Phía sau trang sách

Murakami Haruki giới thiệu tác phẩm “Sanshiro” của Natsume Soseki

Published

on

Tôi thừa nhận, mình mới thực sự nghiêm túc hứng thú với văn chương Natsume Soseki khi đã bước vào tuổi trưởng thành. Thời gian từ khi tôi tốt nghiệp đại học đến khi kết hôn, tôi hiếm khi để mắt tới các tác phẩm của ông, nói nghe không chính xác lắm, vì thực ra tôi đã kết hôn trước khi tốt nghiệp. Lý do chính là vì khi ấy tôi nghèo.

Vậy tại sao trước khoảng thời gian đó tôi vẫn chưa đọc Soseki? Tôi không thể nhớ rõ, nhưng có lẽ nguyên do lớn nhất là vì thuở thiếu thời, tôi bị ám ảnh bởi ngoại văn và đơn giản là không thèm đọc các tiểu thuyết Nhật ngữ. Một lý do khác có lẽ là vì tôi không có nhiều cảm xúc với các tiểu thuyết Soseki chúng tôi học tại trường (vấn đề ở đây là cách chọn lựa tác phẩm). Một lần khác, giữa những năm 1960 đầy biến động, khi tôi còn thanh niên, đọc Soseki không phải mốt: chẳng mang lại sự ngưỡng mộ hay lời tán dương nào cả. Đó là thời kỳ cải cách và biến đổi văn hóa, thời của Che Guevara và Jimi Hendrix. Ngày nay, dĩ nhiên, Natsume Soseki là biểu tượng của tiểu thuyết gia Nhật Bản đương đại, một nhân vật mang tầm vóc quốc gia, nhưng các tác phẩm của ông đã không được đón nhận nồng nhiệt vào thời điểm đó, tôi nghĩ vậy, ít nhất là trong thế hệ trẻ.

Tôi kết hôn năm 1972 với một người bạn cùng lớp đại học (đến nay vẫn còn là vợ tôi). Cô ấy tốt nghiệp trước tôi và đi làm công việc của một người đọc bản thảo theo hợp đồng với một công ty xuất bản. Tôi đã làm hàng loạt các công việc bán thời gian, mỗi tuần vài ngày khi còn học đại học để kiếm đủ tiền trả phần nợ còn lại trước khi tốt nghiệp – thu ngân ở một cửa hàng băng đĩa, phục vụ bàn, những việc đại loại như vậy. Khi có thời gian, tôi làm việc nhà – giặt ủi, nấu nướng, mua sắm, chăm sóc lũ mèo. Tôi là kiểu mẫu người chồng của gia đình. Cuộc sống khó khăn, nhưng tôi không để tâm mấy, trừ việc là chúng tôi không đủ tiền mua sách.

Như tôi đã nói, chúng tôi nghèo, hay thậm chí nên nói là phải cố gắng tằn tiện chi tiêu. Chúng tôi dự định mở một câu lạc bộ nhạc jazz. Với chúng tôi, sống cuộc đời an nhàn với công việc được trọng vọng ở những công ty được trọng vọng đơn giản không phải một lựa chọn. Viễn cảnh đó không thu hút chúng tôi. Vậy nên hai chúng tôi làm việc chăm chỉ và dành dụm tiền. Nếu không trả được tiền máy sưởi, chúng tôi trải những đêm giá rét bằng cách ngủ với lũ mèo, ve vuốt nhau. Nếu đồng hồ báo thức hỏng, chúng tôi chẳng thể mua một cái mới. Nhưng chúng tôi trẻ khỏe và khát khao, chúng tôi có một mục tiêu.

Dù vậy thì không thể mua sách: thực sự rất khó khăn. Không chỉ không mua được, chúng tôi còn thường xuyên phải bán những cuốn mình có để trang trải cuộc sống. Những ngày đó (và giờ không còn nữa) tôi thực sự đã thèm khát sách. Tôi đọc ngấu nghiến cuốn này sang cuốn khác như chạy đua với thời gian. Tôi thấy như thể đó là cách duy nhất mình có thể tiếp tục sống, vậy nên việc không thể mua thêm sách mới rất đau lòng và bóp nghẹt tôi như là không được hít thở không khí trong lành.

Tôi chóng phải đọc lại sách cũ. Và khi không còn sách để đọc lại lần hai, tôi bắt đầu đọc những cuốn còn lại trong kệ của vợ tôi. Chuyên ngành của cô ấy là văn học Nhật Bản, nên cô ấy có rất nhiều quyển tôi chưa từng đọc. Trong số đó có hai tuyển tập “Trọn bộ tác phẩm” khiến tôi tò mò: một là của nhà thơ Miyazawa Kenji (1896–1933) và hai là của Natsume Soseki. Vợ tôi ban đầu dự định viết luận văn tốt nghiệp về Miyazawa Kenji. Cô ấy để dành tiền và mua được trọn bộ các tác phẩm, nhưng rồi giữa chừng cô ấy bỏ dở (tôi không rõ tại sao) và chuyển sang Soseki. Một người bạn của cô đã lấy Soseki làm đề tài luận văn và không còn dùng đến những cuốn sách nữa, nên vợ tôi có thể mua lại với giá rẻ. Đó là giá trị của tính thực tế. Cô ấy cũng có nhiều sách của Tanizaki Junichiro (1886–1965), tác phẩm kinh điển của thế kỷ mười một Truyện Genji, và Thế giới văn chương cho Nam và Nữ của nhà xuất bản Iwanami. Tất cả đều rất khác với sở thích văn chương của tôi, nhưng ít nhất là không có sự trùng lặp – không chút nào.

Vì không còn gì để đọc, lúc có thời gian rảnh tôi tìm đến những quyển sách này, dù không thực sự hứng thú. Miyazawa Kenji, thật lòng mà nói, không ảnh hưởng nhiều đến tôi, và ít nhất tôi ngày ấy cũng chẳng thấy được điều gì có thể thích ở Truyện Genji. Soseki và Tanizaki, trái lại, không tệ. Và cũng vì các tiểu thuyết của Soseki và Tanizaki luôn khiến tôi liên hệ đến cuộc sống nghèo khổ của một cặp vợ chồng son vừa mới 22. Chỗ chúng tôi trong nhà rất lạnh, và nước trong bồn rửa nhà bếp thường đóng băng vào mùa đông. Đồng hồ báo thức bị hỏng, vậy nên muốn biết giờ giấc tôi phải liếc qua cái đồng hồ trước cửa hiệu thuốc lá dưới chân đồi (khi ấy tôi vẫn còn hút thuốc). Chúng tôi có một cửa sổ lớn ở hướng nam, vậy nên chí ít cũng có chút ánh sáng lọt vào, nhưng đường tàu sắt quốc gia Chuo chạy ngang qua cửa sổ, gây ồn kinh khủng (tương tự như căn hộ của Dan Aykroyd cạnh đường tàu cao tốc trong bộ phim Blues Brothers). Khi có đình công và tàu ngưng chạy trong 24 giờ, người khác đều cảm thấy rất bất tiện, nhưng riêng tôi thì nhẹ nhõm vô cùng. Có những lúc tàu chở hàng chạy ngang qua cho tới lúc mặt trời mọc.

Đây chính là hoàn cảnh tôi đã đọc các tác phẩm của Soseki, là lý do mà đối với tôi, chúng ăn sâu vào ký ức việc đọc trong khi nằm dài trong nắng và nghe tiếng gào rú của những chuyến tàu cao tốc ngang qua. Tất nhiên không phải lúc nào mặt trời cũng đổ nắng, nhưng đó là ấn tượng lưu lại mạnh mẽ nhất. Lũ mèo nằm cạnh tôi, ngủ ngoan. Khi ấy tôi không đọc toàn bộ các tác phẩm của Soseki mà chọn những tác phẩm quan trọng nhất, và trong số đó có những quyển tôi thích hơn số còn lại. Những tiểu thuyết yêu thích nhất của tôi là ba cuốn tạo nên cái được gọi là “tuyển tập” đầu tiên của ông ấy, Sanshiro, Sore kara (Rồi sau đó), và Mon (Cánh cổng). Tôi đặc biệt nhớ cảm giác liên hệ mạnh mẽ mà tôi có với Mon, câu chuyện về hai vợ chồng trẻ sống trong điều kiện vô cùng thiếu thốn.

