Trà chiều

Nàng là phúc lành tôi được ân hưởng để có thể lần nữa lại viết

Tác phẩm mới của anh sẽ thắng giải Akutagawa, sẽ thành best-seller, anh sẽ nhận được nhiều tiền tác quyền. Từ giờ đến lúc đó, hãy để em lo chi phí sinh hoạt của chúng mình.

Published

on

Tôi nhớ em.

Tôi muốn bắt đầu giản dị như thế. Vì chính nỗi nhớ ngập tràn ấy thôi thúc tôi viết đôi dòng cho em sau gần hai năm hầu như không viết gì.

Tôi yêu cách em yêu. Yêu cách em thật mạnh mẽ, dứt khoát tiến đến bên người ấy dù chân trần có phải vấy bẩn bụi cát nóng bỏng hoang mạc. “Em vẫn sẽ bước đi.”

“Dù có thể em sẽ gây nhiều phiền hà cho anh, em hứa sẽ cố gắng sống hết mình. Hãy giúp em nhé.”

Trong bốn năm cuối đời ấy, em đã sống như thế nào? Ở vùng quê đó, ngày ngày nhìn ống khói kiêu hãnh vươn lên trời cao, chiều chiều ra biển ngắm hoàng hôn; và thỉnh thoảng, một người đàn ông lạ mặt có nốt ruồi đen thật to dưới cánh mũi phải sẽ đến thăm em. Là ai nhỉ? Em không thể nào nhớ tên người này. Dường như anh ta đã đến thăm em vào hôm qua hoặc hôm kia, tuần trước hoặc tháng trước. Như cát trôi qua kẽ tay, rơi xuống bãi biển rồi hòa vào bọt trắng xóa hoặc bẹp dí dưới gót chân người, em không thể nhớ chút kí ức nào về người ấy. Chỉ có cảm giác thân quen khó hiểu. Tựa như một đứa trẻ khi mới chào đời có thể dễ dàng phát âm “a” chẳng phải vì tiện lợi về mặt sinh học, hay vì “a” là âm tiết đầu tiên trong bảng chữ cái; mà vì nó đã đem kí ức về chữ “a” từ thế giới trước sang thế giới này. Em – một người phụ nữ bắt đầu đi ngược chiều tiến trình sinh học ở độ tuổi ba mươi để trở về là một đứa trẻ nguyên sơ chưa biết gì về thế giới, có lẽ em đã cảm nhận như thế khi đối diện người đàn ông ấy chăng?

Và rồi cái chết của em được nhắc đến chỉ bằng một lời thoại đơn giản giống như nàng Gelsomina trong La Strada. Không có những hình ảnh sau cùng về những ngày cuối đời em. Nhưng nỗi buồn vẫn thấm sâu trong tôi khi nhớ đến những giọt nước mắt của em – khoảnh khắc em thốt ra tên người đàn ông không phải xa lạ ấy, khi cuối cùng kí ức đã chịu quay về với em trong giây phút nhỏ nhoi: “Shinji!”

“Quả nhiên, em biết là Shinji có tài mà. Anh viết hay quá.”

Vẫn là em.

Ngay cả lúc đã ở giai đoạn cuối của căn bệnh Alzheimer, đã quên đi cách thực hiện những sinh hoạt hằng ngày đơn giản nhất, thậm chí quên đi chính bản thân mình là ai, trong thời khắc ngắn ngủi kịp nhớ ra ấy, em vẫn không quên động viên người đàn ông em luôn yêu thương từ lần đầu gặp gỡ. Người cùng thích loại nước uống giống em. Người đã bắt trọn chiếc hộp bé xíu ấy trong cú ném tạo thành vòng cung hoàn hảo của em. Người luôn tự ti trước em nhưng em vẫn không ngừng khen ngợi, khích lệ người ấy. Người là tác giả của cuốn tiểu thuyết em yêu thích nhất – “Angelica chân trần vấy cát”. Tôi thật sự ghen tị với Mamiya Shinji khi người phụ nữ anh yêu thương nhất trên đời cũng là độc giả hâm mộ trung thành nhất của anh.

Như ống khói đứng thẳng vươn cao giữa trời, kiêu hãnh và bộc trực, Angelica nghĩ rằng mình đã yêu người đàn ông ấy mất rồi.

“Nếu cứ nhớ mấy dòng đó, cô sẽ bị não phẳng đấy.”

