Trà chiều

Một góc nhìn chính trị về Giải Nobel Văn chương 2019

Giải Nobel Văn học 2018 và 2019 – trao cho Olga Tokarczuk và Peter Handke – được công bố cùng thời điểm, nguyên nhân vì kết quả năm ngoái bị trì hoãn bởi vụ scandal liên quan đến người chồng của một thành viên viện hàn lâm.

Published

on

Trong hơn một thế kỷ qua, Giải Nobel Văn chương vốn dĩ luôn là màn trình diễn gây tranh cãi, khi phía phê bình chỉ trích những người nhận giải là quá ít tiếng tăm, quá Âu hóa, quá trọng nam, quá thử nghiệm, hay đơn giản chỉ là không xứng đáng với vinh dự bậc nhất trong giới văn chương. Và thứ Năm vừa rồi, Nobel đã đặt chân vào vũng bùn lầy lội hoàn toàn mới khi trao giải cho một nhà văn khuynh-hướng-cánh-tả, Peter Handke, người đã đứng lên phát biểu một bài ca ngợi tại tang lễ của Slobodan Milosevic1, cựu lãnh đạo Nam Tư, người từng hầu tòa vì tội ác chiến tranh.

Năm nay đáng nhẽ phải là cú tái khởi động của Ủy ban Nobel, sau vụ scandal khó coi dính líu đến bạo hành tình dục và sai lầm tài chính, buộc Ủy ban Nobel phải trì hoãn Giải Nobel Văn chương 2018. Năm nay, Viện hàn lâm Thụy Điển đối diện với những kỳ vọng lớn lao và áp lực mạnh mẽ, bởi họ đã hứa hẹn sẽ trao không chỉ một mà đến hai giải thưởng.

Bên cạnh Handke – người nhận Giải Nobel 2019 vào thứ Năm, tiểu thuyết gia Olga Tokarczuk cũng nhận Giải Nobel 2018. Cả hai nhà văn đều đến từ Trung Âu, đều nổi tiếng bởi những quan điểm chính trị bộc trực và thỉnh thoảng trái chiều. Nhưng chính giải thưởng dành cho Handke mới là yếu tố khai hỏa những phản ứng dữ dội, trong đó có lời khiển trách hiếm hoi từ một tổ chức văn học khác, PEN America.

Chủ tịch PEN America, tiểu thuyết gia Jennifer Egan phát biểu trong một tuyên ngôn đại diện cho tổ chức: “Chúng tôi chết lặng trước sự lựa chọn một nhà văn, người đã sử dụng phát ngôn công chúng của mình để đục khoét lịch sử và công khai gửi cứu trợ đến những kẻ gây ra tội ác diệt chủng, như cựu Tổng thống Serbia Slobodan Milosevic và thủ lĩnh Bosnian Serb Radovan Karadzic. Ngay tại thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc và lãnh đạo chuyên quyền đang trỗi dậy, những thông tin đánh lạc hướng lan rộng khắp thế giới, cộng đồng văn học xứng đáng nhiều hơn là quyết định này. Chúng tôi hối tiếc sâu sắc lựa chọn của Ủy ban Nobel trong lĩnh vực Văn chương.”

Khi được hỏi về quyết định của viện hàn lâm liên quan đến Handke, Mats Malm – thành viên và thư ký thường trực của viện – phát biểu quyết định này dựa trên những lập trường văn chương và thẩm mỹ, bổ sung rằng: “Tôn chỉ của Viện hàn lâm không phải là cân bằng giữa chất lượng văn chương và những cân nhắc chính trị.”

Trong khi giải thưởng của Handke bị một số phe phái lên án, rất nhiều người trong giới văn chương đã hân hoan chúc mừng Tokarczuk, một tiểu thuyết gia và nhà thơ thử nghiệm từ Ba Lan, người được cả độc giả và giới phê bình yêu quý.

Handke đến từ nước Áo, mẹ ông là người Slovenia. Ông có quan điểm tán thành chủ nghĩa dân tộc và đã công khai bày tỏ hoài nghi về vụ tàn sát người Hồi giáo trong Chiến tranh Balkan. Tokarczuk là người thường xuyên phê bình thành viên chủ nghĩa dân tộc cánh-tả tại Ba Lan, những người đã quy kết bà là kẻ phản bội. Chủ biên người Ba Lan của bà đã từng phải thuê vệ sĩ để bảo vệ bà.

Một số tác gia xuất chúng khác, trong số đó có Hari Kunzru và Salman Rushdie, cũng phê bình quyết định lựa chọn Handke, người từ chối mọi liên hệ thông qua chủ biên người Mỹ. Về phần Tokarczuk, bà có vẻ chẳng mấy bận tâm. Trong một cuộc phỏng vấn với tờ báo Ba Lan Gazeta Wyborcza vào thứ Năm, Tokarczuk nói bà rất vui khi nhận giải Nobel cùng với Handke. “Tôi cũng rất vui khi Peter Handke nhận giải cùng tôi, tôi rất coi trọng ông ấy. Thật tuyệt vì Viện hàn lâm Thụy Điển đã đánh giá cao văn học Trung Âu. Tôi mừng là chúng tôi vẫn còn bám trụ được.”

Qua việc trao giải cho hai nhà văn châu Âu danh tiếng, viện hàn lâm dường như đã phớt lờ những lời chỉ trích trong quá khứ rằng giải thưởng đã trở nên quá Tây phương và trọng Âu châu. Kể từ giải thưởng đầu tiên được trao vào năm 1901, phần lớn người thắng cuộc là người châu Âu và những tác giả nói ngôn ngữ Anh. Trong lịch sử, phụ nữ cũng không được đại diện đúng mực. Trong số 116 người chiến thắng Giải Nobel Văn học, Tokarczuk là người phụ nữ thứ 15.

