Phía sau trang sách

Người lớn, trẻ con và Hoàng tử bé

Published

on

Khi còn bé, chúng ta suy nghĩ mọi thứ khác so với chúng ta phiên bản trưởng thành đến nỗi đánh mất đi nhiều thói quen hay ho. Là trẻ con, chúng ta nhìn qua lăng kính trong veo không gợn chút bụi trần, và hầu như không phải đắn đo giữa được và mất. Đến một thời khắc nào đó, con người khi đã đủ trưởng thành lại bùi ngùi nhớ lại bản thân mình ngày xưa với biết bao tiếc nuối… Đọc Hoàng tử bé, độc giả không tránh khỏi những suy nghĩ ấy: giờ đây, những thứ mộc mạc, giản dị của ngày bé chẳng thể trở về giản dị, mộc mạc nữa rồi, vì cuộc sống khắc nghiệt của người lớn phức tạp hơn nhiều.

Tuổi thơ và những điều con trẻ

Nhân vật xưng “tôi” ngày nhỏ thích vẽ. Trong một lần nhìn thấy bức tranh con trăn nuốt chửng cả một chú voi khổng lồ, bạn nhỏ ấy đã họa lại theo cách của mình, nhưng có vẻ không được tán dương lắm. Con trăn no căng bụng bị nhìn nhầm thành chiếc mũ, nên cậu vẽ cho hở bụng và không quên họa con voi to tướng vào chỗ hở của bụng trăn. Khi ấy, “người lớn” thi nhau bảo cậu hãy bỏ giấc mộng vẽ vời đi. Chẳng ai hiểu cậu vẽ gì cả.

Cậu bỏ thật…

Nhưng bức tranh ấy có ý nghĩa gì nhỉ? Tôi nghĩ mãi, và tạm chấp nhận với câu trả lời: con trăn chính là cuộc sống của “người lớn”. Nó nuốt chửng cả đứa trẻ thơ dại còn sót lại trong mỗi chúng ta. Đáng buồn là, chẳng ai thèm đoái hoài hay lo lắng về quá trình khó lòng cưỡng lại ấy. Chúng ta dường như đang quay mặt lại với chính mình ngày xưa: giản đơn, hiền lành và đầy mơ mộng.

Người kể chuyện là một người đàn ông cô đơn. Mỗi lần người khác cười ông vẽ “chiếc mũ” vớ vẩn, ông lại từ chối đứa trẻ sống trong tim mình bằng cách sống “người lớn” hơn: trí tuệ, hiểu biết và sõi đời.

Ông vẫn là một tâm hồn cô độc, quanh quẩn với chính mình, vòng quanh thế giới bao la nhưng mãi đến khi gặp Hoàng tử bé từ hành tinh B612 thì ông mới phần nào nguôi ngoai. Hai tâm hồn cô đơn, gặp nhau và tạo thành một mối dây liên kết vô hình. Của một đứa trẻ với một người già. Của một cư dân Trái Đất với kẻ sống ở nơi chỉ toàn núi lửa và lác đác vài bông hoa…

Người lớn đánh giá một vật xấu hay đẹp, đánh giá một người có đáng được lắng nghe hay không, cũng chỉ sòng phẳng qua những phương tiện vật chất. Trong thế giới mà tiền bạc là tất cả, chẳng ai để ý đến bông hoa nhỏ bé có thể bị con cừu ranh mãnh ăn mất bất cứ lúc nào.

Hoàng tử bé và chuyến phiêu lưu nhỏ

Lúc trò chuyện với chú phi công, Hoàng tử bé có vẻ rất lo lắng cho bông hoa hồng của mình. Cô quạnh trên hành tinh quê nhà, bông hoa lắm lời và kiêu kì có thể được xem như người bạn duy nhất của cậu. Đoạn miêu tả bông hồng sao mà giống lời miêu tả chị em phụ nữ của cánh mày râu quá: kiêu hãnh, không chịu công nhận tình cảm, lại còn vô cùng điệu nữa. Hoàng tử yêu bông hoa ấy, và bông hoa đó cũng yêu hoàng tử. Đó là lý do bông hoa cố tỏ ra vẻ mình yếu đuối: muốn được cậu che chở và chăm sóc.

Lồng ghép vào đó là câu chuyện về cây bao báp ăn nát cả hành tinh. Phải chăng, tác giả ngụ ý rằng, chuyện gì hôm nay làm được thì chớ để ngày mai, không thôi bao báp ăn mất đất, đến không còn chỗ mà sống. Triết lý giản đơn ấy, ngày nhỏ chắc hẳn rằng đã được mẹ và cô bảo ban hàng chục, hàng trăm lần, nhưng không hiểu sao khi đọc truyện, tôi mới thấy nó rõ ràng và đáng suy ngẫm đến thế.

