ nhất mỗi khi xe cảnh sát xóc nảy, bởi những trải nghiệm này là không thể có lại; hay việc giết chết Lestandi khi y có những lời xúc phạm đến ông… Tất cả cho thấy một tình cảm nào đó vượt lên tất cả, tha thứ cho nhau, nhìn nhận lẫn nhau, để rồi mọi thứ lại quay trở lại từ đầu, vì người ta luôn tò mò được biết cội nguồn của mình […] Con sẽ theo bố đến cùng.

NHỮNG CẢNH TRÍ

Không nói quá khi Modiano có biệt tài rằng khi ông chạm vào bất cứ thứ gì, nó đều trở về hư không bám một chút dư vị tan hoang. Ngoài những nhân vật từ lâu rơi vào quên lãng, thì mọi cảnh vật, bầu không khí Paris, bối cảnh chính trị hay thôn xóm đìu hiu ấy đều chứa trong mình một nỗi gì đó dường như thuộc về thời quá vãng.

Bằng giọng kể đậm màu thời gian dời ngược về quá khứ cùng những phong hóa thời đại, nước Pháp của những ngày ấy hiện lên tiêu điều với những cơ ngơi bị bỏ hoang, thời mà nhà Guyot đến Thụy Sỹ tị nạn chính trị, để lại ngôi nhà đậm màu Hồi giáo với vải bọc đồ nội thất lạnh tanh và bầu không khí ủ ê trong nhà nhưng vẫn phải mặc áo choàng; hay lữ quám Le Clos-Foucré được sang tay từ nhà Beausire, nơi tụ tập đàng điếm của nhóm người bị xã hội ghẻ lạnh với ánh đèn chùm ngột ngạt, với sức nóng hun đốt tựa vùng Bắc Phi. Như một thường lệ, họ đến đây những ngày cuối tuần, giống như các gia đình tư sản thời buổi thanh bình trước đó. Cứ tối thứ sáu, họ lại từ Paris kéo về. Tất cả hiện lên một khung cảnh của Paris hoa lệ cùng giới tư sản giàu sang, như lần ngược về câu dẫn trong Hội hè miên man của Hemingway hay những cảnh phim đầy chất cổ điển của Woody Allen trong Midnight in Paris.

Nhưng nhóm người ấy ít nhiều cũng mang một sự tiêu điều hòa vào cảnh vật. Bầu không khí và cảnh quan ấy khiến ngôi làng bên rừng Fontainebleau ấy như bị dâng cho một băng cướp, mà dạo đầu dân làng thường mở cửa sổ. Sau đó, họ quen dần với tiếng ồn ào của đám người mới tới kia. Tất cả làm nên những mảnh ghép bị quên lãng từ lâu trong dòng chảy thời gian, những ngắc ngớ thời đại rình rập từng từng cử chỉ lời nói, của báo chí độc lập, của thông tin ngồi lê đôi mách, của trò làm giàu bẩn, của phong trào bài Do Thái, của hôn nhân tự do, của những bữa ăn nơi hàng hiên, phả khói thuốc và ngắm nhìn sự hoàn hảo của những vòng khói, của đĩ điếm, của sáng tối, của đêm ngày… Modiano một cách vời vợi khắc họa những thời khắc này như những nhiễu âm của chiếc tivi không thu được sóng, giữa những đen trắng lãng quên, giữa những lên xuống cuộc đời gắn liền với vòng xoay lịch sử.

Đó còn là những tối 10 năm về trước của mốc tiểu thuyết này, những tối hai cha con Serge phóng lên chiếc xe cũ kỹ để đến những địa điểm Paris tan hoang được bốc thăm sẵn. Là khu chợ Ai Cập, công viên Montsouris, quán bar Pastroudis, những khu phố kỳ bí… Tất cả những nơi chốn ấy làm nên quỹ tích những điều lạ lẫm vận hành xung quanh hạt nhân Paris trung tâm, mà người canh giữ là trí nhớ những ai một thời quá vãng, như bà Petit-Mirioux trong vai người lính gác già đáng thương đứng trong bóng tối nhà sách chờ đợi ai đó vẫn còn đam mê Pierre Hamp ghé qua. Tất cả buồn thương một nỗi rất riêng. Một sự lãng quên mà hẳn nhiên sẽ không bao giờ có thể quên đối với người đọc.

KẾT

Với Những đại lộ vành đai, Modiano bằng ngòi bút nhạy cảm mà tinh tế khoét sâu vào cái quên lãng vốn có cố hữu trong văn chương ông làm nên một tiểu thuyết tuy ngắn nhưng rất khó quên đối với độc giả. Trong đó tình thân giữa hai nhân vật chính được đặt trên nền móng điêu tàn của cảnh trí nước Pháp như những chập choạng trong buổi chiều tối. Bức tranh tổng thể trong tiểu thuyết này được Modiano vẽ bằng những nét mảnh, đầy nhưng sắc nét. Ông dùng những khoảng ombre chuyển tiếp cần thiết, giữa nhớ và quên, hiện đại và quá khứ, mất mát và còn lại; để cho thấy vốn dĩ bản chất sự quên lãng vẫn luôn tồn tại, ăn sâu và gặm nhấm vào những khoảng ký ức vốn từ lâu con người vẫn quên lật giở. Một vùng mù sương của những lãng quên, một khoảng không rất Modiano để trôi đến vô cực. Đọc cái lãng quên để không còn có thể quên cái lãng quên ấy.

Hết.

Ngô Thuận Phát

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng