Phía sau trang sách

Mọi người đều nói dối, còn dữ liệu thì không

Người ta nói dối với bạn bè. Họ nói dối với ông chủ. Họ nói dối với trẻ em. Họ nói dối với cha mẹ. Họ nói dối với bác sĩ. Họ nói dối với chồng. Họ nói dối với vợ. Họ nói dối với chính mình.

Published

on

moi nguoi deu noi doi

Bạn có bao giờ thắc mắc: Vì sao Trump đắc cử Tổng thống Hoa Kỳ năm 2016, dù các cuộc thăm dò ý kiến cho ra kết quả ngược lại? Ông từng lên tiếng xúc phạm rất nhiều nhóm thiểu số, và các cuộc thăm dò cho biết ít người Mỹ nào chịu bị xúc phạm như thế? Và dù rất nhiều cử tri có-vẻ-sẽ-đi-bầu cho biết họ không ưa gì ông lão da cam và cái quan điểm khó nuốt của ông ấy?

Kết quả như ai cũng biết: Trump đã có 4 năm ngồi ở chiếc ghế cao nhất nước Mỹ từ năm 2016 đến 2020. Tại sao kết quả thực tế lại khác với kết quả của những cuộc thăm dò khảo sát?

Nguyên nhân kỳ thực đơn giản, bởi vì ai cũng nói dối.

Người ta thường nói dối – với chính mình và với người khác. Người Mĩ da đen báo cáo với các cuộc thăm dò rằng họ sẽ đi bầu với số lượng lớn để chống lại Trump. Nhưng các kết quả tìm kiếm Google về thông tin bầu cử tại những vùng chủ yếu là người da đen lại rất thấp. Vào ngày bầu cử, Hilary Clinton bị thiệt hại bởi số người da đen đi bầu thấp.

Dữ liệu tìm kiếm tiết lộ rằng chúng ta sống trong một xã hội rất khác với xã hội mà giới hàn lâm và báo chí – dựa vào các cuộc thăm dò – vẫn tưởng.

*

Mọi người đều nói dối là một trong những công trình nghiên cứu mang tính cách mạng của tác giả Seth Stephens-Davidowitz về “bộ mặt thật” của Internet. Chính nhờ nguồn dữ liệu khổng lồ từ Google, Facebook,… mà Seth đã thành công trong việc khám phá ra nhiều thói quen mà đôi khi chính chúng ta cũng không nhận thức được từ những hoạt động của mình trên thế giới mạng.

Dữ liệu lớn (Big Data) là khái niệm đề cập đến hàng nghìn, hàng tá những thông tin trôi nổi trên Internet, phần nhiều lượng thông tin này được lưu chuyển từ Google cũng như các phương tiện truyền thông xã hội. Trong một thời đại mà người ta dối trá lẫn nhau, Google trở thành nơi chứa đựng những bí mật, những điều mà con người thực sự muốn nói. Khi có triệu chứng bệnh, bạn hỏi “bác sĩ Goo” xem mình bệnh gì; khi có khúc mắc tâm lý, bạn tìm lời khuyên bảo từ “phòng tư vấn Goo”.

Ừ thì chúng ta biết Google lưu trữ một lượng thông tin khổng lồ đấy, nhưng chúng ta khai thác được gì từ nó?

Tại Mỹ, bao nhiêu phần trăm nam giới là đồng tính? Bạn nên nói về điều gì trong ngày hẹn hò đầu tiên nếu bạn muốn mối quan hệ được đơm hoa? Vì sao Donald Trump đắc cử vào năm 2016 trong khi nhiều chuyên gia dự đoán rằng ông sẽ không thể trụ nổi? Các đại học danh giá có thật sự đào tạo được nhiều nhân tài hơn các trường khác không?

Nhờ khai thác dữ liệu lớn, Seth tìm được câu trả lời cho những vấn đề tồn tại trong xã hội Hoa Kỳ, từ nhỏ đến vĩ mô, từ gần gũi đến hóc búa. Mỗi câu hỏi đặt ra được tác giả lần mở thuyết phục. Một mặt ố á trước những vấn đề nan giải bỗng có lời giải, người đọc – mặt khác – rùng mình trước suy nghĩ rằng Internet biết quá rõ về những mặt sâu thẳm nhất của chúng ta, và nó sẵn sàng tiết lộ tất cả một khi được khai thác.