44 lần ngắm mặt trời lặn. Vì buồn quá nên thích ngắm mặt trời lặn. Chẳng phải, vì cô đơn, lạc lõng quá nên buồn sao? Vì vậy, chú phi công kết luận: “Cái ngày 44 lần ngắm ấy, hẳn là cậu phải buồn lắm?” Cậu im lặng không đáp. Một đứa trẻ mà buồn thì sẽ như thế nào nhỉ?

Hoàng tử bắt đầu chán chường với bông hoa “nói nhiều”. Cậu muốn thoát khỏi hành tinh nhỏ bé của mình, thoát khỏi “vùng an toàn” và chu du khắp những vì sao. Nhưng sau đó, rõ ràng cậu lại hối hận vì đã đánh giá bông hồng qua cái sự “nói nhiều” ấy. Cậu nhận thấy mình có tình cảm sâu đậm với bông hoa. Cuộc phiêu lưu của cậu ra khỏi “vùng an toàn” chính là một cuộc dạo chơi của tâm hồn thơ bé đến với thế giới hiện thực tàn khốc của người lớn. Ở đó, có biết bao loại người khác nhau, nhưng dù là ai thì cậu cũng cảm thấy “người lớn thật là khó hiểu”, “kỳ lạ” và “buồn cười”.

Đó là một ông vua trị vì vương quốc không có lấy một thần dân. Ông trị vì trong cô đơn và mòn mỏi, với những triết lí cũng khá là hợp lí: “Cần phải yêu cầu người ta làm cái điều gì người ta có thể thực hiện được…” Tuy nhiên, vì quá cứng nhắc nên ông ta có vẻ bị động và bất lực, khi cậu quả quyết rời khỏi hành tinh. Một ông vua mà không có thần dân, thì còn gì là vua nữa?

Đó là một ông hợm hĩnh, coi cả thế giới là “cộng đồng người hâm mộ” của mình, và mình là cái rốn của vũ trụ. Loại người như thế này thì công nhận, ngoài đời nhiều thật. Bạn cứ thử làm việc nhóm nhưng chọn nhóm một cách ngẫu nhiên xem. Thế nào bạn cũng phải chán ngán như khi Hoàng tử bé chán ngán trò chơi vỗ tay… Cái tôi quá lớn xua đuổi người khác đi mất chứ chẳng thể giữ nổi chân ai cả.

Đó là một ông nát rượu. Vì quá bất lực với cuộc đời, quá hèn nhát mà ông chỉ trốn vào men rượu. Tại sao? Vì ông nghiện rượu. Đó là một vòng luẩn quẩn không lối thoát, nhất là khi bạn chỉ biết than thân trách phận mà chẳng buồn hành động chút xíu nào để làm cuộc đời bạn tốt hơn.

Đó là nhà buôn nghiện tính. Tính mãi, tính mãi, luôn miệng nói mình bận lắm, mình toàn làm những việc cao cả, những thứ nghiêm túc thôi. Nhưng để làm gì nhỉ? Tính tổng số sao mình sở hữu. Hoàng tử bé đã chỉ ra một điều mà ít ai để ý: rằng nhà buôn ấy, tính toán bận rộn thế thì chẳng ích lợi gì cả, rằng ông ta cũng không làm gì được cho các ngôi sao cả. Cuộc sống thực tại cũng vậy. Có rất nhiều người bận vùi đầu vào những thứ vô bổ, tưởng chừng nghiêm túc nhưng chả hề có ích; lại có người mải mê kiếm tiền mà quên hưởng thụ, quên mục đích cuộc sống của mình là gì, dẫn đến đời sống tinh thần nghèo nàn, thui chột; cũng có người có nhiều lắm, nhưng không cho đi, không giúp đỡ người khác, nên cuộc sống vô cùng tẻ nhạt.

Lại có ông nhà địa lý mọt sách, suốt ngày rúc vào sách vở chứ chẳng đi thực tế hay khám phá gì cả. Riêng có người đốt đèn chăm chỉ, cần mẫn là đáng để Hoàng tử bé kết thân. Có cảm giác, tác giả đang miêu tả bản thân như người đốt đèn đó: làm một việc khiêm nhường nhưng có ích cho đời. Đó là người duy nhất ngoài vũ trụ mà cậu muốn kết thân.

Vậy bạn trẻ à, bạn là cư dân của hành tinh nào mà tôi đã đề cập nhỉ?

Mong rằng bạn không cần phải phật lòng với tôi vì đã khiến bạn chột dạ.

Vậy còn Trái Đất thì sao?

Con rắn, cái giếng, con cáo và hoa hồng

Cách nói ví von đầy ẩn ý như thế, khiến những con người đã-từng-là-trẻ-con không khỏi trăn trở: rắn, cáo, hoa hồng nhưng đâu phải là rắn, cáo, hoa hồng thôi; giếng nhưng sâu thẳm, nó là gì nữa?