“Dù như thế thật thì cũng đáng mà. Với người bình thường như tôi thì sự kích thích từ những chuyện ái tình phóng đãng kiểu này rất quan trọng.”

Và em cùng người đàn ông viết những dòng ấy đã có một mối tình khắc cốt ghi tâm, buồn bã nhưng ấm áp. Về sau, anh ấy sẽ viết rằng: “Cuộc sống thật kì lạ, ngay cả trong những ngày thậm tệ, thỉnh thoảng ta vẫn có thể thấy được viễn cảnh tươi đẹp nhất. Đó là điều tôi đã hiểu ra.”

Vào những ngày đầu mới quen nhau, lúc em vừa mắc bệnh, có lần anh ấy đã trách em gọi nhầm tên vị hôn phu cũ khi em ôm anh và nói lời yêu thương. Anh bảo rằng điều đó chứng tỏ trong tiềm thức của em, vào những lúc em sợ hãi nhất, người em cần không phải là anh mà là vị cựu hôn phu kiêm bác sĩ đương nhiệm chữa trị căn bệnh của em. Anh muốn chia tay vì nghĩ rằng sẽ tốt hơn khi em ở cạnh người đàn ông kia, rằng tình cảm em dành cho anh thực chất chỉ là sự thúc đẩy nhất thời do căn bệnh mang lại. Nhưng em nhanh chóng nhận ra sự thật không phải như thế. Với đôi mắt buồn nhưng dứt khoát, cái cúi đầu xin lỗi thật sâu nhưng cương nghị, em đường hoàng nói với người cũ rằng: “Tôi vô cùng biết ơn những việc bác sĩ đã làm cho tôi. Thực sự, thực sự rất cảm kích. Nhưng người tôi yêu là Mamiya Shinji. Sự tồn tại của anh ấy tiếp thêm sức mạnh cho tôi sống hơn bất kì ai khác. Tôi xin lỗi.”

Em luôn thẳng thắn, rõ ràng như thế. Ngay sau đêm đầu tiên ái ân với Shinji trong lúc đã đính hôn cùng Yuuichi, vào buổi sáng khi vừa tỉnh dậy, em quyết định sẽ hủy hôn ước.

“Em sẽ hủy hôn ước. Em không hủy để đòi anh cưới em đâu. Chỉ là em đã quyết định vậy thôi.”

“Khoan đã. Anh nghĩ là em nên… suy nghĩ lại.”

“Em không có thời gian suy tính đâu. Em phải thông báo với anh ấy, rồi bố mẹ anh ấy vì có nhiều thứ cần phải hủy lắm.”

“Nhưng mà… em đừng làm vậy. À, chẳng hạn, chúng ta có thể tiếp tục thế này đến tận trước ngày cưới của em mà?”

“Em đã quyết định bước xuống tàu tốc hành và đi bộ trên sa mạc. Dù ngày mai chuyện với anh chẳng đi đến đâu, em cũng sẽ không quay đầu lại. Đưa em chìa khóa đi.”

Ban đầu, tôi cũng ngỡ ngàng trước tình yêu mãnh liệt em dành cho Shinji; vì sao một bác sĩ thông minh, thành đạt, xinh đẹp, dịu dàng như em lại yêu người đàn ông dường như chẳng có gì ngoài khiếu hài hước này, vì sao em quá tha thiết với tình yêu ấy đến nỗi một người như em lại phải chủ động trước một người quá bị động như anh… Câu trả lời đã có sẵn ngay từ đầu: vốn dĩ, tình yêu thực sự không nằm ở lí trí, không phải là phạm trù để đặt câu hỏi về nguyên nhân và kết quả.

“Em không biết những điều mình làm đúng hay sai, không biết liệu một ngày nào đó em có tìm được đáp án không. Chẳng ai biết cả. Nhưng em bị bản năng thúc đẩy phải đi ngược lại mọi khuôn khổ lí trí.”

Em yêu bằng bản năng nhưng lại biết suy nghĩ thực tế cho người mình yêu.

“Tác phẩm mới của anh sẽ thắng giải Akutagawa, sẽ thành best-seller, anh sẽ nhận được nhiều tiền tác quyền. Từ giờ đến lúc đó, hãy để em lo chi phí sinh hoạt của chúng mình.”

Em chân thành như thế, tha thiết như thế. Dù chuyện gọi nhầm tên anh chỉ vì căn bệnh ác nghiệt ấy, chẳng phải lỗi do em, nhưng em đã tự trách mình rất nhiều. Khoảng thời gian chín tháng xa nhau, có lẽ em đã lẩm nhẩm tên anh rất nhiều lần.