Người ta thường nói dối – với chính mình và với người khác.
Ảnh: Ecoblader

Mọi người đều nói dối, vậy quyển sách này nói điều gì?

Thứ nhất, đúng như tên quyển sách đã đề ra: ai cũng nói dối.

Nhiều người nói dối hoặc nói giảm nói tránh về các hành vi và suy nghĩ đáng xấu hổ của mình trên khảo sát để làm bản thân trông có vẻ tốt đẹp hơn. Và không chỉ nói dối người khác, ta còn tự lừa dối chính bản thân.

Họ nói dối số lần đi tập gym một tuần, về giá đôi giày mới mua, và cả về chuyện có đọc quyển sách mà họ đã nói hay không. […] Họ nói họ yêu bạn dù rằng họ không hề yêu. Họ nói họ vui dù rằng đang buồn chán. Họ nói họ thích phụ nữ dù thực tế họ thích đàn ông.

Tác giả chỉ ra nhiều người trả lời khảo sát rằng họ ủng hộ dân đồng tính, nhưng một khi đối tượng là con họ thì đây lại là một câu chuyện khác. Các bà mẹ giấu đi định kiến tại những cuộc thăm dò công khai, và chỉ tiết lộ sự thật ở một nơi mà họ nghĩ không ai phát hiện được – Internet. Họ có thể nói dối, chỉ có dữ liệu là không. Con người có thể nói dối, nhưng máy tính sẽ không bị đánh lừa. Một đất nước Hoa Kỳ luôn miệng kêu gọi tự do – bình đẳng – bác ái cho toàn thế giới thì làm gì có chuyện người Mỹ kì thị đồng tính? Đương nhiên, tất cả chỉ vì câu chuyện đen tối đã được khéo léo giấu đi khỏi những nguồn tin truyền thống mà thôi!

Chính vì thế, lời khuyên đúc kết là bạn không nên tin ngay tắp lự những gì người ta nói hoặc chắc chắn 100% vào những gì mình thấy trên khảo sát. Cần phải đối chiếu hành vi, đối chiếu từ nhiều nguồn thông tin khác nhau trước khi đánh giá một vấn đề nào đó.

Thứ hai, đừng rơi vào cái bẫy mang tên “nghĩ/ tưởng là đúng”. Suy nghĩ theo lối mòn mà không có sự cập nhật chỉ làm ta nhỏ bé, hạn hẹp hơn trong cái thế giới dữ liệu ngày càng trở nên khổng lồ.

Chẳng hạn, “Ảo tưởng tinh hoa”, hay elite illusion, là hiện trạng nhiều người “tưởng là” theo học tại một ngôi trường danh giá sẽ giúp ta thành công trong tương lai hơn những ngôi trường bình thường. Hãy lướt qua những trang sách của Seth và ông sẽ nói cho bạn nghe về những “ảo tưởng tinh hoa” ấy và kết quả thực tế khác nhau như thế nào. Cần hiểu rằng, những sinh viên đã tốt nghiệp ở các trường dù danh giá hay không thì xét về cơ hội việc làm hay thu nhập cá nhân đều như nhau, không chênh lệch mấy. Bởi thành công tương lai của một người còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, nhất là ở nỗ lực của bản thân, nên chúng ta không thể chỉ xét mỗi môi trường giáo dục mà đánh giá năng lực của một người được.

Thứ ba, không chỉ mỗi khoa học tự nhiên mới là thuần khoa học, khoa học xã hội cũng là khoa học đích thực. Và dữ liệu lớn chính là một nguồn thông tin quan trọng mang tính cách mạng đối với khoa học xã hội. Nó giúp chúng ta tiến gần hơn đến việc hiểu được tâm lý, suy nghĩ và hành động của con người.

Tuy nhiên, bộ não lại là một hệ thống cực kỳ phức tạp, và hành vi của chúng ta cũng thế. Vì vậy khoa học xã hội không thể có một công thức tóm tắt và ngắn gọn như E=MC2. Thay vào đó, khoa học xã hội sẽ đem đến cho chúng ta những nghiên cứu, những phát hiện cũng như khả năng xem xét nhiều khía cạnh của một vấn đề. Từ đó, ta rút ra được cái nhìn khách quan và toàn diện nhất, rồi đưa ra những cách ứng xử, dự đoán và giải pháp thích hợp.