Với tôi, tiểu thuyết nổi tiếng nhất của Soseki, Kokoro (Lòng người), có chút gì đó chưa thỏa mãn, và dù rất thích các tác phẩm về sau này được đánh giá cao về chiều sâu tâm lý, tôi không bao giờ hoàn toàn đồng cảm được với những nỗi thống khổ sâu sắc của tri thức đương thời trong đó. “Cứ nói mãi về những chuyện này thì có nghĩa lý gì cơ chứ?” Tôi hay tự hỏi như thế. Theo hướng này, tôi có phần hơi khác với những người đọc Soseki thông thường. Dù vậy, chắc chắn rằng, “trải nghiệm Soseki” tôi có khi ấy, dù đến muộn màng, vẫn còn in đậm trong tâm trí tôi đến tận bây giờ, và bất cứ khi nào có cơ hội đọc lại các tiểu thuyết của Soseki, tôi vẫn cứ ngạc nhiên trước giá trị của chúng. Soseki vẫn luôn là cái tên đầu tiên bật ra trong đầu tôi khi được hỏi về tác giả Nhật Bản yêu thích nhất.

Khi tôi có được “trải nghiệm Soseki”, phong trào sinh viên đã đi qua giai đoạn mãnh liệt nhất, bầu không khí đã nhanh chóng chuyển sang ôn hòa hơn. Khuôn viên trường đại học vẫn còn đầy biểu ngữ viết những khẩu hiệu chính trị, nhưng khả năng xảy ra một cuộc cách mạng đơn giản đã tan biến (chứ không phải là bắt đầu nhen nhóm, dĩ nhiên), và hy vọng vào cải cách đã nhanh chóng phai nhạt. Những biểu ngữ của lý tưởng hầu hết đều đã bị xếp xó. Janis Joplin, Jimi Hendrix, và Jim Morrison qua đời. Trong bầu không khí vô vọng, tan hoang này, thế giới của những tác gia như Soseki và Tanizaki lần nữa mang lại một ý nghĩa mới. Chúng tôi như hít thở được bầu không khí ấy. Hay ít nhất, tôi cảm thấy như vậy khi nhìn lại từ hoàn cảnh đầm ấm của mình bây giờ. Dù sao chăng nữa, đó chính là cuộc hội ngộ đúng nghĩa đầu tiên của tôi với Soseki. Với riêng tôi, Sanshiro chính là mẫu tiểu thuyết để đọc trên hiên nhà ngập nắng. Dù hoang mang lạc lối, nhân vật chính tựu trung có tầm nhìn hướng về tương lai. Cậu ấy nhẹ ngẩng đầu, và bầu trời cao rộng mở ra trước mắt cậu. Đây chính là ấn tượng mà cuốn sách mang lại. Và thực sự, các nhân vật của cuốn tiểu thuyết không ngừng hướng về bầu trời trong xanh, mà những biến cố xoay quanh họ là phần trọng tâm của câu chuyện.

Những tiểu thuyết thế này hiếm thấy trong văn nghiệp của Soseki – hay có lẽ tôi nên nói là hoàn toàn không tồn tại. Hầu hết các nhân vật chính của ông phải đối mặt với những mâu thuẫn rất đời thực. Họ nếm trải sự khổ não về việc nên sống thế nào, và phải đối diện với những quyết định cuộc đời họ buộc phải đưa ra. Họ đấu tranh quyết liệt để tìm ra chỗ cho mình giữa ước muốn đối lập tiền hiện đại và hiện đại, giữa tình yêu và đạo đức, giữa Tây phương và Nhật Bản. Họ dường như chẳng có thời gian để ngắm nhìn bầu trời. Thay vào đó, những nhân vật xuất hiện trong tiểu thuyết khác của Soseki dường như lúc nào cũng cúi nhìn xuống đất khi bước đi. Những nhân vật trong các tác phẩm về sau này khiến người đọc cảm tưởng họ cũng chịu đựng những cơn đau dạ dày nghiêm trọng nhưng chính tác giả (dù lạ lùng thay, ngòi bút của Soseki không bao giờ mất đi nét hài hước tự nhiên.)

Tuy vậy, nhân vật chính của Sanshiro lại rất khác biệt. Cậu ấy chật vật tìm kiếm vị trí cho riêng mình giữa những cảnh huống rối ren, nhưng cậu không bao giờ hoàn toàn phải đối diện với chúng như vấn đề của chính mình. Trái lại, cậu chấp nhận chúng một cách tự nhiên, với sự cam chịu lãnh đạm của một cậu thanh niên, như thể chấp nhận một điều gì đó hoàn toàn nằm ngoài bản thân. “À, được thôi, đó là lẽ tự nhiên,” cậu có vẻ như vậy. Đau dạ dày chưa kịp thâm nhập vào thế giới của cậu. Tôi nghĩ Sanshiro chính là tiểu thuyết mình yêu thích nhất vì nó miêu tả những chuyển biến tự nhiên của tâm lý nhân vật chính với văn phong dịu dàng vô cùng. Sanshiro nhìn cuộc đời trôi qua như cách mà cậu nhìn mây trắng trôi trên bầu trời. Ánh nhìn vô ưu của cậu cuốn ta theo trước khi kịp nhận ra điều ấy, và rồi ta quên phải khắt khe đánh giá cậu.

Dĩ nhiên, lối sống vô lo, không ràng buộc như thế không thể kéo dài mãi. Một người chợt sẽ nhìn lại và thừa nhận “Mình chưa từng quyết định điều gì cả”, nhưng chuyện này chỉ có thể kéo dài trong một giai đoạn ngắn ngủi – và có lẽ là hạnh phúc của cuộc đời. Cuối cùng, dù muốn hay không, ai cũng mang gánh nặng của trách nhiệm, và một khi ngày đó đến, chẳng còn thể nào mãi ngắm nhìn mây trời nữa. Đây chính là điều đã xảy ra với Daisuke, nhân vật chính trong tiểu thuyết tiếp theo của Soseki, Sore kara (Rồi sau đó), và thậm chí còn bi kịch hơn với Sosuke, nhân vật chính của tác phẩm sau đó, Mon (Cánh cổng). Cùng với nhau, ba tiểu thuyết tạo thành bộ ba mà Soseki hoàn thành như một chuỗi tiểu thuyết đăng từng phần ngắn trên báo trong ba năm, tinh tế khắc họa thanh xuân – và kết thúc thanh xuân – của những tri thức trẻ sống vào thời Minh Trị. Chúng ta có thể gọi ba cuốn tiểu thuyết này là “Tuyển tập Trưởng thành”. Sự trưởng thành của chính Soseki với tư cách một nhà văn trong ba năm ấy cũng nhanh một cách bất ngờ, như một bộ phim tua nhanh.

Nhưng hãy để tôi quay lại với Sanshiro. Nhân vật chính của tiểu thuyết này vẫn còn đang đứng trước bình minh cuộc đời. Cậu vẫn chưa ý thức được những gánh nặng rồi đây mình sẽ phải gánh chịu, và điều này chính là điều đã tạo nên một Sanshiro: một thanh niên trẻ vẫn còn thời giờ để vô tư ngắm nhìn trời xanh mây trắng. Điều chúng ta nhìn thấy không phải là tai ương, mà là điềm báo tai ương sắp đến, những khổ đau vẫn còn chưa thành hình. Soseki chẳng vội vã chút nào với tiểu thuyết này. Ông đứng sau thúc đẩy Sanshiro, giục cậu tiến về phía trước, ép cậu đến những bất hạnh hay thất bại trước giờ chúng đến. Ông chẳng chỉ trích cũng chẳng ngợi ca Sanshiro. Ông đơn thuần để Sanshiro là chính Sanshiro, xây dựng cậu như cậu vốn vậy, tự do và ung dung rỗi rãi, và đây chính là điểm ta thấy được tất cả sự vĩ đại của Soseki.