Tiểu thuyết em thích đọc nhất là “Angelica chân trần vấy cát” do anh viết.

Họ của mẹ em khi chưa lấy chồng là Mishima.

Tên ngôi đền nơi anh bị bỏ rơi lúc nhỏ là Matsushiro.

“Tiểu thuyết yêu thích nhất. Họ thời con gái của mẹ. Tên ngôi đền anh bị bỏ rơi. Hãy chia tay khi em không trả lời được ba câu hỏi đó anh nhé.”

Em đã tự nhủ với mình: “Nếu một ngày nào đó, mày không trả lời được ba câu hỏi này nữa, mày nên chết đi.”

Rồi em gặp lại anh, kết hôn với anh, và khi bệnh tình đột ngột trở nặng, trước lúc ngất đi, em đã thốt lên tên anh: “Shinji.”

“Shinji.”

“Shinji.”

“Có phải là anh không, Shinji?”

Vậy là nỗi niềm băn khoăn ngày xưa của cả anh và tôi đều đã được giải tỏa. Ngay trước lúc bất tỉnh và cả khi đã mất ý thức, em vẫn chỉ gọi thầm mỗi tên anh. Phân cảnh ấy khiến tôi ấm áp. Chỉ bằng việc quan sát tình yêu vĩ đại đó – tuy không phải dành cho mình nhưng tôi cũng có cảm giác chính mình được yêu. Đó có lẽ là lí do vì sao đến tận bây giờ tôi vẫn thích xem phim tình yêu như thế. Để gợi nhắc tôi rằng tình yêu chân thành có thể vẫn đang hiện hữu đâu đó. Em rất hoàn hảo, mọi điều về em đều tốt đẹp, nhưng không hiểu sao sự hoàn hảo không tì vết đó chẳng hề khiến tôi mảy may cảm thấy em không thực. Ngược lại, với tôi, em rất thực. Tôi luôn cảm giác có thể em đang tồn tại đâu đó. Chỉ là một người như em vốn không dành cho tôi. Nếu em thực sự có mặt trên cuộc đời này, em xứng đáng với những điều tốt đẹp hơn. Không biết bao lần, Shinji cũng tự nhủ như thế.

“Suốt hai mươi năm tôi chẳng có động lực để viết bất kì ý tưởng hay thậm chí một chữ nào. Thế rồi một người phụ nữ đã khiến tôi có động lực ấy thêm lần nữa. Nhưng người cần ở bên cạnh người phụ nữ không thể thay thế ấy vốn dĩ không phải là tôi.”

“Nàng là phúc lành tôi được ân hưởng để có thể lần nữa lại viết. Chẳng cần nghi ngờ gì, nàng chính là một thiên thần.”

Và thiên thần ấy không chỉ cho anh tình yêu hay trở thành nàng thơ của anh, nàng còn là người vợ hiền lúc nào cũng ưu tiên quyền lợi vì anh, lúc nào cũng nghĩ cách hỗ trợ anh sáng tác. Khi hai vợ chồng mới kết hôn, dọn vào căn hộ khang trang hơn phòng trọ trước đây của anh nhưng lại chỉ có hai gian phòng, nàng đã bảo đồng nghiệp anh nơi công ty cũ đến phụ dọn nhà rằng hãy để giường ngủ trong phòng khách kiêm nhà bếp thay vì để sang hẳn một phòng riêng.

“Mình có nên để bàn ở đây thay vì giường không? Em biết đấy, anh viết ở đâu cũng được mà.”

“Không cần anh. Như vậy được rồi. Em muốn anh có một chỗ đàng hoàng để viết, để anh có thể tạo ra những tác phẩm thật hay.”