Con rắn ban đầu thấy Hoàng tử bé là đã ra chiều dụ dỗ. Nó bảo, nọc độc nó là để người bị cắn trúng trở về với nơi được sinh ra – thật là tráo trở biết bao. Thì ra, con người với nhau nhưng giả dối lắm, nên hay dùng những mỹ từ cao cả để che đậy tội lỗi. Cuối cùng, chính con rắn ấy đã trút hết nọc độc vào em và bỏ đi. Em ngây ngô, nhưng không hề ngây ngô chút nào.

Cậu gặp một con cáo, khao khát được thuần hóa. Con cáo đó, chính là nhân loại. Nhân loại khao khát yêu và được yêu, dù có đau khổ, dù có nếm mật nằm gai. Romeo và Juliet vẫn đến với nhau và yêu nhau bằng cả mạng sống, và chắc hẳn tiểu thuyết của Nicholas Sparks bán chạy cũng là do nhân gian nào có ai từ chối tình yêu cả một đời. Thế là cậu phát hiện ra, mình đã “được” hoa hồng kia thuần hóa. Cậu yêu bông hoa ấy. Và cậu nghĩ mình có trách nhiệm với thứ mà mình đã thuần hóa. Chậc, những người yêu nhau, thương nhau đều có trách nhiệm giữ cho người kia an toàn và hạnh phúc mà nhỉ?

Con cáo đau khổ khi phải chia xa Hoàng tử bé, nhưng nó không hối hận vì đã van nài cậu thuần hóa nó. “Lúa mì, vốn dĩ vàng óng, sẽ khiến tớ nhớ đến cậu.” Thật đáng nể, tác giả dạy trẻ con về tình cảm tự nhiên của con người quá tài tình!

Còn đây là bài học mà tôi tâm đắc nhất:

Người ta chỉ nhìn rõ được bằng trái tim. Con mắt thường mù lòa trước điều cốt tử… Chính thời gian mà cậu dành cho bông hồng của cậu mới khiến bông hồng của cậu quan trọng đến thế.

Hoàng tử bé của chúng ta cũng phát hiện rằng, 5000 bông hoa hồng trên trái đất giống hệt như bông hoa của cậu, nhưng với cậu, đóa hoa đó là duy nhất. “Nhưng chỉ riêng mình nàng thôi, nàng đã quan trọng hơn tất cả các cô, bởi lẽ chính nàng đã được tôi tưới nước cho. Bởi lẽ chính nàng đã được tôi chắn bình phong cho… Bởi lẽ đấy là bông hồng của tôi.”

Đọc đến đây, tôi chợt ganh tị với một bông hoa hồng nhỏ bé…

“Điều khiến cho sa mạc đẹp, hoàng tử nói, chính là nó giấu một cái giếng ở đâu đó…”

Em biết mình muốn làm gì, và cần phải làm gì để đi đến điểm dừng cuối cùng ấy. Không như những người trên tàu hỏa, chen lấn, xô đẩy, nhưng ông lái tàu chẳng biết họ đi tìm cái gì cả.

Vậy bạn thân mến, bạn đã biết mình đến thế giới này để làm gì chưa? Nếu chưa, thì bạn cần phải học hỏi Hoàng tử bé nhé! Cậu đi tìm giếng nước và khoan khoái uống nước do chú phi công múc lên. Cậu gắn liền làn nước mát ngọt và tiếng dây kéo cót két với chú phi công. Vì vậy, có lẽ sau này mỗi lần cậu khát nước hoặc nghe tiếng dây, thấy cái giếng, cậu sẽ nhớ tới chú phi công. Nhưng có lẽ, cậu không còn lần sau nữa.

Cậu đã tặng chú phi công cái gì nhỉ?

Những ngôi sao biết cười.

Đứa trẻ trong cơ thể già cỗi khô cằn.

Một lời gợi nhớ, rằng những thứ vô hình cần được cảm nhận bằng trái tim.

Lời kết

Tác giả truyện, Antoine de Saint-Exupéry là một phi công, và đã có kinh nghiệm tham gia làm nhiệm vụ trong Thế chiến thứ hai. Giấc mơ được bay lượn của ông được gởi gắm qua nhân vật “tôi” trong truyện, cùng với việc Hoàng tử bé bay lượn từ hành tinh này sang hành tinh khác. Kết thúc của truyện cũng khá buồn, nhưng tôi vẫn muốn hiểu theo cách riêng của mình. Tôi thấy bản thân không đủ mơ mộng và lạc quan để tưởng tượng cảnh Hoàng tử bé trở về quê nhà, tận tay chăm bón cho cô hoa hồng đỏng đảnh. Hoa chờ cậu một năm rồi, đã úa tàn rồi. Còn cậu, cậu cũng chẳng thể thoát khỏi lưỡi hái tử thần, và rời khỏi thế gian một cách nhẹ nhàng. Nhưng cậu, với một tâm hồn thánh thiện và tinh khiết, đã khiến cho chú phi công kia thay đổi quan điểm sống, khiến chú luôn nhớ đến cậu, thương nhớ cậu, vì chí ít, cậu cũng đã cứu mạng chú ấy, khiến chú ấy sống thật với bản thân, với “đứa trẻ mình đã từng là”. Hoàng tử cũng đã thỏa được mong muốn trở về với hoa hồng yêu dấu, dù là mãi sau khi cả hai đều lìa khỏi cõi đời. Tôi hoàn toàn tin rằng, cậu đã ra đi vô cùng thanh thản. Cậu ra đi vì tình yêu, dù bản thân cũng chẳng biết định nghĩa tình yêu là gì…