Khi lần đầu đọc Sanshiro năm hai mươi hai tuổi, chính bản thân tôi cũng không nhận thức được những gánh nặng sắp đến. Tôi vừa mời kết hôn, vẫn còn là sinh viên. Dù khi ấy nghèo khó thế nào, dù còi tàu réo rắt bên ngoài ra sao, tôi vẫn nằm ườn dưới nắng với hai chú mèo vừa mềm vừa ấm ngủ cạnh bên.

Tôi lớn lên trong vùng ngoại ô yên tĩnh của thành phố Kobe và đến Tokyo năm mười tám tuổi khi vào đại học Waseda. Ban đầu tôi không tha thiết đến Tokyo lắm và dự định một hành trình dễ thở hơn ở một trường cao đẳng địa phương, nhưng vào phút cuối tôi lại bắt đầu thấy muốn xa nhà và thử thách bản thân – sống độc lập lần đầu tiên trong đời. Tôi thu dọn đồ đạc và từ biệt bạn gái. Đã gửi trước những kiện hành lý lớn đến ký túc xá, tôi chỉ mang theo mình một chiếc giỏ xách khi lên chuyến tàu shinkansen mới mở ở ga Osaka. Trong túi là bản bìa mềm cuốn Trường âm nhạc (The Music School) của John Updike vẫn còn đọng lại nơi tâm trí tôi như một phần của khoảng thời gian đặc biệt ấy. (Rất đau lòng phải nhắc đến chuyện John Updike vừa qua đời trước khi tôi viết lời giới thiệu này vài ngày.)

Tôi đã làm những điều mà ta thấy Sanshiro làm ở mở đầu tiểu thuyết, đến Tokyo từ tỉnh lẻ để học đại học, dù các chi tiết thì khác. Sanshiro được viết năm 1908, tôi đến Tokyo năm 1968, đúng sáu mươi năm sau. Đi từ Kobe đến Tokyo bằng tàu hơi nước khi ấy mất khoảng mười lăm hay hai mươi tiếng. Với tôi, trên tàu điện shinkansen, chỉ mất có bốn tiếng. Đi từ Kyushu xa xôi đến Tokyo, Sanshiro mất hai ngày đường. Nói cách khác, chúng tôi lớn lên trong môi trường rất  khác nhau. Vị trí xã hội của sinh viên đại học cũng khác. Bất kỳ ai vào đại học vào thời của Sanshiro cũng rất được trọng vọng, nhưng vào thời của tôi, chẳng có gì là đặc biệt. Hệ thống giáo dục cũng khác biệt. Sanshiro vừa tốt nghiệp “trường cao đẳng” (kotogakko), gần với đại học giáo dục khai phóng ngày nay, và cậu đã hai mươi hai tuổi (tuổi tính theo phương Tây) khi nhập học đại học, để học vào chuyên ngành, trong khi tôi mới mười tám. Tuy vậy, có lẽ không có quá nhiều khác biệt giữa chúng tôi, trong nỗi háo hức ở một thành phố xa lạ rộng lớn, khởi đầu một cuộc đời mới.

Không cần phải nói, cuộc tình thoáng qua của Sanshiro đã không xảy đến với tôi trên đường đến Tokyo trên chuyến tàu shinkansen. Cậu ấy qua đêm ở một quán trọ, còn tôi chỉ ngồi bốn tiếng trên tàu cao tốc. Thật sự thì, chuyện tương tự với trải nghiệm Sanshiro đã xảy đến với tôi. Để tiến kiệm chi phí, tôi đã bắt chuyến tàu tốc hành chậm hơn, chuyến Kodama, dừng nhiều chặng hơn chuyến Hikari thông thường, và tại một điểm dừng – Shizuoka, tôi nghĩ – một phụ nữ trẻ đã đến ngồi cạnh tôi. Khoang tàu gần như trống, và cô ấy có thể dễ dàng chọn một ghế hai người ngồi một mình, nhưng cô ấy quyết định ngồi cạnh tôi. Cô ấy là một phụ nữ ngoài đôi mươi xinh đẹp – chưa đến hai lăm – không hẳn là một mỹ nhân, nhưng đủ hấp dẫn. Không ngạc nhiên, việc có cô ấy ngồi cạnh khiến tôi khá căng thẳng.

Khi đã yên vị, cô ấy mở lời với nụ cười thân thiện. Tôi đến từ đâu? Định đi đâu? Cô ấy nói chuyện rất cởi mở, thẳng thắn, và tôi trả lời thành thực nhất có thể. Tôi nói mình đến từ Kobe và sắp học đại học ở Kobe, sẽ học chuyên ngành văn học, rằng tôi thích đọc sách, chắc sẽ sống ở ký túc xá trong khu Mejiro, chuyện tôi là con một, vân vân và vân vân. Tôi không nhớ chi tiết. Thậm chí ngay lúc đó đầu óc của tôi cũng không tập trung, các câu trả lời của tôi có vẻ lạc đề.

Dù thế nào, cô ấy cũng đã ngồi cạnh tôi suốt đường đến Tokyo. Chúng tôi nói chuyện suốt, tôi nhớ cô ấy đã mua cho tôi ít thức uống. Chúng tôi bước xuống sân ga khi tàu đến Tokyo. “Chúc may mắn ở trường, học chăm nhé,” cô ấy nói với tôi, và rồi đi mất với một cái vẫy tay. Đó là kết thúc câu chuyện. Tôi không rõ tại sao cô ấy lại chọn ngồi kế mình trong toa tàu gần như trống ấy. Có thể cô ấy chỉ muốn có người trò chuyện cùng và thấy một thằng nhóc như tôi sẽ không nguy hại gì (tôi khá chắc là thế). Hay có thể cô có em trai trạc tuổi tôi. Dù lý do là gì, cô ấy đã bỏ tôi lại sân ga Tokyo với cảm giác kỳ lạ, gần như là lâng lâng. Đó là khởi đầu cuộc sống mới của tôi ở Tokyo, phảng phất mùi hương phụ nữ, mùi hương diệu kỳ của một phụ nữ trẻ, như là điềm báo cho những việc sắp đến. Không nghi ngờ gì, những mùi hương như thế đã giúp tôi quyết định hướng đi đời mình từ thời điểm ấy.

Giờ thì tôi đã đọc Sanshiro vài lần rồi, và lần nào nó cũng gợi tôi nhớ về giai đoạn đó của cuộc đời mình. Cuốn sách luôn làm sống dậy trong tôi cảm giác lạ lùng ngày mới lên Tokyo và nhận thấy mình đang từ từ mà chắc chắn xa rời những con đường quê, khỏi cuộc sống tôi đã bỏ lại phía sau, xa cả hệ giá trị mà tôi biết đến trước đó. Thực sự, tôi không biết chắc có gì tồn tại thay thế những điều ấy không. Tôi vừa mang cảm giác khấp khởi tự do, vừa sợ hãi cô đơn, như một nghệ sĩ nhào lộn vừa bỏ qua một cú nhào lộn trước khi biết chắc có cú tiếp theo để thực hiện.