Một số người theo dõi văn chương đã trông chờ rằng năm nay, viện hàn lâm sẽ lựa chọn ít nhất một nhà văn không phải người châu Âu; có lẽ sẽ trao giải cho những cái tên phổ biến, trong số đó là tiểu thuyết gia người Kenya Ngũgĩ wa Thiong’o, nhà văn Trung Quốc Tàn Tuyết và nhà thơ người Syria Adunis.

Trong một phát biểu thực hiện năm nay, Anders Olsson, người dẫn dắt ủy ban văn học của viện hàn lâm, thừa nhận rằng tính đa dạng hẳn nên trở thành một ưu tiên và ngụ ý ủy ban sẽ cân nhắc việc đa dạng hóa về mặt địa lý và giới tính khi đưa ra lựa chọn của mình.

“Thời gian trước đây, chúng ta đã có, hẳn nên nói là, một quan điểm văn chương hướng về phương Tây, và giờ chúng ta đã phổ cập cái nhìn của mình ra toàn thế giới,” ông nói trong một bài phỏng vấn video. “Thời gian trước đây, chúng ta đã quá trọng-nam-giới. Hiện nay chúng ta đã có rất nhiều nữ nhà văn thật sự xuất sắc, vì thế giải thưởng và cả quá trình liên quan đến giải thưởng càng trở nên căng thẳng với quy mô rộng lớn hơn.”

Viện hàn lâm đã trì hoãn giải thưởng năm ngoái vì scandal liên quan đến người chồng của một thành viên viện – người bị kết tội cưỡng hiếp và rò rỉ tên của những người chiến thắng. Đây là cuộc khủng hoảng dẫn đến sự ra đi của thành viên ban quản trị và đòi hỏi đến sự can thiệp từ nhà vua Thụy Điển. Sau scandal, viện hàn lâm đã đưa ra nhiều điều chỉnh trong tổ chức, bao gồm việc bổ nhiệm năm cố vấn độc lập để bình chọn người xứng đáng.

Thậm chí, một nhóm những nhân vật có tầm ảnh hưởng văn hóa tại Thụy Điển đã thiết lập một giải thưởng thay thế, the New Academy Prize (tạm dịch Giải Tân Hàn Lâm) để lấp đầy khoảng trống và chứng minh rằng việc tìm kiếm người chiến thắng có thể được thực hiện theo phong cách công khai, đối lập với sự vận hành trong bóng tối của viện hàn lâm. Người chiến thắng được họ lựa chọn là Maryse Conde, nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử từ Guadeloupe.

Về Peter Handke

Handke sinh năm 1942 tại miền nam nước Áo. Cả cha đẻ và cha dượng ông đều phục vụ trong quân đội Đức Wehrmacht. Sau khi mẹ ông tự tử vào năm 1971, Handke thi thoảng sẽ viếng thăm Nam Tư. Phần lớn tuổi thơ ông trải qua tại một Berlin sứt sẹo sau chiến tranh và sau đó, ông học luật tại Đại học Graz. Ông bỏ học năm 1965, sau khi tiểu thuyết đầu tay The Hornets (tạm dịch Những con ong bắp cày) được một chủ biên nhận in. Hiện nay, thành tựu của ông bao gồm tiểu thuyết, luận văn, kịch bản và những tác phẩm kịch khác. Ông hiện sống tại Chaville, vùng ngoại ô Paris kể từ năm 1990.

Peter Handke được vinh danh bởi “công trình có sức ảnh hưởng lớn cùng tài nghệ ngôn ngữ khéo léo để khám phá vùng ngoại biên và đặc trưng riêng biệt của trải nghiệm loài người.”

Những nhà phê bình văn học đã mô tả công trình của ông là avant-garde2, nhưng Handke phủ nhận cái nhãn ấy, tự nhìn nhận mình là một “nhà văn cổ điển bảo thủ.”

Những tác phẩm mà ông dành nhiều thập kỉ để viết, xuất bản lần đầu tại Đức bao gồm A Sorrow Beyond Dreams (tạm dịch Nỗi buồn hơn cả những giấc mơ), tiểu thuyết ngắn dựa trên cái chết của mẹ ông đã nhận được sự hoan nghênh từ giới phê mình. Khi bình tác phẩm trên tờ The New York Times năm 1975, Michael Wood gọi đây là “lễ truy điệu hoành tráng dành cho những sinh mệnh Đức và Áo bị chôn vùi” và “bài viết xuất sắc nhất mà tôi từng được đọc trong nhiều năm.”

Tuy nhiên, tình bạn giữa Handke và Slobodan Milosevic cùng lời bình luận của ông – dường như giảm thiểu sức nặng của những vụ thảm sát người Hồi giáo Bosnia tại Serbia – dẫn đến việc ông bị lên án. Trong một cuộc phỏng vấn năm 2006, ông nói về Milosevic: “Tôi nghĩ ông ấy là một người đàn ông bi kịch. Không phải là anh hùng, chỉ là một con người bi kịch thôi. Tôi là nhà văn, không phải là thẩm phán.”

Cũng trong cuộc phỏng vấn này, ông nói mình không hề trông đợi việc nhận Giải Nobel, nguyên nhân đến từ chính vụ tranh cãi này. “Khi tôi còn trẻ hơn thì tôi đã để tâm đấy. Nhưng hiện nay tôi nghĩ là tất cả đã chấm hết sau những lời bình luận về vụ Nam Tư rồi.”