Truyện ngắn gọn nhưng dư âm thì còn mãi với thời gian. Mong rằng, những bài học quý giá về cuộc sống, về thành và bại, hữu hình và vô hình, tình yêu và tình bạn, sự sống và cái chết, tất cả đều sẽ đồng hành với tôi trong suốt quãng đời còn lại. Đều là những bài học đắt giá mà tác giả đã đúc rút được từ cuộc đời truân chuyên của mình, nên tôi rất trân trọng.

Ngày 31.07.1944, máy bay của Saint-Exupéry mất tích trên Địa Trung Hải. Tôi nghĩ, ông đi tìm Hoảng tử bé đấy. Ắt hẳn là ông đã tìm được em.

Hết.

Gia Bảo

Phía sau trang sách

Sứ đoàn Iwakura và những người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản

Published

on

Sứ đoàn Iwakura là một phái đoàn ngoại giao quan trọng của Nhật Bản được thành lập vào năm 1871, nhằm mục đích tìm hiểu về các quốc gia phương Tây, thu thập kiến thức về công nghệ, khoa học, và hệ thống chính trị của các quốc gia này để áp dụng vào việc cải cách Nhật Bản.

Phái đoàn này được tổ chức dưới sự lãnh đạo của Iwakura Tomomi, một quan chức cao cấp của chính phủ Minh Trị. Được đánh giá là một trong những sự kiện lớn nhất của lịch sử châu Á cuối thế kỷ 19, sứ mệnh Iwakura chủ trương “Bunmei kaika” (văn minh khai sáng) đã chuyển sức mạnh của lưỡi gươm samurai sang năng lực của trí tuệ. Sứ đoàn gồm khoảng 100 thành viên, trong đó có nhiều nhân vật chính phủ cao cấp. Ngoài số kể trên còn có các du học sinh phục vụ cho việc thông dịch, thông tin. Họ đã đi thăm Hoa Kỳ và hàng chục các quốc gia châu Âu khác nhau như Anh, Pháp, Đức, Áo, Ý, Bỉ, Hà Lan, Đan Mạch, Thụy Sĩ, Thụy Điển và Nga.

Bản đồ quãng đường đã đi của sứ đoàn Iwakura. Ảnh: Digital museum of the history of Japanese in New York.

Đoàn cũng có nhiều nữ sinh trẻ tuổi theo du học, phục vụ cho việc giáo dục phụ nữ sau này. Trong số những người thuộc sứ đoàn có năm cô gái rất trẻ tham gia vào chuyến đi. Chuyến công du này đã thay đổi vận mệnh của từng người trong số họ nói riêng và cả dân tộc Nhật Bản nói chung.

Năm cô gái đồng hành cùng Sứ đoàn Iwakura gồm: Tsuda Umeko, Nagai Shigeko, Yoshimasu Ryoko, Yamakawa Sutematsu và Ueda Teiko. Trong đó, nhỏ nhất là Tsuda Umeko, lúc đó chỉ mới 6 tuổi, lớn nhất là Ueda Teiko và Yoshimasu Ryoko, 14 tuổi. Trong chuyến công du này, họ không có quyền quyết định theo ý mình mà phải nghe theo sự sắp xếp của cha mẹ và gia đình để đến một vùng đất xa lạ, gánh trên vai trách nhiệm lớn lao với nước nhà.

Trước khi được đưa sang Mỹ, họ không được học tiếng Anh hay văn hóa để thích nghi với môi trường sống ở nước ngoài. Đặt chân lên đất khách, họ bị báo chí bủa vây và gọi là "những cô công chúa kỳ lạ đến từ phương Đông". Những cô gái trẻ cảm thấy lạc lõng, cô đơn và sợ hãi khi tiếp nhận nền văn minh mới. Tệ hơn, sau đó họ phải tách nhau ra và được gửi đến các nhà nuôi dưỡng khác nhau. Sau một thời gian, hai người chị lớn tuổi nhất dần không chịu được cuộc sống ở nơi đất khách quê người và được đưa trở lại về quê nhà. Ba cô gái còn lại bao gồm Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã kiên cường trụ lại, chăm chỉ nỗ lực học tập và làm nên lịch sử. Họ chính là ba trong số năm người phụ nữ đầu tiên rời khỏi Nhật Bản và cũng là những người phụ nữ thành công nhất thời Minh Trị.