*

Đóng quyển sách lại, đọng lại trong người viết không phải là cảm giác buồn bã thất vọng vì “mọi người đều nói dối”, thay vào đó chính là sự thích thú vì những kiến thức mới mẻ, gần gũi mà mình vừa được tiếp xúc. Điều mình thích nhất ở quyển sách là cách tác giả chia sẻ với chúng ta, không phải bằng những lý thuyết khô khan, mà với sự dí dỏm, những ví dụ và cảm nghĩ chân thật nhất của ông. Đặc biệt, Seth là một tác giả đầy hiểu biết và cực kỳ vui tính. Đến những trang cuối cùng của quyển sách ông đã tự hỏi không biết có bao nhiêu người đọc hết sách của mình. Ông tin rằng sẽ chẳng có mấy ai chú ý tới những trò chơi chữ, những ví dụ hài hước hay những đường dẫn câu từ mà ông phải trau chuốt suốt mấy năm trời để cho ra thành quả.

Thiết nghĩ, tựa sách này không hề kén người đọc vì nội dung gần gũi với thói quen, cuộc sống hằng ngày của cuộc sống. Những ai đang “lạc trôi” trong biển thông tin rộng lớn của mạng xã hội, không biết nên tin hay không tin những dòng trạng thái tâm trạng, những bức ảnh đại diện nghìn like, hay những breaking news giật gân… thì quyển sách này là thứ bạn cần.

Cái kết của quyển sách lôi cuốn và bổ ích này có thể chưng hửng với nhiều người, song là đúng nhất với tinh thần tác giả: sự hài hước phủ ngoài một bộ óc vĩ đại. Người viết cũng xin kết thúc bài viết này giống với cách Seth đã làm với đoạn cuối Mọi người đều nói dối:

“Tôi sẽ đi làm vài ba cốc bia với mấy ông bạn và thôi cạy cục viết cái kết luận chết tiệt này đây. Bởi Dữ liệu lớn đã cho tôi biết sự thật rằng, chẳng còn mấy ai đọc tới đoạn kết này.”

Hết.

Như Nguyễn

Ảnh đầu bài: bigdatadesigns

1 Comment

1 Bình luận

Viết bình luận

Cancel reply

Your email address will not be published. Required fields are marked *

Phía sau trang sách

Cánh cửa mở vào nội tâm của Maupassant

Published

on

By

Cùng với Chekhov, Guy de Maupassant từ lâu đã được suy tôn là “bậc thầy của thể loại truyện ngắn”. Điều này không chỉ bởi văn phong độc đáo, mà còn nằm ở sự đa dạng về thể loại. Trong đó Horla và những truyện ngắn khác ra mắt gần đây chính là minh chứng cho nhận định này.

Tuy chỉ viết trong vỏn vẹn có 4 thập kỷ, nhưng những di sản mà Maupassant để lại là tương đối lớn. Ông nổi tiếng nhất với các tiểu thuyết cũng như truyện ngắn mang tính hiện thực, hài hước, lãng mạn, như những tập truyện Sáng trăng, Nơi nhà người bạn

Nhà văn nổi tiếng Guy de Maupassant

Nhưng ít người biết ông cũng bén duyên với thể loại kinh dị, và nó cũng truyền cảm hứng cho nhiều tác giả sau này, trong đó có H.P.Lovecraft với Lời hiệu triệu của Cthulhu. Vừa mới ra mắt trong thời gian qua, Horla và những truyện ngắn khác tập hợp 5 tác phẩm có màu sắc kinh dị, siêu nhiên, được Maupassant viết trải dài từ năm 1875 – 1890.

Trí tưởng tượng phong phú

Trong tập truyện Horla và những truyện ngắn khác, bạn đọc có thể thấy rõ 2 giai đoạn mà Maupassant tiến hành tiếp cận thể loại kinh dị. Trong 3 truyện ngắn được viết sớm nhất là Bàn tay bị lột da (1875), Hắn? (1883) và Nỗi sợ (1884), ta đơn thuần thấy đây là một tác phẩm ẩn chứa yếu tố siêu nhiên mà vị tác giả cố gắng khai thác.