Điều biến Sanshiro thành một tiểu thuyết xuất sắc như vậy, với tôi chính là cách nhân vật chính, Sanshiro, không bao giờ cởi mở bày tỏ mâu thuẫn giữa niềm vui và nỗi sợ của mình. Điều ấy không hiển hiện ra bên ngoài – theo kiểu “tâm lý phức tạp” của tiểu thuyết hiện đại. Trong câu chuyện, Sanshiro luôn là một người quan sát. Cậu chấp nhận và để mọi chuyện trôi ngang qua cuộc đời mình. Đôi khi cậu cũng có nhận xét điều này điều kia tốt xấu, về sở thích sở ghét của bản thân, thi thoảng lại miêu tả lại những ấn tượng của mình với ngôn ngữ mượt mà đáng kể, nhưng luôn chỉ ở dạng “đề xuất kết án”. Cậu ấy dành nhiều năng lượng tinh thần hơn cho việc quan sát và suy nghĩ. Cậu không mặn mà gì chuyện nhặt nhạnh chất liệu cho một quyết định được đưa ra về sau. Bước chân của cậu không hề nhẹ nhàng; thực ra, cậu có thể lóng ngóng, nhưng đồng thời cũng chẳng khập khiễng bước đi. Soseki đã thành công trong việc xây dựng chàng trai tỉnh lẻ ngây thơ – nhưng cơ bản vẫn tri thức và, được chu cấp dư dả theo cách của riêng mình – với một quan điểm tự do và cởi mở.

Sự tự do và cởi mở này, đi cùng với mối nguy hiểm ẩn sau bối cảnh, đều là bản chất tuổi trẻ của riêng Sanshiro, và có lẽ, của chính Nhật Bản, giai đọa chuyển-giao-thế-kỷ được biết đến như “trung-hậu Minh Trị”. Trong dấu chân và ánh nhìn tràn đầy sức trẻ của Sanshiro, ta có thể thấy những điểm tương đồng với một quốc gia trong giai đoạn tăng trưởng bùng nổ, nhịp đập tăng cao của nó khi bỏ lại hệ thống lỗi thời, hít sâu bầu không khí văn hóa Tây phương mới lạ, và tự vấn về định hướng và mục tiêu tương lai của mình. Nhưng cả trong dấu chân hay ánh nhìn ta đều không thấy được sự nhất quán mạnh mẽ. Hiện tại chuyện tưởng như ở thế cân bằng, nhưng chẳng ai biết trước điều gì sắp xảy đến khiến họ vấp ngã.

Tuy vậy, có một nhân vật có vẻ cảm thấy được mối nguy sắp đến. Giáo sư Hirota, vị tiền bối kỳ lạ mà Sanshiro tình cờ gặp mặt trên tàu lửa nội ô Tokyo, cũng là người thầy tương lai, dự đoán mộ số phận không mấy dễ dàng của Nhật Bản. Nhật Bản có thể vênh váo như cường quốc hạng nhất sau chiến thắng trong chiến tranh Nga – Nhật (năm 1905, chỉ ba năm trước sự ra đời của cuốn tiểu thuyết), nhưng vẫn là một đất nước với bộ rễ còn nông cạn. Người Nhật có gì để khoe khoang ở nước ngoài? Đỉnh Phú Sĩ? Nó chẳng hơn gì một thực thể tự nhiên đã luôn tồn tại ở đó. Người Nhật đâu làm ra nó. Nhật có thể tạo nên ấn tượng một nước đã hiện đại hóa, Giáo sư chỉ ra, nhưng đó chỉ là bề mặt. Về mặt tâm lý, đất nước vẫn còn đặt một chân rất sâu trong thế giới tiền hiện đại.

Sanshiro không đặc biệt yêu nước, nhưng những lời nói của người đàn ông lạ đã xúc phạm đến cậu, và cậu làm hết sức để biện hộ cho đất nước mình: “Nhưng mà từ bây giờ, Nhật Bản sẽ dần dần mạnh lên, phải vậy không?” Người đàn ông đáp lại lạnh lùng “Nhật Bản rồi sẽ suy vong.” Sanshiro sốc, nhưng đồng thời cũng ngưỡng mộ người đàn ông. Cậu ấy nghĩ, hẳn rồi, người Tokyo có khác. Chẳng ai ở đảo Kyushu quê cậu (một vùng đặc biệt bảo thủ) dám thốt lên những lời kinh hoàng như vậy. “Nhật Bản rồi sẽ suy vong.” Nhưng Sanshiro chẳng bao giờ tự hỏi “Tại sao?”

Cậu phải nhìn thế giới với nhãn quan rộng mở hơn, Giáo sư khuyên răn Sanshiro, và quan trọng hơn, cậu phải khắt khe với chính mình. Có thể ông ấy đang cố tình khiêu khích, nhưng những lời của ông dần trở thành lời tiên tri dọc theo câu chuyện – lời cảnh báo – với cả yểu mệnh tiềm tàng của Nhật Bản, cũng như với giới hạn tâm lý của tri thức Minh Trị trẻ tên Sanshiro.

Sanshiro được cho một lời tiên đoán khác, trực tiếp hơn về mặt tình ái. Đó là từ người phụ nữ cậu gặp trên tàu mà tình cờ khi dừng chân ở Nagoya cậu đã chia sẻ căn phòng. Khi từ biệt sáng hôm sau, cô nhìn cậu vẻ biết tuốt và nói “Anh đúng là một gã nhát gái”, vừa giễu nhại vừa thất vọng về chuyện cậu đã không thể có xíu xiu chủ động nào với cô vào đêm hai người ở cùng. Sanshiro “cảm giác như vừa bị ném thẳng từ trên cao xuống đất” khi nghe điều này. Hai tai cậu nóng bừng bừng trong hồi lâu; cậu biết điều ngăn mình chạm vào cô gái khuya vừa rồi không phải là giới hạn đạo đức mà đơn giản là sự thiếu tự tin. Bản năng phụ nữ của cô ấy đã bắt thóp được điểm yếu kinh khủng nhất của cậu.

Một cách mãnh liệt nhất, Sanshiro tin vào hai lời tiên tri/cảnh báo kia từ tận đáy lòng khi hòa mình vào cuộc sống mới ở Tokyo. Về mặt này, từ Kyushu đến Tokyo là chuyến tàu đầu tiên trong chuỗi nghi thức chuyển mình của Sanshiro. Nói theo kiểu thần thoại, hai lời tiên tri thuộc mô tuýp quen thuộc quan trọng của chàng hoàng tử ngây thơ đặt chân vào rừng sâu. Liệu Sanshiro có vượt qua hai lời tiên tri này trên chặng đường trưởng thành? Liệu anh hùng trẻ tuổi này có dấn thân vào rừng sâu bí ẩn, chiến đấu với cái bóng của chính mình, và giành lấy cho bản thân chí ít một phần túi khôn đang chờ cuối con đường?

Chẳng có câu trả lời dễ dàng nào chờ đợi độc giả của Sanshiro, cuốn tiểu thuyết chỉ chứa đựng những chỉ dẫn mơ hồ nhất của bí ẩn. Nhân vật chính chẳng có mấy dấu hiệu sẵn sàng đối đầu với một ai hay giành lấy thứ gì đó về tay mình. Thực sự, anh ta vẫn chưa rõ ngoài kia có gì để mình giành lấy. Biến một người như thế thành một anh hùng huyền thoại thực sự bất khả. Về mặt này, Sanshiro khá khác biệt với tiêu biểu của thể loại bildungsroman của văn học châu Âu đương đại, trong đó một nam/nữ thanh niên tầm tuổi Sanshiro từ tỉnh lẻ, còn ngây thơ – đối mặt với rất nhiều trở ngại, chịu đựng nhiều tổn thương và thất bại, thiết lập được những giá trị tinh thần và tình cảm mới, trưởng thành và vượt qua cánh cổng bước vào một xã hội rộng lớn hơn, giờ đây đã là một “công dân” đủ lông cánh, như trong Jean-Christophe của Romain Rolland, hay L’Éducation Sentimentale của Flaubert.