Thế là, cảnh tượng trong căn phòng ấy có đôi chút kì lạ, khi bạn vừa mở cửa bước vào tổ ấm của họ, bạn sẽ thấy cùng lúc không gian chung để tiếp khách với dãy bếp và bàn ghế ở tay trái, trong khi bên tay phải lại là không gian riêng với chiếc giường ấm cúng nơi hai người ân ái mỗi đêm. Nhưng với Nao, điều đó không kì lạ, hay ngại ngùng, hay bất tiện; nàng có một không gian riêng tư hơn cần bảo vệ, vốn dĩ được thiết lập không phải cho nàng: không gian để chồng nàng đắm chìm vào thế giới riêng trong trang viết. Vào những đêm anh thức khuya viết lách, nàng mở cửa thật khẽ đủ để nhìn anh đang chăm chú gõ chữ trên máy tính; khi ấy, nàng sẽ mỉm cười thật tươi, khuôn mặt rạng rỡ vẻ tự hào, thì thầm không thành tiếng mà chỉ mấp máy môi rằng: “Cố lên anh nhé.” Rồi nàng lặng lẽ đóng cửa phòng, ra giường ngủ nằm nhắm mắt đợi anh. Nhưng nàng không ngủ hẳn. Khi anh viết xong, khi anh nằm xuống giường cạnh nàng, nàng sẽ vờ như vô thức mà dịu dàng quay sang ôm anh, mũi nàng khẽ chạm vào gò má anh cảm nhận mùi cơ thể quen thuộc. Đến khi ấy, nàng mới mỉm cười đi vào giấc ngủ.

Trên tất cả, nàng đã cho anh một mái ấm gia đình đúng nghĩa khi quyết định sẽ sinh con, sẽ để lại cho anh món quà cuối cùng sau khi nàng qua đời.

“Cứ nắm tay thế này mãi anh có mỏi không?”

“Em muốn buông tay à?”

“Không! Em thích như thế này.”

“Dù sao, ban nãy mình cũng đã buông tay ở quán ăn rồi.”

“Em tự hỏi mình có thể nhớ được khoảnh khắc này đến khi nào?”

“Em sẽ quên thôi, dù gì cũng chẳng phải dịp đặc biệt.”

“À, em đã quyết định sẽ có con với anh. Em từng nghĩ rằng nếu sức khỏe tốt hơn, em mới mong mỏi điều ấy. Nhưng bây giờ, khi biết rằng tình hình chẳng thể tiến triển tốt, ngược lại, em càng muốn có con với anh hơn.”

“Thật ư?”

“Vì con chúng mình sẽ là điều duy nhất mình có chung, đúng không anh?”

“Ừm, tất nhiên rồi.”

“Từ lúc em chào đời, rồi dần dần trở thành bác sĩ, phục vụ vì lợi ích của mọi người, gặp được anh, có cuốn tiểu thuyết dựa trên cuộc đời em, và bây giờ em muốn tạo một ghi chú để đánh dấu tình yêu của chúng mình.”

“Một ghi chú?”

“Em biết đứa trẻ không thể là một ghi chú, nhưng… nhưng em muốn con chúng mình sống trên đời này. Anh có thể giúp em được không? Dù chỉ là một khoảng thời gian ngắn ngủi với con, cả ba chúng ta có thể sống bình yên bên nhau. Em nghĩ lí do đó đáng để mình cố gắng.”

Kitazawa Nao.

Tên của nàng Nao (尚) trong tiếng Nhật, có một nghĩa là “vẫn còn” (still). Điều này khiến tôi nhớ đến tiêu đề một tác phẩm cũng về người phụ nữ mắc bệnh Alzheimer “Still Alice”. Nao cũng vậy. Nàng vẫn là Nao kể cả khi đã mất đi hết kí ức. Một Nao kiên cường nhưng dịu dàng, điềm tĩnh và dứt khoát, lúc nào trong nàng cũng ngập tràn tình yêu thương và trách nhiệm.

Vào một ngày bình thường nào đó, thiên thần ấy đã lặng lẽ từ biệt cõi đời này.

Như ống khói đứng thẳng vươn cao giữa trời, kiêu hãnh và bộc trực, Angelica nghĩ rằng mình đã yêu người đàn ông ấy mất rồi.

Tôi cũng đã yêu em mất rồi.

Kodaki

Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Trà chiều

Phía sau Ngày của Mẹ: Câu chuyện lịch sử bị lãng quên

Published

on

Ít ai biết rằng, Ngày của Mẹ khởi nguồn như một phong trào của những người phụ nữ mong muốn mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân Mỹ. Nguồn gốc bị lãng quên ấy xuất phát từ hai nhà hoạt động suốt đời cống hiến những nỗ lực cải thiện y tế, phúc lợi và hòa bình. Hiểu về lịch sử Ngày của Mẹ - để thêm trân trọng và tìm thấy cảm hứng từ đó.

Ai là người sáng lập ra Ngày của Mẹ?