Chúng đơn giản xoay quanh những nỗi ám ảnh mà các cá nhân yếu bóng vía hay là nhạy cảm thường cảm nhận được. Chẳng hạn như trong truyện Hắn?, một người đàn ông vì bị ám ảnh bởi một bóng ma trong căn phòng của mình mà đã cưới lấy một người vợ mới, hay ở Nỗi sợ, chỉ vì trên tuyến tàu lửa khi nhìn thấy có 2 người đàn ông xuất hiện trong khu rừng vắng, mà nhân vật chính bỗng dưng cảm thấy trong mình trỗi dậy nỗi sợ chỉ vì không thể lý giải được động cơ của câu chuyện ấy…

Horla và những truyện ngắn khác là tác phẩm mới từ Maupassant

Đây đều là các nhân vật hoàn toàn tỉnh táo, họ nhận thức được những gì xảy ra và khó có thể nói họ có vấn đề riêng về tâm lý. Và vì tính hiện thực đó, Maupassant qua các tác phẩm cũng gửi gắm được bài học của mình. Chẳng hạn trong truyện Bàn tay bị lột da, thông qua nhân vật Pierre B. – một sinh viên trường luật, người xuất thân từ một trong những gia đình danh giá nhất xứ Normandie – ông đã cho thấy chỉ vì chính thói hư vinh cũng như trưởng giả mà y đã mạo phạm đến một phần thân thể của vị phù thủy, từ đó phải chịu cái chết có phần đau đớn.

Hay trong Nỗi sợ, Maupassant cũng khẳng định “cùng với những điều siêu nhiên, nỗi sợ hãi đích thực đã biến mất khỏi hành tinh này, bởi con người ta chỉ thực sự sợ những gì nằm ngoài tầm hiểu biết của mình”. Câu nói này như đại diện cho tất cả những gì ông muốn nhắm tới, về sự nhỏ bé và đầy mông muội của con người với những kỳ bí chưa được lý giải.

Như vậy những tác phẩm này đều được viết bởi một Maupassant khách quan, đứng ở bên ngoài, từ đó đưa ra những lời lý giải hoàn toàn hợp lý. Thế nhưng ở 2 truyện sau là Horla viết năm 1887 và Ai mà biết được? viết năm 1890, thì ta lại thấy có phần ngược lại, khi chính nhà văn dường như không thể thoát được cái bóng của bản thân mình.

Bi kịch của Maupassant

Hai truyện ngắn này có được điểm chung khi nhân vật chính đều là người đàn ông rơi vào loạn trí. Nhân vật chính này đã từng không dưới một lần thừa nhận chính mình như có đến 2 bản thể cùng nhau tồn tại. Một bên kêu gào giữ lại lý trí, trong khi phía còn lại đòi hỏi rất nhiều hành động mang tính tàn phá.

Sự chia đôi này gợi ta nhớ đến trường hợp của bác sĩ Jekyll và ông Hyde tương đối kinh điển trong tác phẩm nổi tiếng của Stevenson. Như vậy chủ đề của Maupassant đã chuyển từ những nỗi sợ tương đối hữu hình thành ra vô hình và khó lý giải, khi được bao bọc bởi những vấn đề có liên quan đến thần kinh cũng như tinh thần.

Tình tiết của những câu chuyện cũng khó nắm bắt. Ở Ai mà biết được?, đó là một người gần như điên loạn bởi sự xuất hiện và rồi biến mất của những vật dụng ngay trong nhà mình một cách liên tục. Còn ở Horla, đó là một sinh vật gần như trong suốt, thứ được nuôi sống bằng sữa và nước, luôn luôn theo dõi vật chủ mà nó bám theo, từ đó khiến họ “sống không bằng chết”.

Maupassant và những ám ảnh tâm trí của bản thân mình

Theo Charlotte Mandell – dịch giả của truyện ngắn này cho nhà xuất bản Melville House, thì “horla” là từ ghép của “hors” (“bên ngoài”), và “la” (“ở đó”). Vì vậy “horla” có nghĩa là “người ngoài cuộc”, “người bên ngoài”, và có thể được dịch theo nghĩa đen là “cái gì ở ngoài đó”. Thế nhưng cũng có những lý giải khác, khi nhiều người xem đây là một sự kết hợp của cụm “hors-la-loi” (tức “ngoài vòng pháp luật”) và “horsain” (có nghĩa là “thứ lạ lùng”).