So với những tiểu thuyết này, quá trình trưởng thành của Sanshiro không đều đặn liên tục mấy. Cậu vấp ngã, cậu vỡ mộng, nhưng dù chuyện không xảy đến như cậu đã kỳ vọng, câu chuyện không bao giờ nói rõ liệu chừng ấy trải nghiệm có tích tụ lại mà đánh gục Sanshiro, hay, vạch ra một tiêu chuẩn rõ ràng đâu là định nghĩa “gục ngã” trong tâm trí của Sanshiro. Đối mặt với tình huống trước mắt mình, nếm trải những khổ đau nó mang lại, yêu cầu một câu trả lời từ nó: những điều ấy hoàn toàn không có ở Sanshiro. Khi chuyện không lường trước xảy đến, Sanshiro đơn giản chỉ cảm thấy ngạc nhiên, cảm động, bối rối hay ấn tượng.

Ở Tokyo, Sanshiro gặp lại Giáo sư Hirota, người anh tình cờ gặp trên tàu, và bắt đầu xem ông ấy là thầy. Không có nhiều dấu hiệu chuyện Sanshiro thấy được một phương pháp để học điều gì đó quan trọng từ người thầy đã dẫn dắt cậu vào một cuộc đời đẳng cấp hơn. Cậu chỉ đơn giản quan sát Giáo sư như quan sát một đám mây kỳ vĩ trôi ngang bầu trời. Cậu cũng làm tương tự với vòng tròn quan hệ bé nhỏ của mình, nhìn họ như những đám mây đẹp đẽ và thú vị. Cậu có chút gì hướng theo lối sống của Giáo sư, nhưng chẳng bao giờ cậu xem đó là tấm gương để noi theo. Cậu rơi vào lưới tình với một trong số những cô bạn đồng trang lứa, Mineko xinh đẹp và thông minh (cô có vẻ bị thu hút bởi vẻ ngây thơ tột độ của Sanshiro), nhưng chẳng chút nào chủ động kéo cô về thành của mình. Cả về đời sống tinh thần lẫn tình ái, cậu luôn giữ mình trong một giới hạn an toàn. Không lần nào cậu buộc mình vào với lý trí.

Có thể Sanshiro ấp ủ quá ít khát khao trưởng thành của một người trẻ, hay cậu chẳng có chút khái niệm gì về điều làm nên một “công dân”. Từ quan điểm Tây phương, biểu hiện của cậu có lẽ quá thiếu chín chắn và vô trách nhiệm, cả trên phương diện cá nhân lẫn xã hội. Cậu đã hai mươi hai tuổi (và hai mươi ba theo tuổi Nhật), và là một sinh viên tại Đại học hoàng gia Tokyo dưới thời Minh Trị, cậu thuộc vào tầng lớp tinh hoa, sẽ góp phần gánh vác những trọng trách quốc gia. Làm thế nào một nhân vật như thế có thể khoanh tay đứng đó, thiếu chính kiến, không thể tự chọn hướng đi đời mình? Nếu một bạn đọc nước ngoài hỏi tôi câu ấy, tôi có lẽ không thể trả lời gì ngoài, “Có lẽ anh nói đúng.” Tuy vậy, thật lòng thì, kiểu khoanh tay lãnh đạm với đời gợi nhiều suy tư cả về tư duy lẫn đạo đức trong vỏ bọc xúc cảm mềm mỏng nhất có thể như thế, lạ lùng thay, lại rất thoải mái với tôi và hầu hết độc giả Nhật Bản.

Theo nghĩa này, có thể định nghĩa Sanshiro như một tiểu thuyết về sự lớn lên mà không có trưởng thành. Sanshiro ngây thơ bước chân vào một thế giới mới, và dần người lớn hơn nhờ gặp gỡ những người mới, có những trải nghiệm mới, nhưng chuyện cậu có bao giờ trưởng thành được đến mức bước ra xã hội như một “công dân trưởng thành” theo lối hiểu của người phương Tây vẫn còn là dấu hỏi lớn. Chẳng có tác động ngoại cảnh nào từ xã hội thúc đẩy cậu làm điều ấy, vì xã hội Nhật Bản đã chuyển từ chế độ phong kiến sang quân chủ chuyên chế tồn tại đến Thế chiến thứ hai mà không chứng kiến quá trình trưởng thành của tầng lớp trung lưu. Đây là điều mà tôi cảm thấy rõ rệt.

“Sự hiện đại” Tây hóa theo nghĩa đó chưa bén rễ vào Nhật Bản thời Minh Trị, cũng như đến nay vẫn chưa từng bén rễ. Tốt hay xấu gì thì khái niệm “công dân trưởng thành” không quan trọng với chúng tôi lắm (không ai dám khẳng định thế nào là tốt, xấu). Đây có lẽ chính là lý do Sanshiro đã trở thành một tác phẩm kinh điển bất hủ với người Nhật, luôn thu hút một lượng độc giả ổn định đồng cảm sâu sắc qua hàng năm trời. Tôi khó mà ngăn những suy nghĩ ấy khi đọc cuốn tiểu thuyết.

Là một độc giả chăm chỉ và nhà nghiên cứu xuất sắc văn chương Anh ngữ, Soseki hẳn nắm rõ khái niệm phương Tây bildungsroman, và lối kể chuyện của ông mượt mà đúng chất Jane Austen. Ông sẵn sàng áp dụng cấu trúc tiểu thuyết phương Tây như kiểu mẫu và biến đổi chúng theo cách của riêng mình. Thực tế, với vốn kiến thức vững vàng về cả hai nền văn hóa (phương Tây và Nhật Bản), ông chính là tác giả có thể cho ra một sự kết hợp hoàn hảo: Soseki cực kỳ sành sỏi văn chương Anh ngữ, và vài tác phẩm trong tuyển tập “Trọn bộ tác phẩm” của ông thể hiện trình độ tiếng Anh bậc thầy, nhưng ông cũng viết thơ haiku suốt thời trẻ và được đào tạo bài bản về những tác phẩm Trung Hoa kinh điển.

Kết quả là, trong Sanshiro, bất chấp cấu trúc Tây phương của nó, quan hệ nhân quả đôi khi không rõ ràng, yếu tố hữu hình và siêu hình kết hợp, khẳng định và phủ nhận gần như khó phân biệt. Đây hiển nhiên là lựa chọn có chủ đích của tác giả, và Soseki mượt mà dẫn dắt câu chuyện trong khi vẫn giữ sự mơ hồ căn bản này bằng cách đưa vào tác phẩm của mình khiếu hài hước phức tạp độc đáo, phong cách tự do, lối mô tả chân thực và trên tất cả là sự trung thực giản đơn của nhân vật chính.

Soseki vẫn luôn được biết đến như “nhà văn quốc dân” của Nhật Bản, và tôi sẽ không tranh cãi về danh hiệu này. Dưới dạng tiểu thuyết phương Tây hiện đại, ông đã khéo léo và chính xác chuyển tải nhiều dạng thức và chức năng của tâm thức Nhật Bản ông quan sát được quanh mình, điều mà ngày nay chúng ta dễ dàng nhận thấy. Ông đã làm điều ấy với sự trung thực tột cùng, và do đó, cũng gặt hái thành công tuyệt vời.