Việc tạo ra một ngày lễ quốc gia dành riêng cho mẹ phần lớn là công lao của ba người phụ nữ: Julia Ward Howe, Ann Reeves Jarvis, và con gái của Ann - Anna M. Jarvis.

Ann Reeves Jarvis

Được nhiều người gọi trìu mến là “Mẹ Jarvis”, Ann Reeves Jarvis là một người nội trợ trẻ sống ở vùng núi Appalachian, từng giảng dạy trong lớp học Kinh Thánh mỗi Chủ nhật. Nhưng bên cạnh đó, bà còn là một nhà hoạt động xã hội suốt đời. Vào giữa thế kỷ 19, bà đã tổ chức các “Câu lạc bộ hành động của những người Mẹ” (“Mothers’ Day Work Clubs”) tại West Virginia nhằm chống lại điều kiện sống mất vệ sinh nghiêm trọng lúc bấy giờ. Mẹ Jarvis lo lắng trước tỷ lệ trẻ sơ sinh tử vong quá cao - thậm chí trở nên tràn lan tại khu vực này, đồng thời mong muốn hỗ trợ và giáo dục các bà mẹ đang gặp khó khăn nhất.

Trong thời kì nội chiến Hoa Kỳ, bà tiếp tục tổ chức các đoàn phụ nữ, khuyến khích họ cùng giúp đỡ, bất kể chồng con họ đang đứng về phe nào. Sau chiến tranh, bà đề xuất tổ chức một “Ngày tình thân của những người Mẹ” (Mothers’ Friendship Day) - với hy vọng hàn gắn những rạn nứt giữa các gia đình từng đứng ở hai chiến tuyến: Liên minh miền Nam và Liên bang miền Bắc.

Julia Ward Howe

Julia Ward Howe là một nhà thơ và nhà cải cách nổi tiếng. Trong thời kỳ Nội chiến, bà tình nguyện làm việc cho Ủy ban Vệ sinh Hoa Kỳ, góp phần mang lại môi trường sạch sẽ cho các bệnh viện và đảm bảo điều kiện vệ sinh trong việc chăm sóc thương binh, bệnh binh. Năm 1861, bà sáng tác bài thánh ca nổi tiếng của thời Nội chiến – “The Battle Hymn of the Republic”, lần đầu được phát rộng rãi vào tháng 2 năm 1862. 

Khoảng năm 1870, Julia đã kêu gọi tổ chức riêng một “Ngày của Mẹ vì hòa bình” (“Mother’s Day for Peace”) để tôn vinh hòa bình và chấm dứt chiến tranh. Trong bản “Tuyên ngôn Ngày của Mẹ” (“Mother’s Day Proclamation”) do bà viết, Julia cảm thấy rằng chính những người mẹ - những người phải gánh chịu và thấu hiểu cái giá phải trả của chiến tranh - cần phải cùng nhau lên tiếng chống lại sự tàn khốc và sự phí hoài cuộc sống vì súng gươm. 

“Ngày của Mẹ” theo góc nhìn của Julia từng được tổ chức tại Boston và một vài nơi khác trong khoảng 30 năm nhưng nhanh chóng biến mất vào những năm trước Thế chiến thứ nhất.

Không có gì mới mẻ diễn ra trong phong trào này cho đến năm 1907, khi cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia tiếp tục giương cao ngọn cờ ấy. 

Anna M. Jarvis

Sau khi mẹ qua đời vào năm 1905, cô Anna M. Jarvis ở Philadelphia đã ấp ủ ước nguyện tưởng nhớ cuộc đời đầy cống hiến của mẹ mình. Cô bắt đầu vận động một ngày lễ toàn quốc nhằm tôn vinh tất cả những người mẹ. “Tôi hy vọng và cầu nguyện rằng rồi sẽ có ai đó, vào một lúc nào đó, lập nên một ngày tôn vinh mẹ - để ghi nhận những cống hiến vĩ đại mẹ dành cho nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống,” Anna từng khẳng định - “Mẹ xứng đáng với điều đó.” 

Ý tưởng của Anna không xoay quanh những công việc xã hội như mẹ cô từng theo đuổi, mà thiên về việc tôn vinh vai trò thiêng liêng của người mẹ và những hy sinh thầm lặng trong mái ấm gia đình. Cô không ngừng gửi điện tín, thư từ, và gặp gỡ trực tiếp các nhân vật có tầm ảnh hưởng cũng như các tổ chức xã hội để thuyết phục họ ủng hộ. Dù tổ chức lớn hay nhỏ, cô đều kiên trì gửi thư trình bày ý tưởng của mình. Bằng chính tiền túi, Anna viết, in và phát hành hàng loạt tập sách ca ngợi Ngày của Mẹ.