Tsuda Umeko

Tsuda Umeko sinh ra trong một gia đình quan chức và được cử tham gia vào Sứ đoàn Iwakura sang Mỹ du học vào năm 1871 khi chỉ mới 6 tuổi. Dù phải học cách tự lập khi còn quá nhỏ, bà đã nỗ lực không ngừng và tốt nghiệp Học viện Aarcher Institute. Bà về nước vào năm 1892 và làm giáo viên dạy tiếng Anh của trường chuyên dành cho các nữ quý tộc.

Umeko đã dành cả cuộc đời mình để cống hiến cho giáo dục, đặc biệt là giáo dục nữ giới. Năm 1900, với sự trợ giúp của hai người bạn, bà mở trường Joshi Eigaku Juku (Trường Anh ngữ cho nữ sinh), chính là tiền thân của Đại học Tsuda hiện nay. Những cống hiến lớn lao của bà đã được chính phủ Nhật Bản ghi nhận, hình ảnh của bà cũng được in trên tờ tiền 5000 yên phát hành vào năm 2024.

Nagai Shigeko

Nagai Shigeko sinh năm 1862 trong một gia đình quan chức Mạc phủ Tokugawa. Năm 1871, bà được đưa sang Mỹ sinh sống và học tập tại nhà của nhà sử học John Stevens Cabot Abbott. Năm 1878, bà nhập học trường Nghệ thuật tại Đại học Vassar và theo học chuyên ngành âm nhạc.

Khi trở về nước, bà kết hôn với Uryu Sotokichi và trở thành một trong những những giáo viên dạy piano đầu tiên ở Nhật Bản. Bà cũng là một trong những người sáng lập, dạy âm nhạc phương Tây tại Đại học Nghệ thuật Tokyo.

Yamakawa Sutematsu

Yamakawa Sutematsu sinh ra trong một gia đình Samurai truyền thống hỗ trợ Mạc phủ Tokugawa trong Chiến tranh Boshin. Gia đình bà ở phe thua trận trong cuộc nội chiến cuối cùng kết thúc thời kỳ Samurai của Nhật Bản và rơi vào hoàn cảnh khó khăn. Để giảm bớt miệng ăn trong nhà, người anh trai đã tự ý quyết định đưa bà tới Mỹ mà không hỏi ý kiến của bà.

Ở Mỹ, bà đã cố gắng học tập và đạt thành tích xuất sắc, sau đó ghi danh lịch sử khi trở thành người phụ nữ có học vị cao nhất Nhật Bản lúc bấy giờ. Bà là người phụ nữ Nhật đầu tiên có bằng Đại học.

Sau khi tốt nghiệp, bà học thêm về nghiệp vụ y tá và trở về Nhật Bản vào tháng 10 năm 1882. Khi trở lại quê nhà, Sutematsu gặp khó khăn trong việc giao tiếp khi không thể đọc hoặc viết tiếng Nhật. Sau đó, bà kết hôn với Oyama Iwao. Khi chồng bà được thăng chức, bà được cũng thăng cấp theo và trở thành Công chúa Oyama vào năm 1905. Thuở ấy, bà là một người có địa vị cao trong xã hội. Bằng kiến thức của mình, Sutematsu đã tư vấn cho Hoàng hậu về các phong tục phương Tây. Bà cũng sử dụng vị trí xã hội của mình để kêu gọi, quyên góp cho giáo dục phụ nữ. Bà là người góp công lớn trong việc thành lập nên Đại học Tsuda cùng với hai người bạn Tsuda Umeko và Nagai Shigeko.

Yamakawa Sutematsu, Nagai Shigeko và Tsuda Umeko đã mang kiến thức học được từ chuyến đi cùng Sứ đoàn Iwakura để truyền bá cho nữ giới ở quê nhà. Họ cùng nhau thực hiện một kế hoạch lớn lao, đó là mở trường học dành cho phụ nữ thuộc mọi tầng lớp trong xã hội. Dù ngay từ lúc bắt đầu đã gặp rất nhiều khó khăn, nhưng họ vô cùng quyết tâm và đã thành công. Họ là những người đã đặt nên nền móng để xây dựng nên nền giáo dục vì phụ nữ tại Nhật Bản, phất lên ngọn cờ chiến đấu vì nữ quyền, quyền được học tập làm việc, theo đuổi đam mê của bản thân.

Phỏng theo bài viết của Ái Thương trên Kilala.vn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Patrick Hogan: “Những gì xảy ra ở Việt Nam sẽ không ở lại Việt Nam”

Published

on

By

Mockup_Mua_xuan_vang_lang_Mua_thu_chet_choc_cua_chien_tranh_VN

Patrick Hogan đóng quân tại miền Nam Việt Nam từ tháng 9.1966 đến tháng 6.1969 tại Cam Ranh (Khánh Hòa). Sau khi giải ngũ, ông được bổ nhiệm vào Sở cảnh sát Teaneck với tư cách là nhân viên thực thi pháp luật. Vào năm 2012, sau khi nghe bài phát biểu của cựu Tổng thống Barack Obama về chiến tranh Việt Nam, ông bỗng cảm thấy vô cùng cấp bách để điều tra về việc phơi nhiễm chất độc màu da cam và những hóa chất mà chính quyền Mỹ đã rải xuống Việt Nam trong giai đoạn này.