Trong năm ấy, ông được lựa chọn là người chiến thắng giải thưởng danh giá của Đức – Giải Heinrich Heine, nhưng quyết định đã bị thu hồi giữa những phẫn nộ từ phía công chúng. Đáp lại cơn thịnh nộ này, Handke khẳng định rằng ông chưa bao giờ phủ định hoặc giảm thiểu những cuộc thảm sát tại Nam Tư. Khi Handke nhận Giải International Ibsen năm 2014, ông phải đối mặt với những người chống đối ngay tại lễ trao giải.

Tại Mỹ, Farrar, Straus và Giroux đã xuất bản những bản dịch của Handke từ năm 1970, bắt đầu với tuyển tập Kaspar and Other Plays (tạm dịch Kaspar và những vở kịch khác), theo sau đó là tiểu thuyết The Goalie’s Anxiety at the Penalty Kick (tạm dịch Mối lo âu của thủ môn trước những cú đá penalty). Kể từ đó, FSG đã phát hành hơn 15 cuốn sách được viết bởi Handke.

“Handke là một trong những người chú trọng văn phong, tạo nên những vần văn tuyệt vời nhất ở Đức, người đã dành cả sự nghiệp của mình để thám hiểm cả thế giới tự nhiên và thế giới của ý thức con người với sự chính xác tinh xảo, sự hóm hỉnh và đầy dũng khí,” chủ tịch của FSG, Jonathan Galassi phát biểu.

Về Olga Takarczuk   

Tokarczuk sinh năm 1962 tại Sulechow, Ba Lan, là con gái của hai giáo viên. Cha của bà cũng là thủ thư trường, và chính trong thư viện, Tokarczuk đã tìm thấy tình yêu văn chương, ngấu nghiến hết cuốn sách này đến cuốn sách khác.

Nhà văn Ba Lan Olga Tokarczuk nhận Giải Nobel Văn chương 2018 “vì khả năng sáng tạo lối tường thuật, cùng sự say mê tường tận, đại diện cho việc băng qua những ranh giới như một hình thức sự sống.”

Bà theo học chuyên ngành tâm lý tại Đại học Warsaw, sau đó từng làm việc như một nhà tâm lý học trị liệu nhưng cảm thấy mình không phù hợp với công việc. Bà ghi nhận trong một bài phỏng vấn rằng bà từ bỏ công việc sau khi nhận ra bà “còn loạn thần kinh hơn cả bệnh nhân của mình.”

Tokarczuk xuất bản cuốn sách đầu tiên, một tập thơ năm 1989. Năm 1993, bà giành được rất nhiều lời khen ngợi khi xuất bản tiểu thuyết đầu tiên The Journey of the Book-People (tạm dịch Cuộc du hành của Người-Sách), một câu chuyện hư cấu kể về những nhân vật đang kiếm tìm một cuốn sách bí ẩn ở Pyrenees, lấy bối cạnh tại Pháp và Tây Ban Nha thế kỷ 17. Cuốn sách được trao Giải Polish Publisher’s cho tiểu thuyết đầu tay.

Nhưng bước đột phá thật sự của bà được cho là tiểu thuyết thứ ba Prawiek i inne czasy, hay Primeval and Other Times (tạm dịch Thời nguyên sinh và những thời đại khác). Xuất bản lần đầu năm 1996, cuốn sách kể về câu chuyện ba thế hệ của một gia đình người Ba Lan, từ 1914 đến khởi nguyên của kỳ Đại Đồng năm 1980.

Năm 2018, bà trở thành tác giả Ba Lan đầu tiên đoạt Giải Man Booker International với tiểu thuyết Flights (tạm dịch Những chuyến bay), do Jennifer Croft dịch và được Riverhead xuất bản tại Hoa Kỳ. Croft bình luận, “Tác phẩm của bà vừa phổ thông vừa rất Ba Lan.” Là một sê-ri 116 mẩu truyện ngắn về những nhân vật đang trên đường lưu chuyển hoặc ly hương, cuốn sách được khen ngợi là một liều thuốc văn chương, giải độc cho sự cô lập văn hóa, chủ nghĩa bài ngoại và chủ nghĩa dân tộc.

Tokarczuk viết, “Tính lưu động, tính di động và cảm giác viễn vông – đó là những phẩm chất khiến chúng ta trở nên văn minh. Người man rợ không du ngoạn. Họ đơn giản chỉ đi từ địa điểm này sang địa điểm khác hoặc thực hiện những cuộc cướp bóc.”

Trong một cuộc phỏng vấn với tờ The Times, Tokarczuk nói rằng bà đặt bút viết cuốn tiểu thuyết này từ hơn một thập kỷ trước, ngay trước vụ Brexit và những phong trào chủ nghĩa dân tộc diễn ra khắp châu Âu. “Tôi viết cuốn sách này khi thế giới hướng về việc mở rộng vòng tay với tất cả mọi người. Hiện nay, chúng ta lại chứng kiến Liên Minh Châu Âu có lẽ sẽ bị suy yếu dần bởi nhiều chính sách từ những quốc gia như Ba Lan và Hungary, một lần nữa tập trung vào biên giới của họ.”

Bà đồng thời nhắc đến chính sách nhập cư càng ngày càng khắt khe tại Mỹ. “Mười hai năm trước đây, không hề có ai đề cập đến cái ý tưởng xây tường hay ranh giới – cái ý tưởng đầu tiên được thực hiện bởi chế độ độc tài. Vào thời điểm bấy giờ, tôi phải thừa nhận rằng mình đã dám chắc chúng ta đã đi qua cái thời của chủ nghĩa chuyên chế rồi.”