Thế nhưng dù có là gì, thì Maupassant như đang cảm nhận những nỗi ám ảnh đến từ sâu hơn và khó lý giải hơn. Xét về bối cảnh của chính tác giả, thì những truyện này tương đối trùng khớp với thời kỳ mà ông có những dấu hiệu đầu tiên của chứng điên loạn, khi ông xuất hiện nhân cách kép và ngày càng gặp nhiều ảo giác do bệnh giang mai. Một năm sau đó, vào năm 1891, ông có dấu hiệu của chứng hoang tưởng.

Có thể là bởi xuất phát từ những trải nghiệm chính ông kinh qua, nên 2 truyện này trở nên chân thật và đầy ám ảnh đối với người đọc. Nếu được viết từ một người tỉnh táo, thì đây chính là tài năng của sự tưởng tượng. Nhưng với Maupassant thì đó là nỗi đau và sự sợ hãi mà bản thân ông mong muốn giải bày thông qua việc viết.

Như vậy đi từ mục đích sáng tạo ở buổi ban đầu, Maupassant dần dần chuyển sang hành động kể lại điều đã trải qua, và làm sáng tỏ chứng bệnh tâm lý mà thời kỳ đó còn bị che khuất bởi những định kiến mà những quan điểm mang tính thủ cựu. Có thể nói Horla và những truyện ngắn khác không chỉ mở ra cánh cửa khám phá một Maupassant rất khác, mà có thể nói cũng đã góp phần giúp ta hiểu được những gì đã từng xảy đến với một trong những nhà văn lớn của nhân loại.

Anh Đoàn

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tư duy tích cực tạo thành công: Chìa khóa dẫn đến sự thịnh vượng

Published

on

Tác phẩm Tư duy tích cực tạo thành công của Napoleon Hill và William Clement Stone là một cẩm nang hữu ích cho bất kỳ ai muốn đạt được thành công trong cuộc sống. Cuốn sách không chỉ cung cấp những nguyên tắc và chiến lược hiệu quả để phát triển bản thân mà còn truyền cảm hứng giúp người đọc có một thái độ tích cực hơn trong cuộc sống.

Tư duy tích cực tạo thành công là một tác phẩm kinh điển về chủ đề phát triển bản thân, đã truyền cảm hứng cho hàng triệu người trên khắp thế giới kể từ khi xuất bản lần đầu tiên vào năm 1959, khẳng định vị trí là một trong những tác phẩm self-help bán chạy nhất mọi thời đại. Cuốn sách vén màn bí mật về sức mạnh của tư duy tích cực, giúp người đọc khai phá tiềm năng bản thân và đạt được những thành tựu phi thường trong mọi lĩnh vực của cuộc sống.

Tìm kiếm hình mẫu thành công làm ngọn đuốc soi sáng

Để có thêm động lực và định hướng rõ ràng cho bản thân, tác giả gợi ý rằng người đọc có thể xây dựng cho riêng mình một hình mẫu thành công từ những câu chuyện về người thật, việc thật trong sách báo. Khi dành thời gian tìm hiểu về hành trình của họ, những khó khăn họ đã trải qua và cách họ vượt qua những thử thách đó, ta sẽ có thể biến kinh nghiệm của họ trở thành ngọn đuốc soi sáng cho con đường của chính mình.

Bên cạnh đó, người đọc còn có thể chọn một bức ảnh có ý nghĩa đặc biệt với mình để đặt câu hỏi khi nhìn bức ảnh đó rồi lắng nghe câu trả lời từ chính tâm thức bật ra. Bức ảnh ấy có thể là hình ảnh về mục tiêu ta muốn đạt được, về một giá trị sống mà ta trân trọng, hoặc đơn giản là một khoảnh khắc đẹp trong cuộc sống. Chẳng hạn, nếu người đọc muốn mua nhà nhưng chưa có đủ tài chính thì có thể chọn bức ảnh về một mái ấm khang trang để ngắm nhìn và tự đặt câu hỏi rằng mình phải làm gì để đạt được số tiền sở hữu căn nhà đó. Không phải lúc nào câu trả lời cũng đến ngay lập tức, nhưng việc cụ thể hóa mục tiêu bằng một hình ảnh rõ ràng sẽ giúp người đọc tăng cường ý chí nỗ lực.