Sanshiro là tiểu thuyết duy nhất của Soseki viết về tuổi trưởng thành của một chàng trai trẻ. Một tiểu thuyết có lẽ không đặc biệt quan trọng trong văn nghiệp của ông, nhưng ông đã phải viết ít nhất một tác phẩm như thế. Thực sự mọi tiểu thuyết gia đều có một tác phẩm như thế. Trường hợp của tôi chính là Rừng Na Uy (1987). Tôi không đặc biệt muốn đọc lại nó, hay có mong muốn viết một cuốn tiểu thuyết tương tự, nhưng tôi cảm thấy nếu hoàn thành nó, tôi sẽ tiến được một bước xa hơn, rằng sự tồn tại của tác phẩm đó sẽ tạo nền tảng vững chắc cho những tác phẩm về sau của tôi. Cảm xúc ấy rất quan trọng với tôi, và tôi tưởng tượng (dựa trên kinh nghiệm bản thân) Soseki cũng từng cảm thấy như thế với Sanshiro. Tôi rất nóng lòng muốn thấy phản ứng của độc giả nước ngoài với Soseki – đặc biệt là với Sanshiro – trong bản dịch chính xác và sinh động này. Tôi sẽ rất vui nếu bạn đọc yêu thích cuốn sách. Nó là một cuốn sách yêu thích của tôi, và tôi ngờ rằng chính bạn sẽ thấy, dù bạn đến từ đâu trong thế giới này, tuổi trẻ của bạn thành hình và định hướng ra sao, phong vị đặc biệt của giai đoạn quan trọng trong đời mà ta trải qua ấy đều như nhau.

Hết.

Murakami Haruki

Trần Nguyễn Tâm Anh dịch.
Ảnh trong bài: Tao Đàn

*

Muôn màu của Haruki Murakami





Click to comment

Viết bình luận

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Trách nhiệm thuộc về ai khi thiên nhiên hoang dã trở thành “tội phạm”?

Gấu đen đột nhập nhà dân, cây cối bị tình nghi gây ra án mạng, con nai băng qua đường không đúng luật. Nếu thiên nhiên phạm luật thì ai sẽ là người chịu trách nhiệm?

Published

on

Trong thế giới ngày càng đô thị hóa, ranh giới giữa lãnh địa con người và thiên nhiên hoang dã trở nên mong manh hơn bao giờ hết, dẫn đến những cuộc "chạm trán" dở khóc dở cười. Mary Roach đã khám phá thế giới kỳ thú nơi luật pháp - con người giao thoa, xung đột với bản năng tự nhiên trong Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật.

Giải mã "tội ác" của thiên nhiên

Mary Roach mở đầu Fuzz bằng cách đặt ra một câu hỏi tưởng chừng đơn giản nhưng lại khơi gợi vô số vấn đề phức tạp: Điều gì xảy ra khi thiên nhiên "phạm luật"? Không chỉ là những con thú lớn như gấu hay báo sư tử gây rắc rối ở vùng ngoại ô, danh sách "tội phạm tự nhiên" của Roach còn bao gồm cả những loài chim ăn trộm nông sản, những con khỉ tinh ranh ở Ấn Độ, những hạt đậu độc gây chết người hay thậm chí là những cái cây vô tri bị xem là mối nguy hiểm tiềm tàng.

Roach không ngồi yên trong phòng viết mà xông pha thực địa. Bà tham dự một khóa học về an toàn khi gặp thú dữ, theo chân các nhà khoa học điều tra hiện trường các vụ tấn công của động vật hoang dã, thậm chí nếm thử các loại thực vật bị xem là "có vấn đề".

Sách Fuzz - Khi tự nhiên phạm luật (trái) và tác giả Mary Roach.

Khi tìm hiểu về những con voi ở Bắc Bengal thích chè chén, say xỉn, bà cho biết voi uống thứ mà dân làng thường uống: haaria, loại rượu pha chế tại nhà được lên men và dự trữ với số lượng đủ để làm say một con voi. "Theo Sĩ quan Raj, có hai điều xảy ra khi voi say xỉn. Hầu hết chỉ lạc đàn và ngủ quên. Nhưng dường như mọi đàn đều có một kẻ say xỉn hung hăng, thường là con đầu đàn hoặc voi đực đang trong kỳ musth. Trên đời, dù bạn có muốn mạo hiểm thế nào chăng nữa thì cũng phải tránh xa một con voi đực say xỉn", Roach viết.

Trọng tâm của Fuzz không phải là việc kết tội thiên nhiên mà là nỗ lực giải mã những hành vi bị xem là "phạm luật" ấy dưới góc độ khoa học. Tác giả đưa độc giả đi sâu vào thế giới của sinh thái học hành vi, di truyền học bảo tồn, khoa học pháp y động thực vật và quản lý động vật hoang dã.

Cụ thể như việc tìm hiểu các nghiên cứu tập tính nhằm hiểu rõ hơn về cách động vật di chuyển, kiếm ăn, và phản ứng với sự hiện diện của con người, từ đó xây dựng các biện pháp phòng ngừa hiệu quả hơn, như thiết kế hàng rào chống gấu, tạo hành lang di chuyển an toàn cho động vật hoang dã...

Con người nằm ở đâu trong "tội ác" này?

Một trong những thông điệp ngầm nhưng mạnh mẽ xuyên suốt Fuzz là sự tự vấn về vai trò của con người trong các cuộc xung đột với thiên nhiên. Mary Roach đặt câu hỏi: Liệu việc phá hủy môi trường tự nhiên, thay đổi cảnh quan, để thức ăn ngoài trời, vứt rác không đúng cách đã vô tình "mời gọi" động vật hoang dã vào những tình huống rắc rối?

Theo tìm hiểu của Roach, một con gấu vào khu dân cư tìm thức ăn không phải vì nó "xấu tính". Mà có thể vì nguồn thức ăn tự nhiên của nó bị suy giảm hoặc vì thùng rác của con người quá hấp dẫn, dễ tiếp cận. Bà không đổ lỗi cực đoan nhưng chỉ ra nhiều "tội ác" của thiên nhiên thực chất là hậu quả trực tiếp hoặc gián tiếp từ hành động của con người.

Cuốn sách cũng nhắc đến những tình huống tiến thoái lưỡng nan về đạo đức, thực tiễn trong việc quản lý xung đột. Từ những người ủng hộ biện pháp cứng rắn để bảo vệ tài sản và tính mạng con người, đến những nhà bảo tồn nỗ lực tìm kiếm giải pháp nhân đạo hơn, tác giả để độc giả tự suy ngẫm về sự phức tạp của việc tìm kiếm điểm cân bằng. Làm thế nào để vừa bảo vệ lợi ích của con người, vừa tôn trọng quyền sống và không gian sinh tồn của các loài khác?

Theo Nguyệt Dạ | ZNews

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Nếu từng khóc khi xem phim “Mưu cầu hạnh phúc”, thì đây là cuốn sách bạn nên đọc

Published

on

Trong bộ phim Mưu Cầu Hạnh Phúc (The Pursuit of Happyness) ra mắt vào năm 2006 của đạo diễn Gabriele Muccino, diễn viên Will Smith vào vai Chris Gardner - một người cha đơn thân thất nghiệp, vô gia cư, phải vật lộn giữa cuộc sống bấp bênh, những đêm ngủ ở nhà ga, và giấc mơ đổi đời từ một chương trình thực tập không lương. Đó là một hành trình đầy khổ đau, nước mắt, nhưng cũng là bản hùng ca của lòng kiên cường và khát khao vươn lên.

Cùng năm 2006, chuyên gia tâm lý học Jonathan Haidt cho ra đời Giải Mã Hạnh Phúc, một công trình kết nối những minh triết cổ đại với khoa học hiện đại để trả lời câu hỏi muôn thuở: Hạnh phúc là gì, và làm sao để có được nó?

Khi đặt nhân vật Chris Gardner bên cạnh các giả thuyết về hạnh phúc của Haidt, ta nhận ra: Có những chân lý không bị mài mòn bởi thời gian hay hoàn cảnh, chẳng hạn như việc hạnh phúc không đến từ việc trốn tránh khổ đau, mà từ cách ta bước xuyên qua nó.

Will Smith và con trai Jaden Smith trong Mưu Cầu Hạnh Phúc.