Tại Ba Lan, Tokarczuk là nhân vật có sức ảnh hưởng với tính cách thẳng thắn, được biết đến bởi quan điểm chính trị đối lập với đảng Luật lệ và Công Lý cánh hữu. Bà gặp phải với nhiều lời chỉ trích sau khi xuất bản The Books of Jacob (tạm dịch Những cuốn sách của Jacob), lấy bối cảnh thế kỷ 18 tại Ba Lan, ủng hộ sự đa dạng văn hóa, và đạt giải thưởng văn học hàng đầu tại Ba Lan – Giải Nike năm 2015. Mặc dù được độc giả và nhà phê bình đón nhận, tiểu thuyết đã thu hút nhiều lời lên án sắc bén từ những nhóm chủ nghĩa đế quốc, và Tokarczuk phải chịu đựng những chiến dịch quấy rối, những lời dọa giết và kêu gọi trục xuất. Vào tháng Một, bà thực hiện một bài viết quan điểm trên tờ Times bàn về tình trạng của quốc gia sau vụ mưu sát một vị thị trưởng dẫn đầu đảng Tự do. “Tôi lo lắng về tương lai gần của chúng ta.”

Trong tháng này, khi được hỏi về các tác phẩm của Tokarczuk, Piotr Glinski – bộ trưởng bộ văn hóa Ba Lan – đáp rằng ông đã thử đọc nhưng chưa bao giờ kết thúc bất cứ cuốn sách nào của bà. Vào thứ Năm, Glinski đã chúc mừng Tokarczuk. “Đây là bằng chứng rằng văn hóa Ba Lan được toàn thế giới coi trọng,” ông viết trên Twitter. Donald Tusk, chủ tịch Hội đồng Châu Âu và cựu thủ tướng Ba Lan, cũng đưa ra lời chúc mừng trong một tweet. Ông bổ sung rằng, ông đã đọc xong hết tất cả những cuốn sách của bà.

Nobel văn chương từng gặp phải những scandal nào khác?

Một số người lúc nào cũng gièm pha về người nhận giải, hoặc ít nhất phán xét những người này không hợp với gu thưởng thức của họ. Năm 2016, khi Bob Dylan3 chiến thắng, ông là nhạc sĩ đầu tiên có vinh dự này. Giải thưởng của ông đã kéo theo hàng tuần tranh luận rằng liệu một người viết nhạc có nên đạt giải thưởng văn học không. Tiểu thuyết gia Jodi Picoult viết trên Twitter: “Tôi rất mừng cho Bob Dylan, #NhưngLiệuĐiềuNàyCóNghĩaLàTôiCóThểĐạtGiảiGrammy?”

Giải thưởng trong năm tiếp theo là một sự lựa chọn truyền thống hơn, được trao cho Kazuo Ishiguro, nhà văn Anh được biết đến với tiểu thuyết The Remains of the Day (Tạm dịch Tàn dư của ngày), kể về một quản gia phục vụ Lãnh chúa Anh trong những năm trước Thế chiến thứ II.

Hết.

Mèo Heo dịch từ The New York Times.

Chú thích:

  1. Slobodan Milosevic là Tổng thống Serbia (1989 – 1997) và Tổng thống Cộng hòa Liên bang Nam Từ (1997 – 2000). Sau Chiến tranh Kosovo năm 1999, ông bị khối quân sự NATO do Mỹ dẫn đầu lật đổ và bị buộc tội diệt chủng tại tòa án xử các tội phạm chiến tranh. Theo cáo buộc của phương Tây, ông đã tham gia tích cực vào việc thảm sát nhiều thường dân ở Sarajevo và Sebrenica. Phải đến năm 2015, tòa án quốc tế mới tuyên bố không có đủ chứng cứ để kết tội ông, nhưng khi đó ông đã mất gần 10 năm.
  2. Avant-garde là phong cách thử nghiệm, đột phá hoặc không chính thống áp dụng trong nghệ thuật, văn hóa và xã hội. Những đặc trưng cơ bản của nó là phi truyền thống, cách tân thẩm mỹ cùng sự phản đối ban đầu, thậm chí nó có thể đưa ra những lời phê bình trong mối quan hệ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Avant-garde tranh đấu với giới hạn thông thường về quy chuẩn hoặc nguyên trạng.
  3. Bob Dylan là ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên, họa sĩ, nhà văn và nhà biên kịch người Mỹ. Ông là một trong những nghệ sĩ có ảnh hưởng nhất tới nền âm nhạc nói riêng và văn hóa thế giới nói chung trong suốt năm thập kỷ trở lại đây.

Trà chiều

Văn hóa đọc tại Việt Nam: Hành trình tỉnh thức trong thời đại mất tập trung

Khi cả thế giới đang quay cuồng trong cơn lốc của tốc độ, của công nghệ số và mạng xã hội, văn hóa đọc – vốn là một hoạt động tĩnh tại, cô độc và đòi hỏi sự kiên nhẫn – bỗng trở thành hiện tượng lạ giữa đời sống hiện đại.

Published

on

Một cú chạm màn hình có thể đưa bạn tới bất kỳ đâu: từ buổi hòa nhạc ở Vienna đến một bữa ăn đường phố ở Bangkok, từ những khoảnh khắc riêng tư của người xa lạ đến bản tin thời sự lúc rạng đông. Nhưng càng dễ dàng kết nối, chúng ta lại càng khó khăn trong việc lắng nghe chính mình. 

Và trong cuộc hành trình ấy, đọc sách - hành động tưởng như đã cũ kỹ, đang âm thầm trở lại như một nơi trú ẩn cuối cùng của tâm hồn hiện đại.

Văn hóa đọc không chỉ là việc “đọc sách”

Văn hóa đọc không nên được định nghĩa đơn giản chỉ là hành vi tiếp nhận văn bản in ấn, cần phải nhìn nó như là một cấu trúc hệ giá trị, nơi người đọc không chỉ tiêu thụ thông tin, mà còn tương tác với tri thức, phản tư, và từ đó tạo ra tầng sâu văn hóa cá nhân. Nên hiểu đọc là một hành vi văn hóa, không chỉ là kỹ năng.