Ngoài ra, niềm tin chính là nguồn động lực mạnh mẽ giúp mỗi người vượt qua mọi khó khăn và chinh phục mục tiêu. Trong Tư duy tích cực tạo thành công, có một công thức thường được lặp lại nhiều lần để người đọc ghi nhớ là: “Khi con người người nghĩ đến và tin tưởng vào điều gì, họ sẽ có thể đạt được điều đó với thái độ tích cực.” Đây cũng là một biện pháp tự truyền cảm hứng.

Hai mặt của tình thế bức bách: Thành công hay tội ác?

Tư duy tích cực tạo thành công nhấn mạnh tầm quan trọng của tính lương thiện trong hành trình chinh phục thành công. Cuốn sách khẳng định rằng thành công đích thực không chỉ dựa trên kết quả mà còn phải dựa trên phương tiện đạt được kết quả đó. Một người có thể đạt được thành công bằng mưu mô, thủ đoạn, nhưng đó chỉ là thành công giả tạo, thiếu bền vững và không mang lại hạnh phúc thực sự.

Ngoài ra, tác giả cũng bàn về vai trò của tình thế bức bách: nó như một con dao hai lưỡi, có thể đưa con người đến đỉnh cao thành công hoặc vực sâu tội ác. Tình thế bức bách là phép thử cho bản lĩnh, đạo đức và thái độ của mỗi cá nhân. Khi đó, thành công hay thất bại đều tùy thuộc vào thái độ:

Thái độ tích cực: Khi đối mặt với nghịch cảnh, người có thái độ tích cực sẽ biến nó thành cơ hội để học hỏi, rèn luyện và phát triển bản thân. Họ kiên trì nỗ lực, tìm kiếm giải pháp sáng tạo và không bao giờ bỏ cuộc. Nhờ vậy, họ có thể vượt qua mọi khó khăn và gặt hái thành công.

Thái độ tiêu cực: Ngược lại, người có thái độ tiêu cực sẽ dễ dàng gục ngã trước nghịch cảnh. Họ chìm trong lo âu, sợ hãi, nghi ngờ bản thân và tìm kiếm lối thoát bằng những hành vi sai trái. Hậu quả là họ đánh mất bản thân, vướng vào vòng xoáy tội ác và tự hủy hoại cuộc đời.

Từ đó, cuốn sách đưa ra hai công thức đơn giản nhưng đầy ý nghĩa:

Tình thế bức bách + Thái độ tích cực = Thành công
Tình thế bức bách + Thái độ tiêu cực = Tội ác.

Cân bằng cảm xúc, rèn luyện tư duy và đặt mục tiêu hiệu quả

Cảm xúc và lý trí đóng vai trò quan trọng trong cuộc sống, mỗi người cần học cách cân bằng hai yếu tố này để đưa ra những quyết định sáng suốt. Đôi khi, ta cũng nên lắng nghe tiếng nói con tim và hành động theo những gì mình mong muốn. Chẳng hạn, khi phải lựa chọn giữa một công việc ổn định và theo đuổi đam mê, ta cần cân nhắc kỹ lưỡng cả hai yếu tố cảm xúc và lý trí: ta thường dùng lý trí để đánh giá khả năng thực tế của bản thân, nhưng cũng đừng quên lắng nghe tiếng nói con tim.

Bên cạnh đó, tác giả cho rằng mỗi ngày, chúng ta chỉ cần dành 1% thời gian để nghiên cứu, suy nghĩ, lập kế hoạch là đã có nhiều cơ may tạo ra sự khác biệt để vươn đến thành công. Theo ước tính, một ngày có 1440 phút, 1% sẽ tương ứng với 14 phút. Trong 14 phút đó, nếu ta chú tâm suy nghĩ kế hoạch cho những gì mình muốn làm, ta sẽ dần hình thành được thói quen có thể suy nghĩ sáng tạo mọi lúc, mọi nơi: khi rửa chén, lúc ngồi trên xe bus, hay thậm chí là khi đang tắm.