Khi bắt đầu nghiên cứu, ông chưa từng nghĩ mình sẽ chạm đến những bí mật khổng lồ về các loại hóa chất này. Nhưng sau cái chết của người bạn và cũng là cựu chiến binh Larry White, ý tưởng về Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam đã ra đời. Tác phẩm vừa được Phương Nam Books và NXB Thế giới ấn hành, qua việc chuyển ngữ của dịch giả Nguyễn Văn Minh. Cuộc phỏng vấn sau đây sẽ nói nhiều hơn về tác phẩm ông đã “thai nghén” trong nhiều năm qua.

- “Mùa xuân vắng lặng - Mùa thu chết chóc của Chiến tranh Việt Nam” nói về điều gì, thưa ông?

- Đây là câu chuyện về chiến tranh, câu chuyện về sự giận dữ và cuồng nộ, một cuốn biên niên sử được viết trong đau buồn và hy vọng. Đó là câu chuyện của vô số cựu binh từng phục vụ tại Việt Nam. Đó là một cuốn sách đi sâu vào các hóa chất chết người đã được sử dụng trong suốt cuộc chiến và ảnh hưởng của chúng lên các cựu binh. Nhiều trong số đó vẫn đang được sử dụng trên khắp nước Mỹ, thậm chí cho đến ngày nay. Đó là hành trình phơi bày mọi điều mà chính phủ Hoa Kỳ chưa từng và chưa bao giờ muốn phơi bày ra ánh sáng.

- Điều gì đã truyền cảm hứng cho ông viết về chiến tranh Việt Nam?

- Thực ra tôi chưa bao giờ nung nấu ý định trở thành nhà văn. Cuốn sách ra đời trong một hoàn cảnh gần như ngẫu nhiên. Điều tốt nhất tôi có thể làm gần nửa thế kỷ sau chiến tranh là viết lại “sự phản bội” mà chúng tôi nhận được khi bị buộc phải tiếp xúc với thuốc trừ sâu độc hại và những điều kiện khắc nghiệt của chiến tranh Việt Nam. Tất cả là nỗ lực đưa ra ánh sáng những gì đã xảy ra ở đó để chúng sẽ không bao giờ có khả năng lặp lại với các thế hệ quân nhân mới, với cả gia đình và con cháu họ, thậm chí là cả cháu chắt nữa.

Mùa Xuân Vắng Lặng - Mùa Thu Chết Chóc Của Chiến Tranh Việt Nam

Ban đầu, việc viết sách hay trở thành tác giả là điều xa vời trong tâm trí tôi. Tuy nhiên, ngay sau khi tôi từ Việt Nam trở về, cha tôi đã thúc giục tôi nộp đơn yêu cầu bồi thường khuyết tật lên Bộ Cựu chiến binh (DVA) vì những vấn đề y tế mà tôi gặp phải trong thời gian phục vụ quân ngũ. Tôi bắt đầu quá trình này không mấy nhiệt tình và nhanh chóng bị cuốn hút bởi cuộc sống dân sự mới.

Tôi không truy tầm lại chúng suốt nhiều thập kỷ, cho đến vào một ngày tháng 5 của năm 2012, sau khi xem Tổng thống Barack Obama phát biểu về sự khủng khiếp của Chiến tranh Việt Nam, thì điều gì đó trong con người tôi bất chợt “sống dậy”. Từ đó dấn thân nghiên cứu và điều tra mối liên hệ nhân quả giữa vô số vấn đề về sức khỏe và việc tôi bị phơi nhiễm chất độc màu da cam ở Việt Nam.

- Ông có thể chia sẻ về quá trình nghiên cứu của mình không? Đâu là khía cạnh thú vị nhất?

- Nghiên cứu của tôi kéo dài vài năm vì sự phức tạp của tất cả các hóa chất độc hại mà chúng tôi đã tiếp xúc và tương tác. Càng điều tra, tôi càng nhìn lại và cân nhắc tất cả những sinh mạng đã bị rút ngắn một cách không cần thiết - bị lấy đi, bị hủy diệt và chết dần mòn do việc sử dụng tràn lan thuốc trừ sâu. Tôi tức giận và quyết tâm hoàn thành cuốn sách.

Chúng tôi không chỉ bị phơi nhiễm chất độc màu da cam mà còn vô số hóa chất độc hại chết người. Thật đáng xấu hổ khi có biết bao nhiêu sinh mạng đã thiệt mạng trong nửa thế kỷ qua mà không ai biết sự thật về chúng. Một trong những điều hối tiếc lớn nhất của tôi là đã mất quá nhiều thời gian để thức tỉnh và viết cuốn sách này.

- Ông là một cựu trung sĩ. Điều này đã ảnh hưởng đến việc viết như thế nào?