Thế nhưng, tại Việt Nam, hành vi đọc nhiều khi bị giản lược thành “hoạt động học thuộc”. Cái gốc của việc đọc để hiểu mình và hiểu thế giới vẫn còn mờ nhạt trong đời sống học đường lẫn đời sống đô thị.

Chúng ta từng được dạy rằng đọc là để biết nhiều hơn. Nhưng biết không đồng nghĩa với hiểu. “Biết” là quá trình tiếp nhận và lưu trữ dữ liệu dưới dạng thông tin. “Hiểu” vượt lên trên điều đó - nó đòi hỏi sự tham gia của trải nghiệm cá nhân, khả năng phân tích, đồng cảm và cả những va chạm nội tâm. Một tác phẩm có giá trị không chỉ cung cấp tri thức ngoại tại, mà còn tạo điều kiện cho chủ thể tiếp nhận được soi chiếu, phản tỉnh từ đó nhận diện những lớp ẩn sâu của bản thể qua hình ảnh của người khác trong trang sách. 

Khi một đứa trẻ đọc Những tấm lòng cao cả, em sẽ không chỉ học đạo đức, mà bắt đầu cảm nhận được trái tim nhân loại. Khi một thiếu niên lần đầu đọc Người xa lạ của Camus, cậu ấy có thể không lý giải nổi thế giới, nhưng sẽ bắt đầu đặt câu hỏi về nó và về chính mình.

Vấn đề không nằm ở việc thiếu sách, mà thiếu “thái độ văn hóa” với sách

Mặc dù Việt Nam có hơn 30.000 đầu sách xuất bản mỗi năm (theo Cục Xuất bản), thế nhưng lượng sách bán ra tập trung chủ yếu ở thể loại giải trí, ngôn tình, self-help, còn các dòng sách triết học, văn hóa, nhân văn… chiếm tỷ lệ nhỏ hơn. Ta không thiếu sách, ta thiếu một nền tảng thẩm mỹ và nhân văn để lựa chọn sách một cách có chủ đích.

Nguyên nhân không chỉ nằm ở thời đại số làm thay đổi thói quen tiếp nhận thông tin, mà còn nằm ở cách giáo dục về đọc sách. Tại nhiều trường học, việc đọc vẫn gắn liền với hình thức kiểm tra, chấm điểm, làm bài văn nghị luận sách giáo khoa - điều khiến đọc sách trở thành một “nghĩa vụ” hơn là một hành trình khám phá. Gia đình, các bậc phụ huynh còn chưa thực sự nghiên cứu và đặt mối quan tâm lớn lao cho việc giáo dục con trẻ dẫn đến việc các em phụ thuộc quá nhiều vào các thiết bị công nghệ. 

Nhưng tín hiệu đáng mừng là trong những năm gần đây, chúng ta chứng kiến sự nở rộ của các phong trào đọc sách tự phát, không phải từ chỉ đạo hành chính, mà từ những con người đang đi tìm lại bản thân giữa cơn hỗn loạn của thông tin.

Đáng chú ý, sự phát triển của nền tảng số cũng không còn là lực cản, mà đang dần trở thành đòn bẩy cho việc tiếp cận sách: audio book, book podcast, nền tảng chia sẻ tóm tắt sách hay các cộng đồng đọc sách online đang lan tỏa mạnh mẽ. Sách không còn là một vật thể bất động mà trở thành dòng chảy đồng hành với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ, âm thanh và cảm xúc.

Tất cả đang làm sống lại một giá trị xưa cũ: sự tĩnh lặng nội tâm. Đọc sách giờ đây không chỉ là tiếp nhận thông tin, mà là một hành động phản kháng với sự phân tán, ồn ào, và tiêu dùng giải trí mang tính chất "mì ăn liền".

Văn hóa đọc trong thời đại “siêu dữ liệu”

Thách thức lớn nhất với văn hóa đọc trong thời đại kỹ thuật số không phải là sự biến mất của sách giấy, mà là sự thoái hóa khả năng tập trung, năng lực phản tư và thái độ nghiêm túc của con người với tri thức. Chúng ta sống trong thời đại mà nội dung có thể bị tiêu thụ như thức ăn nhanh, nơi mọi người “đọc để phản ứng”, thay vì “đọc để cảm nghiệm”. Bởi vậy, chọn đọc - nhất là đọc sâu, đọc chậm giờ đây không chỉ là một lựa chọn mang tính trí tuệ, mà còn là một cách gìn giữ bản thân trước sự xao nhãng của thế giới hiện đại.

Đọc là kháng cự lại tốc độ. Là từ chối cái dễ. Là chọn cái sâu - dù biết nó chậm.

Văn hóa đọc giờ đây không chỉ là sách, mà còn là cách ta sống. Không chỉ là hành động cá nhân. Nó phản ánh cả một văn hóa. Một đất nước biết trân trọng sách là một đất nước không dễ bị lãng quên ký ức. Một thế hệ đọc sách là một thế hệ có nội lực.

Ở Việt Nam, từng có một thế kỷ mà sách được đọc bằng ánh đèn dầu, được chép tay, được truyền tay như những báu vật. Sách đi qua chiến tranh, qua đói nghèo, qua đạn bom, nhưng vẫn sống. Vấn đề của hôm nay không phải là thiếu sách, mà là quá nhiều thứ giành giật tâm trí ta khỏi sách.