Ngoài ra, đặt mục tiêu là bước đầu tiên và quan trọng nhất trên kế hoạch chinh phục thành công. Mục tiêu rõ ràng sẽ giúp bạn tập trung nỗ lực, đưa ra quyết định sáng suốt và duy trì động lực để đạt được ước mơ. Tuy nhiên, không phải ai cũng biết cách đặt mục tiêu hiệu quả. Dưới đây là bốn điều quan trọng cần ghi nhớ khi đặt mục tiêu:

1. Viết mục tiêu ra giấy: Khi viết mục tiêu ra giấy, bạn sẽ buộc bản thân phải suy nghĩ cẩn thận về những gì mình muốn đạt được. Việc này giúp bạn tập trung và ghi nhớ mục tiêu tốt hơn.

2. Đặt mốc thời gian: Mốc thời gian giúp bạn chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn, dễ quản lý hơn. Việc này giúp bạn có động lực để hoàn thành từng bước và tiến đến mục tiêu cuối cùng.

3. Đặt tiêu chuẩn thật cao: Khi đặt tiêu chuẩn cao, bạn sẽ buộc bản thân phải nỗ lực hết mình và phát huy tiềm năng tối đa.

4. Đặt mục tiêu cao: Mục tiêu cao sẽ giúp bạn có tầm nhìn xa và thúc đẩy bạn không ngừng phát triển.

Nhìn chung, Tư duy tích cực tạo thành công đã mang đến cho người đọc những bài học quý giá về sức mạnh của tư duy tích cực trong việc gặt hái thành công và hạnh phúc. Hãy nhớ rằng, thành công không phải là đích đến mà là hành trình. Hành trình chinh phục thành công bắt đầu từ việc nuôi dưỡng tư duy tích cực. Ta cần tin tưởng vào bản thân và những điều kỳ diệu mà cuộc sống có thể mang lại. Từ đó, ước mơ sẽ thành hiện thực bằng chính những hành động mà ta lựa chọn ngay từ hôm nay.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Phía sau trang sách

Tình yêu đích thực từ góc nhìn của Thiền sư Thích Nhất Hạnh

Published

on

Trong vô vàn những định nghĩa về tình yêu, quan điểm của Thiền sư Thích Nhất Hạnh về “tình yêu đích thực” được trình bày trong cuốn tiểu luận True Love đã mang đến một sự giản dị, mộc mạc nhưng lại ẩn chứa sức mạnh lay động tâm hồn sâu sắc.

Tình yêu là một trong những chủ đề muôn thuở của nhân loại, luôn ẩn chứa sức hút mãnh liệt và khơi gợi những cảm xúc dạt dào. Nhưng không phải ai cũng hiểu được bản chất của tình yêu. Trong True Love, Thiền sư Thích Nhất Hạnh đã kể lại câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương, rồi từ đó rút ra một kết luận mà thoạt nghe sẽ có vẻ vô cùng đơn giản nhưng càng ngẫm nghĩ thì ta càng thấy sự đơn giản ấy chính là vẻ đẹp của minh triết.

Thông điệp ý nghĩa từ ba câu khẳng định trong tình yêu

Đối với thầy, câu chuyện Thiếu phụ Nam Xương có kết cuộc đau lòng là vì người chồng đã không chịu lắng nghe người vợ, anh cứ gạt phăng lời vợ nói, cơn nóng giận đã che mờ tình yêu và cả lí trí. Vợ anh cũng đã không cố gắng hơn để giải thích rõ ràng cho anh hiểu. Chính vì vậy, cả hai người đều không thực sự hiện diện khi ở trước mặt đối phương, họ ở đó nhưng không thực sự ở đó, mà ở trong khoảnh khắc khác, trong những chiều không gian khác. Bi kịch của họ đơn giản chỉ là như thế.

Từ đó, Thiền sư Thích Nhất Hạnh rút ra kết luận là tình yêu thực sự chỉ đơn giản nằm gói gọn trong ba câu sau đây: “Anh ở đây. Em ở đây. Và anh ở đây vì em.” (I’m here. You’re here. And I’m here for you.)