"Con voi" và "người cưỡi voi": Cảm xúc và lý trí trong hành trình sinh tồn

Tác giả Jonathan Haidt dùng hình ảnh “con voi và người cưỡi voi” để ví von mối quan hệ giữa cảm xúc (con voi) và lý trí (người cưỡi). Trong phim, Chris Gardner nhiều lần bị cảm xúc dồn vào chân tường: Khi bị đuổi khỏi nhà, khi mất chỗ ngủ, khi con trai hỏi “Chúng ta có nhà không?”. Nhưng chính trong những khoảnh khắc ấy, “người cưỡi voi” - lý trí, bản lĩnh, lòng tin của Chris - vẫn kiên định dẫn đường.

Anh không để cảm xúc giận dữ, tuyệt vọng kiểm soát mình. Anh chọn hành động, kiên trì học hỏi, giữ vững phẩm giá ngay cả khi lau dọn toilet công cộng để có thêm chút tiền. Dù cảm xúc có lúc muốn gục ngã, anh vẫn tiếp tục hành động có lý trí, không để cơn tuyệt vọng làm tê liệt mình. Những lúc phải ngủ ở ga tàu với con trai, Chris vẫn giữ lòng tự trọng và tiếp tục cố gắng, giống như một người cưỡi đang cố gắng điều khiển một con voi đầy hoảng loạn.

Điều kiện ngoại cảnh và “ngưỡng hạnh phúc”

Sách Giải Mã Hạnh Phúc chỉ ra rằng con người có “mức độ hạnh phúc” nhất định. Ta có thể vui hoặc buồn nhất thời vì sự kiện bên ngoài, nhưng sau đó sẽ quay về mức hạnh phúc trung bình của mình. Thế nhưng, Haidt cũng lưu ý rằng có những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng lâu dài đến hạnh phúc: nghèo đói, cô lập, hoặc bị sỉ nhục kéo dài.

Chris Gardner trải qua gần như tất cả những điều này, nhưng thay vì cam chịu, anh đã cố gắng tìm nhiều cách khác nhau để xoay chuyển số phận của bản thân, dẫu có những lúc rơi vào cảnh nghèo túng đến mức chỉ còn vỏn vẹn 30 đô la trong ví. Vì đã nỗ lực tự mình thay đổi hoàn cảnh nên khi thành công đến, anh không chỉ nhận được phần thưởng vật chất mà kèm theo đó còn là cảm giác xứng đáng, sự gắn kết với con trai, và lòng tự tôn được củng cố.

Ý nghĩa và mục đích sống: Cội nguồn của hạnh phúc bền vững

Haidt cho rằng hạnh phúc bền vững không đến từ việc theo đuổi khoái lạc (pleasure), mà đến từ việc sống có mục tiêu, có giá trị. Chris Gardner không chỉ muốn giàu mà hơn thế nữa, anh muốn trở thành một người cha xứng đáng, một con người có giá trị. Tình yêu dành cho con trai là kim chỉ nam dẫn lối, khiến anh không bỏ cuộc dù bị cả thế giới quay lưng.

Điều này khớp với một câu nói của triết gia Friedrich Nietzsche: "Nếu bạn có một lý do đủ lớn để sống, bạn có thể chịu đựng hầu hết mọi nỗi đau." (He who has a why to live for can bear almost any how).

Hạnh phúc không phải đích đến, mà là hành trình

Cuối phim, khi Chris được nhận vào làm chính thức, anh rưng rưng cố không bật khóc giữa đám đông, chạy vội đến nhà trẻ của con trai và ôm lấy con. Đó không chỉ là giây phút hạnh phúc đơn thuần, mà còn là sự giải phóng sau bao tháng ngày chịu đựng và không từ bỏ. Từ một nhân viên chào bán thiết bị y tế, cuộc đời Chris đã thay đổi. Đó là minh chứng cho giả thuyết cuối cùng của Haidt: “Hạnh phúc không phải là thứ mà bạn có thể tìm thấy, có được hoặc đạt được một cách trực tiếp. Bạn phải có được các điều kiện phù hợp và sau đó chờ đợi. Một số điều kiện đó nằm trong bạn, chẳng hạn như sự gắn kết thống nhất giữa các phần và cấp độ trong tính cách của bạn. Các điều kiện khác yêu cầu mối quan hệ với những thứ bên ngoài bạn: giống như cây cối cần mặt trời, nước và đất tốt để phát triển, con người cũng cần tình yêu, công việc và sự kết nối với một điều gì đó lớn lao hơn.”

Mưu Cầu Hạnh Phúc không kể lại con đường đạt đến thành công của một người đàn ông, mà đã khắc họa lại lòng kiên trì bền bỉ và ý chí quyết tâm vượt lên số phận. Giải Mã Hạnh Phúc không dạy ta cách để luôn hạnh phúc, mà cho ta công cụ để hiểu hạnh phúc thật sự là gì. Một bên là nhân vật trong phim, một bên là những giả thuyết được đúc kết từ hàng ngàn năm trí tuệ của nhân loại, giao nhau tại điểm giữa: sự gắn kết với cuộc sống, niềm tin vào một điều tốt đẹp và cao cả hơn chính bản thân mình.

Lam

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Những thương hiệu quốc dân ‘vang bóng một thời’

Theo VnExpress – Xà bông Cô Ba, máy may Sinco, nước ngọt Con Cọp, kem đánh răng Hynos và Dạ Lan từng là những cái tên dẫn đầu thị trường, nhưng dần sa sút khi công ty chủ quản bỏ thương hiệu hoặc bán vốn cho đối tác.

Published

on

Xà bông Cô Ba là nhãn hiệu do ông Trương Văn Bền thành lập năm 1932 ở khu vực chợ hóa chất Kim Biên (quận 5, TP HCM).

Trong cuốn Sài Gòn tạp pín lù, học giả Vương Hồng Sển nói rằng hình ảnh in trên bao bì viên xà bông là cô Ba Thiệu, con thầy Thông Chánh, quê gốc Trà Vinh. Bà là người đăng quang cuộc thi hoa hậu đầu tiên tổ chức năm 1865 ở Sài Gòn. Tuy nhiên, cũng có thông tin khác cho rằng người phụ nữ này là vợ ông Trương Văn Bền. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Xà bông Cô Ba được ưa chuộng khắp miền Nam lúc bấy giờ nhờ chất lượng tốt, giá thành phải chăng. Theo lời học giả Vương Hồng Sển, xà bông "bán chạy vo vo", sản xuất đến đâu hết đến đó. Thương hiệu này có giai đoạn đánh bật sự độc quyền của Hãng xà bông Marseille (Pháp).

Đất nước thống nhất, công ty của ông Trương Văn Bền hoạt động theo mô hình doanh nghiệp nhà nước với tên gọi Nhà máy công tư hợp doanh xà bông Việt Nam, sau đó đổi tên thành Công ty Sản xuất và Thương mại Phương Đông. Sản phẩm xà bông Cô Ba dần vắng bóng khỏi thị trường. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Cuối năm 2017, Công ty Bất động sản An Dương Thảo Điền mua 48,68% cổ phần Công ty Phương Đông. Lãnh đạo công ty nói rằng Xà bông Cô Ba vẫn có chỗ đứng trong lòng người tiêu dùng nên sẽ khôi phục dây chuyền sản xuất với sản lượng ước tính vài chục tấn mỗi năm, chủ yếu để bảo tồn thương hiệu gần trăm tuổi.

Chia sẻ với VnExpress, lãnh đạo An Dương Thảo Điền từng nói: "Tham gia ngành hàng tiêu dùng nhanh là cuộc chơi đòi hỏi vốn lớn và nhiều rủi ro, trong khi đây không phải thế mạnh của chúng tôi nên phương án được ưu tiên là hợp tác với các nhà sản xuất, phân phối có kinh nghiệm. Chúng tôi sẽ đóng góp công thức, bản quyền thương hiệu... để thành lập một liên doanh khôi phục Xà bông Cô Ba".

Trong ảnh là tòa nhà từng là trụ sở của xà bông Cô Ba nằm ở số 20 đường Kim Biên, bên hông chợ Kim Biên.