Vấn đề sâu xa hơn: ta không còn coi đọc là một phần của việc sống đẹp. Thế giới đang dần lãng quên sự im lặng, sự chậm rãi, sự suy tư. Trong truyền thống tư tưởng phương Đông, đọc không phải là phương tiện để đạt được cái bên ngoài, mà là trở về với cái bên trong. Từ thời Lão - Trang, việc học, việc đọc vốn gắn liền với sự tĩnh tại của tâm. Đọc là tu thân. Đọc là dưỡng khí. Đọc là hành động đi ngược lại với sự xao động của đời sống, để khơi mở “minh tâm kiến tánh”, thấy lại chân diện mục của chính mình. 

Ngày xưa, các nho sĩ khi đọc sách thường đặt một bát nước trong veo bên cạnh, để “nếu tâm xao động thì nước đục” như một cách tự phản tỉnh. Người đọc không chỉ là kẻ truy cầu tri thức, mà còn là người gìn giữ đạo lý, tiết tháo và sự lặng thầm bền bỉ của văn hóa.

Trong thời đại siêu kết nối hiện nay, nghịch lý lớn nhất là con người càng lúc càng rỗng hơn giữa vô số dữ liệu. Chúng ta “biết” rất nhiều thứ nhưng lại hiểu rất ít điều, và càng ít sống sâu. Văn hóa đọc nếu được xem là một hệ sinh thái văn hóa bền vững - chính là cơ chế tự phòng vệ của trí tuệ trước sự tha hóa của thị hiếu và tốc độ.

Bởi vì đọc không chỉ là để “biết”, mà để nghi ngờ cái mình biết. Không chỉ để “giỏi lên”, mà để hiểu mình và hiểu người hơn. Và không chỉ để có tri thức, mà để trở nên người hơn trong thế giới ngày càng thiếu vắng chất người. 

Đọc - tự bản thân nó là một hành động kháng cự lại sự lãng quên, sự cạn mỏng và cả sự dễ dãi. Nó khơi mở lại điều tưởng như đã mất: một chiều sâu văn hóa không thể số hóa, không thể sao chép, thứ văn hóa được chưng cất từ mỗi lần lật trang, từ mỗi khoảnh khắc im lặng tự đối diện chính mình. Để được sống với một trái tim có lớp lang. 

Và nếu phải chọn một hành động lặng lẽ nào đó để định nghĩa tinh thần của một dân tộc đang muốn trở mình từ bên trong, thì đó hẳn phải là: đọc sách.

Ngọc Trâm

Đọc bài viết

Trà chiều

Vẻ đẹp từ những cuộc đời bình thường

Không cần phải nổi bật, bạn vẫn có thể sống một đời ý nghĩa.

Published

on

Làm người bình thường giờ đây bị ngầm hiểu là một thất bại trong một thế giới say mê những con người xuất chúng. Từ những giải vàng trong các trường tiểu học đến danh hiệu “nhân viên xuất sắc của tháng”; từ những tấm hình, thước phim được chọn lựa kĩ càng để đăng trên Instagram đến cuộc đua trở thành “phiên bản rực rỡ nhất của chính mình”, văn hóa của chúng ta không ngừng nâng cao chuẩn mực cho những tính từ “thành công”, “xứng đáng” hoặc thậm chí là “đủ”. Nhưng liên tục chạy đua để trở thành người xuất chúng liệu có khiến chúng ta hạnh phúc hơn hay chỉ đang gieo thêm lo âu, mặc cảm và đứt gãy trong kết nối giữa người với người?

Ẩn giấu trong những cuộc đời không mấy nổi bật vẫn tồn tại sự bình yên sâu lắng, đích đến đáng quý, thậm chí là vẻ đẹp đáng tôn vinh. Có lẽ đã đến lúc ta nên giành lại chân lý ấy - rằng không cần rực rỡ để sống một đời đáng sống.

Những chuẩn mực ngày càng leo cao

Ngay cả trẻ con giờ đây cũng không thoát khỏi chuỗi dài những kì vọng từ gia đình và xã hội. Trước kia, thời chúng ta đi học, “trung bình” được coi là nền tảng để phấn đấu, không có gì đáng xấu hổ. Nhưng nhìn xem, lũ trẻ bây giờ đang bị áp lực phải trở thành những người có thành tựu từ khi còn chưa học được cách chơi đùa vô tư. Giành được điểm A vẫn bị coi là chưa đủ tốt nếu chúng không mang thêm giải thưởng, tham gia hoạt động ngoại khóa và trong vai những người dẫn dắt, lãnh đạo đội nhóm. Những rào chắn vô hình không ngừng cao lên, vì thế chẳng ngạc nhiên khi những sinh viên mới bước vào ngưỡng cửa đại học hay thị trường lao động đã kiệt sức thay vì hạnh phúc. 

Mạng xã hội chỉ đổ thêm dầu vào lửa, đốt cháy cuộc đua kì vọng ấy hơn. Không dừng lại ở việc lướt xem những khoảnh khắc rực rỡ của người khác, chúng ta bắt đầu so sánh với cuộc đời chưa được đánh bóng của bản thân. Đọc được câu chuyện về những bạn trẻ 22 tuổi khởi nghiệp, đi du lịch vòng quanh thế giới, tự sắm nhà riêng - ta cảm thấy mình tụt lại vì mỗi ngày chỉ dậy đi làm và thanh toán hóa đơn. Những điều ấy trước kia từng được coi là phi thường, nay bỗng hóa tiêu chuẩn tối thiểu.

Ngay cả trong đời sống riêng, áp lực vẫn len lỏi. Ta phải là những người yêu lý tưởng, cha mẹ dịu dàng, giỏi chăm sóc bản thân và công dân đầy chánh niệm - tốt nhất là xong hết trước 9 giờ sáng. Người ta truyền nhau một quan niệm hiện đại, rằng: bạn đang lãng phí tiềm năng nếu không tối ưu từng giây phút của cuộc đời mình.