Vì sao Ngày của Mẹ ở Mỹ lại rơi vào tháng 5?

Tháng 5 năm 1907, Anna tổ chức buổi lễ tưởng niệm để tưởng nhớ hành trình hoạt động không ngơi nghỉ của mẹ tại nhà thờ Giám Lý ở Grafton, West Virginia – nơi bà từng giảng dạy. Một năm sau, vào ngày 10 tháng 5, một buổi lễ chính thức nhân Ngày của Mẹ được tổ chức tại chính nhà thờ đó, lần này để vinh danh tất cả những người mẹ. Từ đây, ý tưởng dành riêng Chủ nhật thứ hai của tháng 5 để tôn vinh mọi người mẹ - dù còn sống hay đã khuất - bắt đầu hình thành.

Nỗ lực của Anna dần gây được sự chú ý. Thị trưởng Philadelphia là người đầu tiên tuyên bố tổ chức Ngày của Mẹ tại địa phương. Từ đó, Anna tiếp tục hành trình vận động ở thủ đô Washington, D.C. Các chính trị gia ở đây nhanh chóng nhận thấy đây là một đề xuất đáng giá và bày tỏ sự ủng hộ công khai.

West Virginia là bang đầu tiên chính thức công nhận ngày này. Sau đó, nhiều bang khác cũng làm theo. Việc các bang liên tiếp đưa ra tuyên bố công nhận Ngày của Mẹ đã dẫn đến việc Hạ nghị sĩ J. Thomas Heflin (bang Alabama) và Thượng nghị sĩ Morris Sheppard (bang Texas) cùng đệ trình một nghị quyết lên Quốc hội nhằm công nhận Ngày của Mẹ là ngày lễ trên toàn quốc. Cả hai viện của Quốc hội đều thông qua nghị quyết.

Đến năm 1914, Tổng thống Woodrow Wilson đã ký ban hành đạo luật chính thức công nhận Chủ nhật thứ hai của tháng 5 là ngày lễ quốc gia với tên gọi “Ngày của Mẹ” - dành riêng cho “người mẹ tuyệt vời nhất trên đời: mẹ của bạn.”

Trong những năm đầu tiên, Ngày của Mẹ được tổ chức một cách mộc mạc và đầy thành kính - thường là qua các buổi lễ nhà thờ để tưởng nhớ và vinh danh các bà mẹ, dù còn sống hay đã qua đời.

Ngọt ngào xen lẫn đắng cay khi kế thừa Ngày của Mẹ

Theo nhiều tài liệu, điều duy nhất mà Anna mong muốn là tưởng nhớ mẹ mình - người mà cô tin là người khởi xướng thực sự của Ngày của Mẹ. Nhưng khi ngày lễ trở nên phổ biến, Anna dần cảm thấy thất vọng khi nó bị thương mại hóa: người ta gửi thiệp, tặng hoa một cách máy móc. Thậm chí cô không đồng tình khi các tổ chức phụ nữ hay hội từ thiện dùng Ngày của Mẹ để gây quỹ - điều khá mâu thuẫn nếu nhìn vào lý tưởng y tế cộng đồng mà mẹ cô từng theo đuổi.

Năm 1948, Anna Jarvis qua đời tại một viện dưỡng lão trong tình trạng sa sút trí tuệ.

Ngày của Mẹ hiện nay

Ngày của Mẹ vẫn bền bỉ tồn tại và không ngừng phát triển. Cũng giống như khởi nguồn ngày lễ bắt đầu từ sự sáng tạo của nhiều người phụ nữ, Ngày của Mẹ trong thời đại hiện nay tôn vinh sự đa dạng trong vai trò của người mẹ hiện đại. Chúng ta nhớ ơn những người mẹ đã đấu tranh để cải thiện cuộc sống của con cái bằng nhiều cách - từ phúc lợi xã hội đến lý tưởng phi bạo lực. Và hơn hết, chúng ta thấu hiểu, trân trọng tinh thần dũng cảm cùng đức hy sinh quý giá vô ngần dành cho con trẻ từ lúc chúng mới lọt lòng.

Hà Nhi dịch từ Almanac

Đọc bài viết

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Cafe sáng