Câu khẳng định đầu tiên mang hàm ý rằng anh đang ở đây ngay giây phút này khi đối diện với em, bằng trăm phần trăm con người anh, không hề có sự tản mác, phân mảnh đi bất cứ nơi đâu. Một điều tưởng chừng đơn giản nhưng thực ra trong cuộc sống bộn bề lo toan này, việc một người có thể tập trung hoàn toàn tinh lực của mình khi đối diện trước một người mà không bị vướng bận tâm trí bởi điều gì khác cũng thật khó khăn.

Câu khẳng định thứ hai là sự tiếp nối ý từ câu đầu tiên. Anh ở đây, và em cũng đang ở đây. Anh ghi nhận sự tồn tại của em, em ghi nhận sự tồn tại của anh. Vì em cũng đang ở đây cùng anh trong giây phút này nên em không cô đơn, em không tản mác, em không phân mảnh.

Câu khẳng định cuối cùng là một sự quả quyết mạnh mẽ: Anh ở đây, anh dành hết trăm phần trăm sự tồn tại của mình ở đây là vì chính em, không vì ai khác cả. Vậy nên, em có thể yên tâm mà thổ lộ tất cả mọi điều với anh, vì trong giây phút này, hai ta đều cùng hiện diện.

Thông qua đó, ba câu khẳng định này có thể diễn dịch lại thành thông điệp phổ quát như sau:

“I’m here”: Khẳng định sự hiện diện trọn vẹn của bản thân, tập trung toàn bộ sự chú ý và tinh thần vào người mình yêu thương. Trong cuộc sống bận rộn, việc dành trọn vẹn tâm trí cho đối phương là điều không dễ dàng, nhưng lại vô cùng quan trọng để xây dựng một mối quan hệ bền vững.

“You’re here”: Ghi nhận sự tồn tại của đối phương, trân trọng và thấu hiểu cảm xúc, suy nghĩ của họ. Khi cả hai cùng “ở đây”, họ sẽ cảm nhận được sự kết nối sâu sắc, chia sẻ và đồng hành trong từng khoảnh khắc.

“And I’m here for you”: Thể hiện sự cam kết, dành trọn vẹn tình yêu và sự quan tâm cho người mình yêu thương. Lời khẳng định này mang đến sự an toàn, tin tưởng và là động lực để cả hai cùng vượt qua mọi khó khăn trong cuộc sống.

Ba câu khẳng định tưởng chừng đơn giản nhưng lại là chìa khóa cho một tình yêu đích thực. Khi cả hai cùng thực hiện được điều này, họ sẽ tạo dựng được một mối quan hệ bền chặt, hạnh phúc và viên mãn.

Chìa khóa cho một mối quan hệ tốt đẹp

Để thực sự “ở đây”, mỗi người cần học cách chánh niệm, tập trung vào hiện tại, gạt bỏ những lo toan, phiền muộn và dành trọn vẹn sự chú ý cho đối phương. Khi ta thực sự “ở đây”, ta sẽ cảm nhận được trọn vẹn vẻ đẹp của người mình yêu thương, thấu hiểu những cảm xúc và suy nghĩ của họ. Tình yêu đích thực không chỉ là những khoảnh khắc lãng mạn, mà còn là sự cam kết và hy sinh cho nhau. Khi yêu thương ai đó, ta sẵn sàng dành thời gian, tâm sức và cả những hy sinh để cùng nhau xây dựng hạnh phúc.

Giao tiếp là yếu tố quan trọng trong bất kỳ mối quan hệ nào. Lắng nghe cởi mở và thấu hiểu là cách để hai người kết nối tâm hồn, chia sẻ những cảm xúc, suy nghĩ và vun đắp tình cảm ngày càng sâu sắc.

Tình yêu đích thực không phải là điều viển vông hay khó kiếm tìm. Nó ẩn chứa trong chính những khoảnh khắc bình dị của cuộc sống, chỉ cần ta biết trân trọng và gìn giữ. Ba câu khẳng định của Thiền sư Thích Nhất Hạnh là lời nhắc nhở nhẹ nhàng nhưng sâu sắc về cách để vun đắp và nuôi dưỡng một tình yêu thương bền chặt, viên mãn.

Hoàng Đức Nhiên

Đọc bài viết

Cafe sáng