Nhưng nếu tiềm năng không phải là một chiếc thang để leo, mà là một không gian để ta an trú thì sao?

Phẩm giá ẩn sau lựa chọn một đời an yên

Hãy đổi cách ta kể câu chuyện. Sẽ ra sao nếu một cuộc sống “tầm trung” lại chính là một công việc đủ nuôi sống bản thân, những mối quan hệ đầy yêu thương, và một mái nhà rộn tiếng cười xen lẫn tiếng bát đũa? Không phải thứ để ta trốn chạy khi nhắc đến, mà là điều đáng để gìn giữ và trân trọng đúng không?

Thật tuyệt khi bạn xuất hiện trên mạng xã hội với những khoảnh khắc như vậy, dù cho chẳng có lời tán dương nào. Chúng ta vẫn luôn cần một người bạn chân thành, một người lạ biết cảm thông, và một đồng nghiệp đáng tin cậy. Những vai trò ấy hiếm khi xuất hiện trên mạng xã hội, nhưng chúng là sợi chỉ âm thầm dệt nên kết cấu bền chặt của xã hội -  điều mà danh vọng và tiền bạc đôi khi không thể làm được.

Hãy nghĩ về những giáo viên, lao công, y tá, tài xế, đầu bếp, điều dưỡng - những con người mà công việc thầm lặng của họ vẫn đang giữ cho thế giới vận hành. Họ có thể không bao giờ được gọi tên rộng rãi, nhưng công sức của họ chạm đến cuộc sống của biết bao người. Những tên gọi nghề nghiệp nghe có vẻ “bình thường”, nhưng những gì họ làm được thì không hề nhỏ bé.

Bình thường không có nghĩa là tầm thường. Đó là sự biết đủ với những gì bạn có, thay vì liên tục đem so với những cuộc đời khác. Đó là việc bạn hiểu rằng mình không thất bại chỉ vì không xuất chúng - chỉ cần là một con người đã luôn là điều đặc biệt. 

Những đánh đổi phía sau niềm tin phải trở nên xuất chúng

Bị cuốn vào cuộc đua theo đuổi sự vĩ đại thường dẫn ta đến tình trạng kiệt sức, lo âu và cô đơn. Chủ nghĩa cầu toàn gây ra chứng tê liệt cảm xúc, còn việc so sánh khiến ta đánh mất niềm vui. Ai cũng có thể “trên mức trung bình” - rõ ràng về mặt thống kê quan niệm này sai. Ấy vậy mà xã hội vẫn tiếp tục bán giấc mơ ấy, và ta vẫn tiếp tục mua nó, rồi cảm thấy mình chưa bao giờ đủ.

Ở một góc độ khác, việc tôn vinh thành công thái quá cũng hình thành một tâm thức thiếu hoàn thiện: nếu chỉ có một vài người ở đỉnh cao, thì phần còn lại ắt phải là kẻ thua cuộc. Nhưng cuộc sống đâu phải là một bảng xếp hạng, nó là bức tranh khảm đầy những niềm vui nhỏ bé, những khoảnh khắc yên tĩnh, và những kết nối thành thật giữa con người với nhau.

Ta chỉ thực sự sống trong hiện tại khi ngừng đuổi theo những cột mốc tiếp theo. Ta có thể tìm thấy sự đủ đầy, không phải trong việc trở nên khác biệt, mà trong cảm giác được thuộc về gia đình, cộng đồng và chính bản thân mình.

Viết lại định nghĩa “cuộc đời ý nghĩa”

Định hình lại những gì là cốt lõi của cuộc sống đòi hỏi sự can đảm - nhất là trong nền văn hóa đầy rẫy phô trương. Nó đồng nghĩa với việc khước từ lối sống "cày cuốc", chọn thầm lặng thay vì tiếng tăm, chọn sống sâu thay vì sống gấp, chọn sống đúng với hệ giá trị riêng của bản thân thay vì đứng trên những tiếng vỗ tay hào nhoáng.

Một cuộc đời ý nghĩa không được xây nên từ giải thưởng hay thuật toán mà được dệt từ những cuộc trò chuyện chân thật, những thói quen bồi đắp nên chúng ta, những bữa cơm trong gian bếp, những bước đi chậm rãi, những cử chỉ tử tế nhỏ nhoi - và nghỉ ngơi mà không mang theo cảm giác tội lỗi.

Hà Nhi dịch từ Psychology Today

Đọc bài viết

Trà chiều

“Cạm bẫy tiện lợi” của AI

Published

on

Vào thứ Sáu ngay trước ngày khai mạc Hội sách Thiếu nhi Bologna, OpenAI đã tung ra công nghệ tạo hình ảnh mới tích hợp trong GPT-4o. Công nghệ này giới thiệu các khả năng đa phương thức tiên tiến, cho phép người dùng tạo ra những hình ảnh vô cùng chi tiết bằng nhiều phong cách nghệ thuật đa dạng. Gần như ngay lập tức, người dùng đã thử tạo hình ảnh theo phong cách thẩm mỹ đặc trưng của Studio Ghibli và thử nghiệm với nhiều phong cách minh họa sách thiếu nhi kinh điển. Độ chính xác của kết quả và khả năng bắt chước các họa sĩ minh họa nổi tiếng của công nghệ này đã thực sự gây sốc cho những người đang tề tựu tại Bologna.