- Việc là một sĩ quan cảnh sát và điều tra viên đã nghỉ hưu thực sự có ích trong giai đoạn nghiên cứu và viết nó ra. Thực ra, tất cả kinh nghiệm sống của tôi đều được phát huy trong quá trình viết sách.

- Về thuốc trừ sâu và thuốc diệt cỏ được sử dụng trong giai đoạn ấy, ông có nghĩ rằng tác động của chúng đã dần giảm đi trong những năm qua?

- Cuốn sách không chỉ thảo luận về các hóa chất đã được sử dụng ở Việt Nam mà còn về tất cả các loại thuốc diệt cỏ và thuốc trừ sâu độc hại được dùng trong chiến tranh nói chung. Thật không may, ngày nay hầu hết mọi người đều tin rằng chất độc màu da cam là loại thuốc trừ sâu duy nhất mà chúng ta bị phơi nhiễm. Sự thật là chiến tranh Việt Nam đã bị chính phủ biến thành một chiến dịch truyền thông sai lệch nhằm hạ thấp hoặc phớt lờ tất cả các hóa chất khác mà chúng ta đã tiếp xúc ở đó.

- Ông cũng trích dẫn nhiều thông điệp tích cực từ “Kinh Thánh”. Vì sao trong một nghiên cứu đầy cuồng nộ vẫn có những niềm hy vọng như thế?

- Đối với tôi, ở cả thời điểm này, tôi vẫn khó có thể hiểu được động cơ của tội ác ấy, cũng như sự vụ che giấu trong nhiều thập kỷ. Nhưng dù thế nào thì vẫn có ánh sáng trong ngày tăm tối. Hy vọng trong tương lai những hồ sơ này sẽ được tiết lộ, và tội ác sẽ không xảy ra thêm lần nào nữa với thế hệ quân nhân khác.

- Xin ông chia sẻ khía cạnh thách thức nhất khi viết cuốn sách này là gì?

- Đó là nỗi buồn cá nhân khi viết câu chuyện của Larry – bạn tôi, và quay lại khoảng thời gian tôi ở Việt Nam cũng như rất nhiều căn bệnh mà tôi đã mắc trong những năm qua.

Patrick Hogan

Hồ sơ chính thức của chính phủ Hoa Kỳ ghi nhận hơn 58.280 quân nhân Hoa Kỳ đã chết ở Việt Nam. Đó là thương vong cuối cùng của cuộc chiến đó. Ngoài ra, có trên 300.000 quân nhân được ghi nhận là bị thương và tàn phế. Tuy nhiên, những số liệu thống kê nghiêm túc đó lại không ghi nhận hàng chục nghìn binh sĩ, thủy quân lục chiến và thủy thủ đã thiệt mạng, bị thương và bị thương tật do thuốc trừ sâu sử dụng ở Việt Nam. Ai sẽ ghi lại sự hy sinh và cái chết của họ? Mặc dù tôi không mong đợi cuốn sách của mình sẽ thay đổi những số liệu thống kê, nhưng tôi hy vọng có thể giúp ích một phần nào đó cho thế hệ tương lai.

- Ông có bao giờ rơi vào tình trạng bị bí ý tưởng?

- Không. Bản thảo ban đầu của cuốn sách dài khoảng 400 trang, ngoại trừ câu chuyện của Larry và việc hồi tưởng lại thời gian tôi ở Việt Nam thì mọi việc diễn ra suôn sẻ.

- Ông có phải là một tác giả có kỷ luật hay có lịch trình cụ thể không?

- Tôi tự coi mình là một tác giả có kỷ luật, nhưng ngay cả vậy tôi cũng thường mang theo tập giấy và bút vì sẽ có những cảm hứng sẽ đến bất chợt. Đặc biệt là sau sự tương tác căng thẳng của tôi với Bộ Cựu chiến binh (DVA) và vòng xoay hành chính.

Đọc thêm nội dung sách: tại đây!

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Khán giả học – vai trò của người xem phim

Published

on

Kevin Goetz và Darlene Hayman nghiên cứu tâm lý người xem nhằm lý giải sự thành bại của các phim Hollywood, trong sách "Khán giả học".

Cuốn sách xuất bản trong nước, Phương Nam Book phát hành, đưa ra cách tiếp cận mới khi khảo sát những điều khán giả chờ đợi ở một bộ phim. Hai tác giả đi sâu vào bóc tách tâm lý của khán giả trong 10 chương, từ đó đưa ra sự đúc kết về tầm ảnh hưởng của người xem đối với điện ảnh.

Kevin Goetz cho rằng những lời góp ý, nhận xét sẽ làm thay đổi diện mạo phim. Phản hồi từ khán giả trong các buổi chiếu thử có thể giúp tác phẩm được quảng bá rộng rãi, thậm chí nâng cao chất lượng về mặt nghệ thuật lẫn doanh thu. Goetz lấy ví dụ: "Tờ giấy khảo sát sau khi xem phim có khối lượng chưa đến 100 gr, song lại mang sức mạnh tựa như cú móc hàm phải của võ sĩ Tyson".