Nước ngọt Con Cọp có mặt ở hầu hết hàng quán ăn uống trước năm 1975 do tập trung vào phân khúc tiêu dùng bình dân, trong khi Coca-Cola thời đó ở phân khúc cao hơn. Đây là sản phẩm của Usine Belgique, nhà máy sản xuất nước giải khát lớn nhất miền Nam, thuộc tập đoàn BGI (Pháp). Nhà máy này cũng là nơi ra đời của bia Lade trái thơm và bia 33 Export.

Tờ áp phích có dòng chữ "nước ngọt Con Cọp mỗi chai, là nguồn vui mạnh kéo dài tuổi xuân" quen thuộc với người tiêu dùng. Ảnh tư liệu

Hai năm sau ngày đất nước thống nhất, Tập đoàn BGI chuyển quyền sở hữu và bàn giao toàn bộ nhà máy cho nhà nước với tên gọi Nhà máy nước ngọt Chương Dương. Nhãn hiệu Con Cọp biến mất từ đó, thay bằng các dòng sản phẩm xá xị mang thương hiệu Chương Dương. Ảnh lật sau là vị trí Công ty nước ngọt BIG nay là trụ sở công ty nước giải khát Chương Dương, 606 Võ Văn Kiệt.

Máy may Sinco ban đầu được nhập khẩu nguyên chiếc từ Nhật Bản, sau đó có nhà máy lắp ráp và đặt trụ sở chính trên đường Trần Hưng Đạo (quận 1 ngày nay). Nơi đây từng là biểu tượng quen thuộc của người dân Sài Gòn với biểu tượng máy may bàn đạp trên nóc tòa nhà. Hiện nay, tòa nhà đang được sử dụng làm cơ sở cho một phòng khám. Ảnh: Lynn Roylance

Trước ngày đất nước thống nhất, Sinco có đại lý phân phối khắp nội thành Sài Gòn và các tỉnh. Trong các tờ rơi quảng cáo, thương hiệu này giới thiệu ưu điểm chính là "may khéo, thêu đẹp, sửa chữa miễn phí" và cam kết bảo hành 20 năm. Sinco nổi tiếng với độ bền cao, thao tác đơn giản nên được nhiều gia đình và xưởng dạy nghề may ưa dùng.

Sau giải phóng, Sinco được quốc hữu hóa và trở thành Xí nghiệp liên hiệp Máy may Sinco. Doanh nghiệp này được cổ phần hóa những năm đầu 2000 và chuyển hướng sản xuất máy móc phục vụ công nghiệp và nông nghiệp như dây chuyền giết mổ gia cầm, chế biến lúa gạo, tiêu… Trụ sở công ty cũng được dời về huyện Bến Lức, Long An. Ảnh tư liệu

Hynos là hãng kem đánh răng do một người Mỹ gốc Do Thái thành lập và chuyển giao cho ông Huỳnh Đạo Nghĩa sau khi về nước.

Ông chủ mới nhanh chóng cải tiến mẫu mã và đưa Hynos tới gần người tiêu dùng bằng phương thức tiếp thị độc lạ thời đó: phát nhạc quảng cáo ra rả trên loa phóng thanh gần các cửa hàng bách hóa và đặt biển quảng cáo ở những vị trí đắc địa của Sài Gòn.

"Nụ cười anh Bảy Chà" và đoạn quảng cáo "trồng lúa mới có gạo mà ăn, thế mà có người đã phải trồng răng mới có răng mà ăn" làm nên thời kỳ hoàng kim của Hynos vào những năm cuối thập niên 60. Ảnh: Sách Made in Sài Gòn/Phương Nam Book

Không chỉ nổi tiếng trong nước, Hynos còn được bán sang các nước trong khu vực Đông Nam Á và Hong Kong, trở thành một trong những biểu tượng thương mại đương thời.

Thực hiện chính sách quốc hữu hóa sau ngày giải phóng, Hynos được nhà nước tiếp quản và sáp nhập với một công ty cùng lĩnh vực thành Xí nghiệp Kem đánh răng Phong Lan, sau đó đổi tên thành Công ty Hóa phẩm P/S. Công ty có giai đoạn chiếm tới 60% thị phần kem đánh răng ở miền Nam. Ảnh: Bill Mullin

Giữa năm 1997, Tập đoàn Unilever đề nghị lập liên doanh trên tinh thần "win-win" với tổng vốn đầu tư hơn 17 triệu USD.

Trong thời gian hợp tác, Hóa phẩm P/S chỉ đảm nhận việc gia công vỏ hộp bằng nhôm mà không được sản xuất kem đánh răng như trước. Sáu năm sau ngày bắt tay, công ty bị đánh bật khỏi liên doanh kèm cam kết về sau không được sử dụng thương hiệu nổi tiếng bậc nhất lúc bấy giờ trên bất kỳ sản phẩm nào.

Đầu năm 2007, những lãnh đạo cũ thành lập Công ty cổ phần P/S để gầy dựng lại hoạt động kinh doanh. Công ty ban đầu gia công vỏ nhôm cho các doanh nghiệp dược phẩm, sau đó sản xuất kem đánh răng mang dòng chữ Hynos cùng hình ảnh quen thuộc "nụ cười anh Bảy Chà". Hàng hóa được tiêu thụ trong các khách sạn, resort và cũng xuất hiện rải rác trên sàn thương mại điện tử. Ảnh: Tommy Japan/Flickr

Tương tự Hynos, kem đánh răng Dạ Lan cũng có một thời lừng lẫy đầu thập niên 90 khi chiếm tới 90% thị phần từ Đà Nẵng trở ra phía Bắc. Thương hiệu này từng có lợi nhuận vài lượng vàng mỗi ngày.

Ông Trịnh Thành Nhơn, người sáng lập Dạ Lan, tự nhận thương hiệu của mình thời đó "là con gái đang độ tuổi xuân sắc" nên được nhiều doanh nghiệp nước ngoài như Colgate, Unilever, P&G đặt vấn đề hợp tác.

Năm 1995, Dạ Lan ký hợp đồng liên doanh với Colgate - thương vụ mà ông Nhơn gọi là "sai lầm lớn nhất cuộc đời". Thương hiệu khi đó được định giá 3,2 triệu USD và ông nắm 30%, đồng thời giữ chức phó tổng giám đốc trong công ty liên doanh.

Chưa đầy một năm hợp tác, Colgate bảo Dạ Lan càng kinh doanh càng lỗ nên cần nhường chỗ cho sản phẩm mang nhãn hiệu của họ. Colgate sau đó thông báo đã dùng hết vốn góp và vay ngân hàng. Khi ông Nhơn đồng ý góp thêm 10 triệu USD với điều kiện được làm tổng giám đốc, có toàn quyền điều hành, đối tác bác bỏ và khơi mào việc phá sản. Ảnh: Ông Trịnh Thành Nhơn cung cấp

Sau vài lần đàm phán căng thẳng, Colgate mua lại cổ phần của ông Nhơn với giá 5 triệu USD kèm điều kiện ông không được tham gia ngành hàng này trong 5 năm tiếp theo.

Ông Nhơn nỗ lực vực dậy thương hiệu Dạ Lan từ khoảng 2016, nhưng tự thừa nhận khoảng cách với những đơn vị dẫn đầu như P/S hay Colgate còn rất xa.

Ông cho biết mỗi ngày đều cố gắng phát triển lại Dạ Lan để bàn giao cho thế hệ sau này. "Tôi không can tâm nhìn con cái tiếp quản một công ty thua lỗ triền miên do mình gây nên. Khi tiền bạc bây giờ không phải là ưu tiên hàng đầu, tôi có một điều bất di bất dịch là không được để mất thương hiệu Dạ Lan bằng bất cứ giá nào", ông nói. Ảnh: Anh Nguyên

Phương Đông - Quỳnh Trần (Theo VnExpress)

Đọc bài viết

Cafe sáng