Nổi bật trong các tiếng nói quan ngại về những bước tiến mới này là Nurgül Senefe, họa sĩ minh họa người Thổ Nhĩ Kỳ. Bà là nhà sáng lập của tổ chức vận động Illustrator’s Platform và Mạng lưới ZNN, một công ty đại diện tác giả và họa sĩ minh họa, đồng thời là Tổng Thư ký của Diễn đàn Họa sĩ Minh họa Châu Âu. Bà Senefe chia sẻ với tờ Publisher Weekly rằng, “sự lười biếng trong nhận thức” đang đe dọa khiến con người ngày càng phụ thuộc vào AI.

Bà Nurgül Senefe. Nguồn: Diễn đàn Họa sĩ Minh họa.

Từ kinh nghiệm điều hành một tổ chức với 400 nhân sự đang tận tâm bảo vệ quyền của họa sĩ minh họa và xây dựng những phương thức kinh doanh bền vững, bà Senefe cho rằng: “Điểm yếu lớn nhất của con người là cảm giác vui sướng đến từ sự tiện lợi mà AI mang đến”.

Mạng lưới ZNN hoạt động như một cầu nối trung gian giữa họa sĩ và bên đặt hàng, giúp thiết lập các quy chuẩn tối ưu cho ngành, đồng thời giám sát quy trình đặt hàng tác phẩm. Công việc của họ nay càng trở nên cấp bách hơn bao giờ hết khi AI ngày một tác động mạnh mẽ đến lĩnh vực sáng tạo.

“Đặc biệt với trí tuệ nhân tạo, chúng tôi đang nỗ lực xây dựng một nền tảng để đại diện cho quyền lợi của họa sĩ minh họa”, bà Senefe cho biết.

Khi khảo sát các thành viên trong tổ chức, bà Senefe thường đưa ra một câu hỏi lấy ví dụ từ bộ phim Ma trận (The Matrix), hỏi họ sẽ chọn viên thuốc nào – đỏ hay xanh. “Mọi người đều nói, ‘Tôi sẽ chọn viên màu đỏ’, bà kể lại, dùng phép ẩn dụ này để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc giữ chính mình “tỉnh táo nhận thức về những gì đang diễn ra hôm nay”.

Mối bận tâm hàng đầu của bà Senefe xoay quanh chính bản chất của con người. “Nếu bạn không ý thức được hành vi của mình, nó sẽ dần định hình nên tính cách của bạn.” Dù vấp phải sự phản đối từ nhiều chuyên gia sáng tạo – “Mọi người nói chúng ta không sử dụng AI tạo sinh, chúng ta chống lại nó”, bà vẫn quan sát thấy người ta tiếp tục thử nghiệm công nghệ này và ghi nhận rằng một số người cho biết nó “khá tiện lợi”.

Bà Senefe nhận định: Yếu tố tiện lợi này chính là mấu chốt của vấn đề. Bà cũng đưa ra các ví dụ tương tự trong đời thực. “Nếu bạn để ý, tôi chắc chắn bạn sẽ thấy ở ga tàu điện hoặc nhà ga xe lửa, mọi người xếp hàng dài hàng mét chỉ để đi thang cuốn, nhưng tại sao họ không leo thang bộ cơ chứ?” Các ví dụ khác bao gồm sự lệ thuộc của xã hội vào thức ăn nhanh, bất chấp những rủi ro sức khỏe đã được chứng minh, hay việc nhiều bậc cha mẹ dùng máy tính bảng làm "người giữ trẻ kiểu mới cho con” khi quá tải hay xao nhãng.

Họa sĩ Hayao Miyazaki, đồng sáng lập Studio Ghibli luôn thể hiện sự phản đối mạnh mẽ đối với AI trong sáng tạo. Trong bộ phim tài liệu Never - ending man: Hayao Miyazaki năm 2016, khi được giới thiệu về một dự án hoạt hình sử dụng AI, ông Hayao Miyazaki đã thẳng thừng chỉ trích công nghệ này. Ông gọi nó là "một sự xúc phạm đến cuộc sống" và nhấn mạnh rằng nghệ thuật không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm xúc, trải nghiệm và tinh thần con người.

Bà Senefe tỏ ra lo lắng về một khả năng trong tương lai, nơi những người làm sáng tạo cuối cùng sẽ phải “làm việc cho máy móc”, khi các nhà xuất bản có khả năng chọn AI thay vì sản phẩm của con người vì chúng “quá tiện lợi, rẻ, hiệu quả và nhanh chóng”.

“Dần dà, chúng ta sẽ quen xem cái ‘chưa đủ’ là đủ, ‘không đẹp’ là đẹp, ‘phi nghệ thuật’ là nghệ thuật. Điều này sẽ kéo tụt mặt bằng giá trị của nhận thức chung, hiểu biết và sự chấp nhận của xã hội, làm thay đổi cả một lĩnh vực mà chúng ta thậm chí không hề hay biết”.

Để mô tả quá trình bình thường hóa đáng lo ngại này, bà Senefe đã đặt hàng một bức tranh minh họa dựa trên ẩn dụ về con ếch trong nồi nước đang nóng dần lên, không nhận ra mối nguy hiểm đang cận kề. Bức tranh này đặt ra một câu hỏi nhức nhối: “Bạn sẽ dùng AI một cách có ý thức và để máy móc phục vụ cho bạn, hay bị AI thống trị và trở thành tay chân cho máy móc?”

“Thử thách lớn nhất của chúng ta trong cuộc đối đầu với AI chính là sự lười biếng trong nhận thức”, bà Senefe kết luận. Bà cho rằng, cũng như sự nghiện ngập và các thói quen độc hại khác, sự phụ thuộc vào AI có thể bén rễ từ từ và len lỏi vào đời sống một cách khó nhận biết nếu giới chuyên môn sáng tạo không duy trì cảnh giác.

Hoàng Thảo dịch từ Publishers Weekly

Đọc bài viết

Cafe sáng