Sách có đoạn: "Qua nhiều năm, các nhà nghiên cứu và những người dày dặn kinh nghiệm trong ngành công nghiệp điện ảnh đều biết rõ, thước đo then chốt cho mức độ hấp dẫn của bất kỳ bộ phim thương mại nào cũng được xác định bởi các điểm số xuất sắc và rất hay mà phim nhận được từ phản hồi của khán giả tham dự buổi chiếu thử".

Bìa sách Khán giả học, tựa gốc Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love. Tác phẩm dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book
Bìa cuốn "Khán giả học", tên gốc "Audience-ology: How Moviegoers Shape the Films We Love". Sách dày 364 trang, do Thanh Vy biên dịch. Ảnh: Phương Nam Book

Trong sách, hai nhà nghiên cứu thuật lại quy trình của buổi chiếu thử, từ việc chọn khán giả dựa theo số liệu nhân khẩu học, tiêu chí chọn địa điểm công chiếu, đến những khoảnh khắc trong phim khiến người xem bật cười hay òa khóc. Goetz nhấn mạnh việc lấy khảo sát từ khán giả có thể giúp biên kịch, nhà sản xuất và đạo diễn lược bỏ chi tiết thừa hoặc thêm yếu tố mới, nhằm đẩy câu chuyện lên cao trào, đồng thời giúp phim đạt hiệu quả tốt nhất.

Những lý giải nhằm chứng minh công việc sáng tạo giống như trò chơi "đỏ đen" có tên là tâm lý học. Sau buổi công chiếu thử, tiếng vỗ tay, hò hét hay phản ứng khóc, cười từ khán giả có thể trở thành tín hiệu dự báo mức độ thành công.

Tác phẩm còn cho thấy nền điện ảnh không chỉ có bề dày lịch sử, các đạo diễn gạo cội, phim bất hủ, mà là một ngành khoa học phải đối mặt với nhiều thử thách. Goetz đưa chuyện thực tế trong các buổi chiếu thử phim nhằm giúp độc giả có cơ hội chứng kiến hậu trường Hollywood từ nhiều khía cạnh.

Goetz mời một số nhân vật nổi tiếng để chia sẻ trải nghiệm của họ với các buổi chiếu thử, gồm chủ hãng phim Blumhouse Jason Blum, đạo diễn Ron Howard và nhà sáng lập công ty Illumination Chris Meledandri. Theo Variety, sách cũng cung cấp góc nhìn về tác động của khán giả đối với bản dựng phim cuối trước khi công chiếu, như trong một số tác phẩm biểu tượng Fatal AttractionThelma & Louise và Cocktail.

Tác giả cuốn Khán giả học: Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster
Tác giả cuốn "Khán giả học": Kevin Goetz (trái) và Darlene Hayman. Ảnh: Simon & Schuster

Khán giả học nhận nhiều ý kiến tích cực từ giới chuyên môn. Theo trang Goodreads, sách được viết với giọng văn hài hước, pha lẫn kịch tính và bất ngờ, mang đến cho độc giả cái nhìn mới về lịch sử điện ảnh. Trang tin tức A Frame của giải Oscar xếp tác phẩm là một trong những cuốn sách phải đọc về điện ảnh hiện đại.

Cựu chủ tịch hãng phim Sony Amy Pascal đánh giá tác phẩm gây ấn tượng khi mang đến câu chuyện ngoài lề thú vị ở Hollywood. "Tôi ước quyển sách này xuất hiện lúc tôi bắt đầu sự nghiệp trong ngành điện ảnh", Pascal cho biết trong một cuộc phỏng vấn.

Chủ tịch Sony Pictures Entertainment Motion Picture Group - Tom Rothman - nhận xét: "Thấu hiểu những gì khán giả thực sự nghĩ không phải là điều dễ dàng. Và Kevin là bậc thầy trong việc lắng nghe người xem, như những gì được tiết lộ trong quyển sách của anh".

Kevin Goetz là nhà sáng lập công ty nghiên cứu phim Screen Engine, có hơn 30 năm kinh nghiệm trong lĩnh vực điện ảnh. Anh cũng là thành viên của Viện Hàn lâm Khoa học Nghệ thuật Điện ảnh Mỹ, Hiệp hội các nhà sản xuất phim Mỹ. Sách đầu tay của Goetz Khán giả học ra mắt lần đầu năm 2021.

Darlene Hayman là nhà phân tích nghiên cứu thị trường phim ảnh ở Mỹ, cộng tác với Kevin Goetz hơn 15 năm. Cô nổi tiếng vì hỗ trợ các đạo diễn trong việc nắm bắt thị hiếu khán giả, góp phần tinh chỉnh tác phẩm trong giai đoạn cuối quá trình hậu kỳ.

Theo Vnexpress

Đọc bài viết

Cafe sáng